Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Báo cáo thuc tập Đào tạo nghiệp vụ luật sư Dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.29 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÁO CÁO THỰC TẬP
Lĩnh vực: Dân sự


NHẬT KÝ THỰC TẬP
Thời gian
(Từ 01/7 01/7/2015

Nội dung công việc
Địa điểm
Ghi chú
Đến Công ty Luật TNHH MTV - Công ty Luật

đến

đến

Công Phúc

TNHH

MTV

30/7/2015).

04/7/2015

Nghiên cứu các văn bản pháp luật Công Phúc.


- Trụ sở: số 21
ngõ
Vương

9,

phố
Thừa

Vũ, quận Thanh
06/07/2015

Xuân, Hà Nội
Nghiên cứu các hồ sơ tại công ty Tại trụ sở Công

đến

luật

08/7/2015
09/07/2015

hiện.
1. Quan sát luật sư tiếp xúc ban Tại trụ sở Công

đang trong quá trình thực ty Luật

đầu với khách hàng, tư vấn pháp ty Luật
luật cho khách hàng.
2. Nghiên cứu các hồ sơ tại Công

ty luật đang trong quá trình thực
10/07/2015

hiện.
Quan sát luật sư tiếp xúc, trao đổi Tại trụ sở công

đến

và tư vấn pháp luật cho khách ty Luật

11/07/2014
12/07/2015

hàng
1. Trợ giúp Luật sư thực hiện tư Tại trụ sở công

đến

vấn khách hàng trong lĩnh vực ty Luật

15/07/2015

dân sự


2. Thực hiện các công việc được
Luật sư giao:
- Tìm hiểu các quy định của pháp
luật điều chỉnh.
- Đề xuất đến Trưởng văn phòng

các nội dung dự định sẽ trình bày
trước khách hàng.
- Soạn Đơn ly hôn theo yêu cầu
của khách hàng
16/07/2015

Nghiên cứu các hồ sơ tại Văn Tại trụ sở công

đến

phòng luật sư đang trong quá ty Luật

29/07/2015
30/07/2015

trình thực hiện.
Nghỉ làm ngày chủ nhật.
Kết thúc thời gian tập sự hè.


Báo cáo tập sự tại Tổ chức hành nghề luật sư từ ngày 01/7/2014 đến ngày
30/7/2014.
A. NỘI DUNG BÁO CÁO
I. Lĩnh vực thực tập:
Thực tập lĩnh vực dân sự dựa trên cơ sở hồ sơ vụ việc của khách hàng
II. Địa điểm tập sự.
- Công ty Luật TNHH MTV Công Phúc.
- Trụ sở: số 21 ngõ 9, phố Vương Thừa Vũ, quận Thanh Xuân, Hà Nội
Giám đốc: Ths, Luật sư Hồ Ngọc Hải
III. Thời gian tập sự.

Từ 01/7/2015 đến 30/7/2015.
IV. Quá trình tập sự.
1. Nội dung vụ việc.
Tóm tắt:
Ngày 08/7/2015, khách hàng Nguyễn Văn Lâm, sinh năm 1978, có địa chỉ tại
số nhà 12 Ngô Thì Nhậm, phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh
Hóa (Sau đây gọi là khách hàng) đến Công ty Luật TNHH MTV Công Phúc yêu
cầu tư vấn pháp luật.
Khách hàng trình bày: Năm 2005, khách hàng quen biết và kết hôn với chị Lê
Thị Oanh (Sinh năm 1980, địa chỉ: 550 Hải Thượng Lãn Ông , phường Đông Vệ,
thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Việc kết hôn tuân thủ đúng quy định của
pháp luật. Đến nay, qua quá trình chung sống với nhau, khách hàng và chị Oanh
thường xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi, dẫn tới tình trạng không còn tình cảm để gắn
bó với nhau. Khách hàng mong muốn được ly hôn và chia tài sản chung, vấn đề
con chung do chị Oanh chăm nuôi.
2. Thực hiện nghiên cứu hồ sơ.
a. Các yêu cầu của luật sư :
- Nghiên cứu nội dung sự việc.
- Thực hiện tra cứu văn bản pháp luật điều chỉnh.
- Đề xuất các nội dung trả lời khách hàng.
- Soạn thảo Đơn xin ly hôn (có đính kèm tại báo cáo này).
b. Giải quyết các yêu cầu.
- Nghiên cứu nội dung sự việc:
Quá trình nghiên cứu nội dung sự việc, học viên xin đưa ra các nội dung đã tìm
hiểu, nghiên cứu như sau:


Thứ nhất, trên đây là nội dung sự việc liên quan đến quan hệ hôn nhân - thuộc
sự điều chỉnh của quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình. Học viên nghiên
cứu sự việc trên dựa trên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Thứ hai, qua nghiên cứu, học viên xác định các vấn đề sau:
- Về quan hệ nhân thân của khách hàng: Đăng ký kết hôn ngày 20/7/2005, thủ
tục kết hôn đúng pháp luật. Khách hàng mong muốn được ly hôn, vợ khách hàng
không đồng thuận ly hôn. Vì vậy, trường hợp của khách hàng là ly hôn không
thuận tình.
- Về con chung: Khách hàng và vợ của khách hàng có 02 con chung. Con gái
đầu tên Nguyễn Huyền Mai, sinh năm 2006. Con trai thứ hai tên Nguyễn Anh Văn,
sinh năm 2000.
- Về tài sản chung: Khách hàng và vợ sau khi kết hôn, về sinh sống cùng gia
đình bên vợ, tại địa chỉ: Số nhà 550 Hải Thượng Lãn Ông, phường Đông Vệ, thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình chung sống, hai vợ chồng khách hàng
dành giụm và mua được một mảnh đất tại địa chỉ: Thôn Thành Yên, phường
Quảng Thành, thành phố Thanh Hóa (Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 220111, đứng tên
Nguyễn Văn Lâm và Lê Thị Oanh, cấp ngày 01/04/2014, diện tích 90m², trị giá
khoảng 500.000.000 VNĐ ). Ngoài ra không còn tài sản chung nào khác.
Thứ ba, nguyện vọng của khách hàng là mong muốn được ly hôn vì tình cảm
nay đã không còn, vấn đề con cái do chị Lê Thị Oanh nuôi và chấp nhận cấp tiền
hàng tháng.
c. Kết quả thực hiện.
Sau khi rà soát các văn bản pháp luật điều chỉnh, trên:
- Căn cứ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
- Trên cơ sở yêu cầu của khách hàng.
Luật sư trả lời những nguyện vọng, mong muốn của khách hàng dựa trên
những đề xuất, góp ý từ học viên:
Thứ nhất, luật sư đã đưa ra những quan điểm, lý lẽ để làm thay đổi ý định ly
hôn của khách hàng, mong muốn khách hàng bỏ qua những mâu thuẫn của vợ
chồng mà nghĩ tới con cái. Con cái là máu mủ ruột thịt của cha mẹ, bố mẹ chia tay
làm ảnh hưởng đến suy nghĩ, lối sống và thói quen của chúng sau này. Hãy nghĩ
đến những đứa con của mình mà quyết định vấn đề hôn nhân gia đình. Tuy nhiên,

khách hàng kiên quyết mong muốn được ly hôn.
Thứ hai, giải quyết những thắc mắc của khách hàng.
- Khách hàng được quyền ly hôn.
Khách hàng có đăng ký kết hôn với vợ, quá trình chung sống không hòa thuận,
nay không thể tiếp tục cuộc sống chung với nhau. Đồng thời, các con của khách
hàng đã trên mười hai tháng tuổi, vợ khách hàng không mang thai (Theo thông tin
khách hàng cung cấp), vì vậy khách hàng không thuộc trường hợp bị hạn chế
quyền yêu cầu xin ly hôn theo khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014.
- Về tài sản chung.


Tài sản chung của khách hàng và vợ là một mảnh đất tại thôn Thành Yên,
phường Quảng Thành, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa trị giá khoảng
500.000.000 VNĐ. Đây là tài sản có được của cả hai vợ chồng, đều đứng tên hai
người. Theo nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng - Điều 59 Luật Hôn nhân
gia đình 2014 thì khách hàng và vợ mỗi người một nửa bằng nhau giá trị mảnh đất
nêu trên.
- Về con chung:
Tại thời điểm, các con chung của khách hàng đều đã trên ba tuổi. Vì vậy, việc
định đoạt xem ai nuôi con do khách hàng và vợ thỏa thuận. Ngoài ra, nếu mong
muốn của khách hàng là để vợ nuôi các con thì khách hàng hàng tháng phải chu
cấp một khoản tiền cho 2 cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
- Về các khoản nợ của vợ chồng:
Khách hàng và vợ theo thông tin cung cấp là không có khoản nợ chung nào
nên luật sư không tư vấn nội dung này.
- Về thủ tục ly hôn.
Luật sư tư vấn cho khách hàng thủ tục xin ly hôn như sau:
+ Các giấy tờ làm thủ tục xin ly hôn:
Mẫu đơn xin ly hôn.

Bản sao Chứng minh nhân dân, Hộ khẩu của vợ chồng.
Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.
Bản sao giấy khai sinh của các con
Bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số BC 220111 thuộc sở hữu chung của khách hàng và vợ,
+ Nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa.
V. Kinh nghiệm và bài học có được sau khi nghiên cứu hồ sơ, lắng nghe
luật sư tư vấn khách hàng trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.
- Lời chào, những cử chỉ thân thiện là tiền đề cho cuộc gặp gỡ với khách hàng
được thuận tiện.
- Khi khách hàng trình bày nội dung sự việc và bày tỏ mong muốn của mình,
cần chú ý lắng nghe. Những tình tiết chưa rõ thì sau khi nghe xong cần phải hỏi lại
khách hàng để rõ hơn các tình tiết đấy.
- Hiểu, nắm bắt được hết các nội dung, yêu cầu của khách hàng thì luật sư mới
thực hiện tư vấn pháp luật được.
- Mục đích mà luật sư hướng tới trong vụ việc này không phải là có được hợp
đồng dịch vụ pháp lý, mà là hướng tới sự gắn bó lại giữa các thành viên trong gia
đình khách hàng hoặc giải đáp cho khách hàng những thắc mắc, trăn trở về vấn đề
pháp lý liên quan đến nội dung sự việc.
- Ngoài những vấn đề về pháp lý thì luật sư cần tư vấn thêm cho khách hàng
các vấn đề về tình cảm gia đình, xã hội.
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 7 năm 2015
NGƯỜI BÁO CÁO:


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Thanh Hóa, ngày ...... tháng ..... năm 2015


ĐƠN LY HÔN
Kính gửi:

Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa.

Tôi tên là: NGUYỄN VĂN LÂM
Sinh năm: 1978
CMND số: 171212254, cấp ngày 21/05/2006 tại Công an tỉnh Thanh Hóa.
Hộ khẩu thường trú : 550 Hải Thượng Lãn Ông, phường Đông Vệ, thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Nay tôi làm đơn này xin được Tòa giải quyết ly hôn với:
Bà: LÊ THỊ OANH
Sinh năm: 1980
CMND số: 170212352, cấp ngày 12/12/2013 tại Công an tỉnh Thanh Hóa.
Hộ khẩu thường trú: 550 Hải Thượng Lãn Ông, phường Đông Vệ, thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Hiện cư trú tại: 550 Hải Thượng Lãn Ông, phường Đông Vệ, thành phố Thanh
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Xin trình bày tới quý tòa nội dung sự việc như sau:
Ngày 12/4/2005, tôi và chị Lê Thị Oanh kết hôn với nhau, được UBND
phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
ngày 03/04/2005. Thời gian đầu khi mới lấy nhau chúng tôi sống rất hòa thuận,
hạnh phúc. Sau khi sinh cháu bé thứ nhất là bé gái Nguyễn Huyền Mai thì vợ
chồng xảy ra mâu thuẫn, càng ngày mâu thuẫn càng lớn. Hiện tại chúng tôi đã ăn
riêng, không ở cạnh nhau nữa.Vì hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn nghiêm trọng,
hạnh phúc gia đình không còn, xác định không thể tiếp tục được. Quá trình chung
sống đến nay chúng tôi gây dựng được:
* Con chung :
Tháng 6-2006: Con gái đầu lòng Nguyễn Huyền Mai.
Tháng 10-2010: Con trai Nguyễn Anh Văn

* Tài sản chung :


Trong quá trình chung sống, vợ chồng tôi đã mua được một mảnh đất rộng 90m2,
tại thôn Thành Yên, phường Quảng Thành, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
trị giá 500.000.000 VNĐ (Năm trăm triệu đồng).
* Nợ chung:
Hai vợ chồng chúng tôi không ai có nợ chung.
Yêu cầu của tôi như sau :
1. Về tài sản:
Chia đôi giá trị tài sản mảnh đất mà tôi và cô Lê Thị Oanh đã góp sức mua được
trong thời kỳ hôn nhân. Ai lấy đất thì phải trả tiền cho người kia.
2. Về nuôi con :
Tôi chấp nhận để cô Lê Thị Oanh nuôi 2 đứa con, hàng tháng tôi đồng ý cấp
dưỡng cả 2 cháu là 4 triệu đồng cho tới khi các cháu đủ 18 tuổi. Tôi trả tiền cấp
dưỡng hàng tháng vào tài khoản của cô Lê Thị Oanh tại ngân hàng TMCP Á Châu
– Chi nhánh Thanh Hóa.
Nay tôi làm đơn này kính mong Quí Tòa xem xét, giải quyết nguyện vọng của
tôi, theo quy định của pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người làm đơn
(ký, ghi họ tên)
Đính kèm :
- Giấy Chứng nhận kết hôn (bản chính).
- Giấy khai sinh cháu Nguyễn Huyền Mai
và Nguyễn Anh Văn.
- Hộ khẩu, CMND Anh, Oanh ( bản sao).
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số BC 220111.



B. NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
• TIẾP XÚC VỚI KHÁCH HÀNG
• Tạo sự tin cậy từ phía khách hàng:
Trước hết luật sư làm quen nắm bắt sơ sơ bộ một số thông tin cơ bản về nhân
thân, cũng như lý do ông Hùng tìm đến VPLS.
Qua đó, luật sư sẽ phải nắm được ông Hùng là ai và đang cần luật sư giúp đỡ
hay cung cấp dịch vụ pháp lý gì. Ngược lại, phía luật sư chúng tôi cũng sẽ giới
thiệu sơ bộ nhưng hết sức cơ bản về VPLS cũng như những luật sư trực tiếp tiếp
xúc khách hàng để ông Hùng đến đây sẽ hoàn toàn yên tâm và được cung cấp tất
những gì tốt nhất trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Ngoài ra, trong quá trình giao tiếp ban đầu luật sư cần tạo được không khí
thân thiện, gần gũi, sẻ chia, biết lắng nghe và bày tỏ sẵn sàng giúp đỡ, phối hợp với
ông Hùng bằng “cả trái tim”.
• Nắm bắt thông tin vụ việc:
Luật sư chúng sẽ đề nghị ông Hùng tóm tắt về vụ việc tranh chấp và nguyện vọng
của mình. Trong quá trình khách hàng nói về vụ việc của mình, phía luật sư chúng
tôi sẽ ghi chép và dần hình thành trong đầu những câu hỏi, thắm mắc để sau đó
hướng khách hàng đi vào trọng tâm vụ việ
.Tiếp đến là quá trình sử dụng tài sản, diễn biến quá trình sử dụng đất từ thời điểm
nhận di sản thừa kế đến nay. Trong vụ việc tranh chấp này có những ai liên quan
và quan điểm của họ như thế nào
Xem xét toàn bộ giấy tờ, tài liệu mà khách hàng mang theo. Đó chính là Chúc
thư, Giấy chứng nhận QSDĐ, biên bản thỏa thuận của gia đình, biên bản hòa giải
do UBND xã chủ trì, những lời xác nhận của hàng xóm láng giềng…
• TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC
9



Theo chúc thư của cụ Nguyễn Thị Mơ (Mẹ đẻ ông Hùng và ông Trí) thì cụ bà
này đã chia tài sản là mảnh đất cho 2 con trai, cụ thể, ông Trần Minh Trí được
hưởng căn nhà ngói 3 gian và thửa đất quanh nhà (nay là thửa đất số 617, không kể
ao, có diện tích 352m2). Còn ông Trần Việt Hùng được chia thửa đất gần cổng, kể
từ rãnh nước ra đến ngõ xóm (nay là thửa đất số 618 có diện tích 207m2).
Cũng theo chúc thư của cụ Mơ, ông Trí phải mở ngõ đi riêng thông ra ngõ đi
của gia đình cụ Trần Minh Năm (là em ruột cụ Trần Minh Tứ, chồng cụ Mơ). Tuy
nhiên sau đó, ông Trí xin ông Hùng cho được đi chung cổng cũ bằng một lối đi
nằm hoàn toàn trên khuôn viên đất của ông Hùng và ông này đã đồng ý. Theo đó,
ông Hùng đã để ra 1,8m đất (theo chiều rộng) để làm ngõ đi chung thông từ nhà
ông Trí ra cổng gạch của nhà ông Hùng. Do đang công tác ở Hải Dương nên ông
Hùng đã làm hàng rào tre bao quanh thửa đất của mình và nhờ anh trai trông nom
hộ. Sau khi nghỉ hưu, ông Hùng chuyển hộ khẩu về Hà Nội, ông Trí đã lập văn bản
trả đất cho ông Hùng (T12).
Vì thời gian đã lâu và do hiện trạng sử dụng đất của gia đình ông Trí thay đổi
nhiều, lấp ao nên ngày 15-5-1993 5 anh chị, em nhà ông Hùng đã họp gia đình và
thống nhất các vấn đề sau:
• Về ngõ đi chung từ cổng vào, diện tích 45m 2 (do ông Hùng nể anh mà đồng
ý cắt ra từ phần đất của mình lập thành ngõ đi chung cho ông Trí cùng sử dụng):
Xây tường bao từ mép cổng song song với tường nhà bà Nguyễn Trương, kéo dài
tới tường hậu căn nhà cấp 4 của ông Trí.
• Về mảnh đất đầu hồi nhà bà Nguyễn Trương, diện tích khoảng 19m2, “lấy
mốc là gốc cây ổi, kẻ song song với tường nhà bà Nguyễn Trương là đường ranh
giới”.
Năm 1993, ông Hùng nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Năm 1994, ông Hùng và ông Trí được UBND huyện Thanh Trì cấp “ Sổ đỏ”
cùng một ngày. Theo trích lục bản đồ vẽ trong Sổ đỏ:
• Thửa đất của ông Hùng mang số hiệu 618, diện tích 207m2.
10



• Thửa đất của ông Trí mang số hiệu 617, diện tích 852m 2, bao gồm cả cái ao
500m2. Theo trích lục bản đồ vẽ trong Sổ đỏ của ông, tỷ lệ 1/1000, ngõ đi chung
chỉ rộng 2m.
Năm 1995, trên cơ sở nội dung đã thống nhất ở cuộc họp gia đình ngày 15-51993, ông Hùng cho xây tường bao, song gia đình ông Trí ngăn cản, không cho
xây, buộc ông Hùng phải cho xây tường chéo đi, hình thang, đầu ngoài rộng cỡ
2,5m, đầu trong rộng đến 3,5m như hiện nay. Trên tường bao, vẫn có để một cổng
mở ra ngõ đi chung từ nhà ông Trí ra cổng gạch cũ. Sau đó, năm 1998, ông Hùng
cho xây nhà trên thửa đất được thừa kế và sống ở đó cùng gia đình cho đến nay.
Năm 1998, khi xã tiến hành đo lại đất, chuẩn bị cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, gọi tắt là “ Giấy hồng”, ông Trí và ông Hùng
đã cùng lập tờ khai về nhà đất của mình và cùng ký vào 2 tờ khai của 2 người,
cùng xác nhận có ngõ đi chung diện tích 45m 2. Thế rồi, ông Hùng lại tổ chức cuộc
họp gia đình lần thứ 2 để thống nhất ranh giới và cuộc họp đã thống nhất “ngõ đi
chung giữa 2 thửa đất 614 và 618 (đất của ông Hùng theo bản đồ năm 1994)… dài
17m”. Tất cả mọi người tham gia đều ký vào biên bản cuộc họp này. Kể từ thời
điểm ấy, hai bên sử dụng ngõ đi chung yên ổn cho đến cuối năm 2011, khi ông
Hùng cho xây thêm một căn nhà trên phần đất liền kề với ngõ chung lấy chỗ ở cho
con út thì phát sinh tranh chấp. Cụ thể là gia đình ông Trí không cho ông Hùng xây
cổng đi ra lối này.
Ngày 13/2/2013, UBND phường đưa giấy mời ông Hùng và ông Trí “ đến dự
buổi hòa giải về tranh chấp ranh giới sử dụng đất giữa gia đình ông Hùng và gia
đình ông Trí” (trích giấy mời của phường tại trụ sở UBND phường. Tại cuộc họp,
hai người đều xuất trình “ Sổ đỏ” được cấp năm 1994, riêng của ông Hùng còn
xuất trình thêm một số giấy tờ trong đó ông Trí ký xác nhận ngõ đi là ngõ chung
nhưng trên trích lục bản đồ ở Sổ đỏ của ông Trí, ngõ đi lại được vẽ là ngõ đi
riêng? Vụ việc đã trải qua nhiều lần hòa giải nhưng mâu thuẫn giữa 2 gia đình
kéo dài cho đến nay.

11



Với diễn biến vụ việc nêu trên, ông Trần Việt Hùng tìm đến VPLS chúng tôi
yêu cầu tư vấn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, qua tiếp
xúc với ông Hùng chúng tôi nhận thấy, đồng thời đề nghị khách hàng cung cấp
thêm một số tài liệu liên quan như: Biên lai đóng thuế sử dụng thửa đất số 618;
Biên bản cuộc họp gia đình (lần 1) và Giấy chứng nhận QSDĐ đất của gia đình
ông Trí…
• MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG VỤ VIỆC
•Tranh chấp hiện tại và bao trùm là ngõ đi chung:
Có thể thấy trong vụ việc này, vấn đề ông Hùng đặt ra và rất cần được giải
quyết ổn thỏa chính là cái ngõ mà theo ông này nó vốn là lối đi chung giữa hai gia
đình trong suốt nhiều chục năm qua. Và theo hồ sơ phản ánh thì nguồn gốc đất,
hiện trạng sử dụng đất và các giấy tờ tài liệu đều thể hiện đối tượng phát sinh tranh
chấp hiện nay chính là lối đi chung của cả 2 gia đình. Thậm chí, nếu làm rõ ngọn
ngành thì đó còn là đất của gia đình ông Hùng, gia đình ông Trí không có quyền sử
dụng.
•Việc cấp “sổ đỏ” cho gia đình ông Hùng và ông Trí có sai sót:
Theo lời trình bày của ông Hùng cũng như giấy tờ về nhà đất thể hiện, trên
cùng một thửa đất được chia tách làm hai phần và cùng được cấp ở một thời điểm
nhưng nội dung ở trên tấm “sổ đỏ” mới lại có sự không tương thích, thậm chí là
trái ngược nhau. Cụ thể là ở chỗ, trên “sổ đỏ” của gia đình ông Trí thể hiện ngõ đi
đang tranh chấp hiện nay là ngõ đi riêng của gia đình ông này. Trong khi đó, trên
“sổ đỏ” của gia đình ông Hùng lại thể hiện, đó là lối đi chung giữa hai gia đình.
Mặt khác xét về nguồn gốc cũng như diễn biến sử dụng đất đai giữa hai nhà thì lối
đi đang phát sinh tranh chấp hoàn toàn là lối đi chung. Do đó, có thể thấy ở góc độ
khác, ông Hùng hoàn toàn có quyền khởi UBND huyện Thanh Trì trong việc cấp
Giấy chứng nhận QSDĐ trái quy định và không đúng với thực tế khách quan.
•Phân chia di sản không đúng với di nguyện của cụ Mơ:


12


Cũng theo hồ sơ vụ việc thì việc phân chia di sản thừa kế của hai anh em ông
Trí và ông Hùng đã không đúng với di nguyện của cụ Nguyễn Thị Mơ (người để
lại di sản). Bằng chứng rõ nhất là trong Chúc thư của người để lại di sản khẳng
định, gia đình ông Trí phải mở lối đi riêng ra đường xóm, men theo phía gia đình
cụ Tứ. Từ đó có thể thấy phía gia đình ông Hùng hoàn toàn có thể đề nghị Tòa án
xem xét lại việc phâ chia di sản thừa kế, một khi ông Hùng muốn.
• KẾ HOẠCH XỬ TRÍ VỤ VIỆC
Với thực tế cũng như diễn biến vụ tranh chấp nêu trên và căn cứ vào mong
muốn, nguyện vọng của ông Hùng là phải được bảo đảm về quyền lợi hợp pháp
trong việc phát sinh tranh chấp ngõ đi, luật sư cần phải chỉ cho khách hàng biết
cách thức, trình tự để giải quyết vụ việc, theo hướng sau:
• Tiếp tục đàm phán, thương lượng và hòa giải:
Sở dĩ bước đầu phải đặt giải pháp này lên là bởi thứ nhất giữa gia đình ông
Trí và gia đình ông Hùng là anh em ruột, thịt của nhau. Thứ hai, đây là vụ việc dân
sự, do đó quyết định của các bên luôn được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực
hiện. Nói cách khác là cả hai bên đều có thể tự nguyện và tự do ý trí để giải quyết
tranh chấp mà không phải phụ thuộc vào bên thứ ba. Thứ ba là sau khi vụ tranh
chấp được giải quyết (dù phương pháp nào) thì gia đình ông Trí và gia đình ông
Hùng còn là hàng xóm, láng giềng của nhau; sự chung sống hữu hảo là điều vô
cùng cần thiết và thứ tư là nếu đàm phán, thương lương và hòa giải thành công sẽ
tiết giảm rất nhiều chi phí, tiền của và thời gian đi lại của tất cả những người liên
quan. Và để làm được việc này, luật sư cần đóng vai trò trung gian hòa giải giúp
gia đình ông Trí và ông Hùng. Bởi luật sư là người hiểu biết pháp luật lại không có
quyền lợi trực tiếp đến vụ tranh chấp nên sẽ dễ dàng chỉ ra cho gia đình ông Trí
thấy được cái lợi, cái hại trong tìm con đường giải quyết vụ việc.
• Khởi kiện ra tòa án:
Như phân tích ở trên, tranh chấp lối đi chung đang là vấn đề mà ông Hùng

quan tâm và cũng là thứ ông này cần giải quyết. Tuy nhiên, ở vụ việc này chứa
13


đựng rất nhiều mối quan hệ pháp luật khác nhau. Do đó, có thể chọn một trong các
quan hệ ấy để giải quyết tranh chấp. Ở đây, nếu sau khi đã phân tích hết cho khách
hàng thấy những mặt mạnh, mặt yếu trong mỗi quan hệ pháp luật mà ông Hùng
vẫn chỉ muốn giải quyết tranh chấp lối đi bằng quan hệ trực tiếp thì luật sư chúng
tôi sẽ giúp khách hàng theo con đường này.
Theo đó, luật sư chúng tôi sẽ giúp ông Hùng viết đơn khởi kiện, thu thập thêm
chứng cứ, tài liệu và gửi tới TAND huyện Thanh Trì

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

ĐƠN KHỞI KIỆN
(V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất là ngõ đi chung)
Kính gửi: Toà án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
Họ và tên người khởi kiện: Trần Việt Hùng
Địa chỉ: Tổ 47, phường Y, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Họ và tên người bị kiện: Trần Minh Trí
Địa chỉ: Tổ 47, phường Y, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
I.NỘI DUNG VỤ KIỆN
Tôi là cán bộ hưu trí đang cư trú tại tổ 47, phường Y, huyện quận Hoàng Mai.
Hiện nay tôi đang sinh sống tại phần đất được thừa kế của mẹ tôi để lại. Năm 1993
tôi làm đơn xin cấp GCNQSDĐ theo đầy đủ quy định của pháp luật và được
UBND huyện Thanh Trì cấp GNC QSDĐ số.... ngày 05/9/1994. Tuy nhiên, cùng
với việc cấp GCN QSDĐ cho gia đình tôi, UBND huyện Thanh Trì cũng cấp cho
hộ ông Trần Minh Trí GCN QSDĐ số 2087 trong đó thể hiện diện tích ngõ đi
chung của hai gia đình vẫn sử dụng lâu nay là thuộc sở hữu riêng của nhà ông Trí.

14


Sự việc này mãi cho đến thời điểm tranh chấp 04/2013 thì ông Trí mới đưa ra GCN
này để biện minh cho việc cấm đoán gia đình tôi xây nhà giáp với khu đất đi chung
và sử dụng diện tích ngõ đi chung này.
Mặc dù trước đây phần đất ngõ đi chung thuộc về gia đình tôi nhưng vì nể
tình cảm anh em nên khi ông Trí đề nghị được đi chung thì gia đình tôi đã đồng ý
và cắt phần đất này ra làm ngõ đi chung (việc thống nhất ngõ đi chung được thể
hiện trong nhiều văn bản tôi đã cung cấp cho quý tòa kèm theo đơn khởi kiện này).
Tuy nhiên không hiểu vì lí do gì mà khi cấp GNC QSDĐ cho hộ ông Trí thì diện
tích ngõ đi chung này lại được ghi nhận là “ngõ đi riêng”. Sự ghi nhận này trái với
các giấy tờ và sổ địa chính lưu trong các thời kỳ, đồng thời trái với các văn bản mà
gia đình ông Trí và gia đình tôi đã lập thỏa thuận về ngõ đi chung.
Căn cứ vào sự ghi nhận này mà gia đình ông Trí đã thực hiện những hành
động dẫn đến xảy ra tranh chấp ngõ đi chung như hiện nay. Tôi đã nhiều lần gửi
văn bản khiếu nại lên UBND huyện Thanh Trì để được trả lời nhưng cho đến nay
vẫn chưa nhận được câu trả lời thỏa đáng (Gần đây nhất là Đơn khiếu nại gửi
UBND huyện Thanh Trì ngày 05/3/2014). Tranh chấp ngõ đi chung giữa tôi và
ông Trần Minh Trí đã được hòa giải nhiều lần tại Tổ dân phố và UBND phường
nhưng không thành.
II. YÊU CẦU KHỞI KIỆN
Từ những nội dung sự việc và các chứng cứ kèm theo, tôi đề nghị Tòa án
nhân dân quận Hoàng Mai giải quyết như sau:
• Công nhận ngõ đi chung hiện trạng là thuộc sở hữu chung của gia đình tôi
và gia đình ông Trần Minh Trí. Hai gia đình có quyền và nghĩa vụ sử dụng ngõ đi
chung như nhau;
• Buộc Hộ gia đình ông Trần Minh Trí tôn trọng và không tiếp tục gây khó
khăn cho gia đình tôi trong việc sử dụng ngõ đi chung của hai bên;
• Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai yêu cầu UBND quận Hoàng Mai sửa đổi

GCN QSDĐ số 2087 do UBND huyện Thanh Trì cấp cho gia đình ông Trần Minh
15


Trí ngày 05/9/1994. Theo đó, sửa đổi phần diện tích ngõ đi chung của hai gia đình
từ “ngõ đi riêng” thành “ngõ đi chung”.
Tôi xin cam đoan nội dung sự việc nêu trên hoàn toàn là sự thật. Kính đề nghị
Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Các giấy tờ kèm theo Đơn khởi kiện:
• GCN QSDĐ mang tên Hộ Trần
Việt Hùng
• Biên bản họp gia đình
• Biên bản hòa giải
• .........

Hà Nội, ngày….. tháng …… năm…….
Người khởi kiện

Trần Việt Hùng

16



×