Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Nghiên cứu thực trạng và ứng dụng đấu thầu điện tử tại việt nam trong lĩnh vực mua sắm chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

NGHIÊM NGỌC DŨNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ỨNG DỤNG ĐẤU THẦU ĐIỆN TỬ
TẠI VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC MUA SẮM CHÍNH PHỦ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
QUẢN TRỊ KINH DOANH

Hà Nội – 2013


TRANG PHỤ BÌA
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

NGHIÊM NGỌC DŨNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ỨNG DỤNG ĐẤU THẦU ĐIỆN TỬ
TẠI VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC MUA SẮM CHÍNH PHỦ

Chuyên ngành : Quản trị Kinh doanh

LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỦY BÌNH



Hà Nội – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả đạt được trong luận văn là sản phẩm của riêng cá
nhân, không sao chép lại của người khác. Trong toàn bộ nội dung của luận văn,
những điều được trình bày hoặc là của cá nhân hoặc là được tổng hợp từ nhiều
nguồn tài liệu. Tất cả các tài liệu tham khảo đều có xuất xứ rõ ràng và được trích
dẫn hợp pháp.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và chịu mọi hình thức kỷ luật theo quy
định cho lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2013

Nghiêm Ngọc Dũng

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BMT

Bên mời thầu

CNTT


Công nghệ thông tin

CĐT

Chủ đầu tư

CSDL

Cơ sở dữ liệu

e-GP

Mua sắm công qua mạng

HSMST

Hồ sơ mời sơ tuyển

KH&ĐT

Kế hoạch và Đầu tư

KHĐT

Kế hoạch đấu thầu

TBMT

Thông báo mời thầu


TBMST

Thông báo mời sơ tuyển

TMĐT

Thương mại điện tử

3


DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

Phụ lục số 01: Các thuật ngữ cơ bản trong đấu thầu ………………………...

91

Phụ lục số 02: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu .…………

97

Phụ lục số 03: Các quy trình và sơ đồ ……………………………………..... 104
Phụ lục số 04: Một số gói thầu đã thực hiện trên hệ thống đấu thầu điện tử ... 116
Phụ lục số 05: Bảng câu hỏi khảo sát và tổng hợp thông tin khảo sát ……..... 119

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng số 1: Khái quát hóa hoạt động mua sắm trong chu kỳ dự án…...…...…

35


Bảng số 2: Lợi ích các bên tham gia thực hiện mua sắm chính phủ điện tử …...

42

Bảng số 3: So sánh hình thức đăng tải thông tin trong đấu thầu………..........

51

Bảng số 4: So sánh quy trình đấu thầu truyền thống và đấu thầu điện tử……

57

4


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ số 1: Phân kỳ dự án …………………………………………..…...

29

Sơ đồ số 2: Chu kỳ dự án………..………… ..………… ..………………

33

Sơ đồ số 3: Quy trình đăng ký tham gia hệ thống…………………………

99

Sơ đồ số 4: Quy trình đấu thầu rộng rãi và hạn chế qua mạng…………….


100

Sơ đồ số 5: Quy trình sơ tuyển qua mạng………………………………….

101

Sơ đồ số 6: Quy trình đăng tải thông báo mời thầu………………………..

102

Sơ đồ số 7: Quy trình nộp HSDT và làm rõ HSDT………………………..

103

Sơ đồ số 8: Quy trình mở thầu……………………………………………..

104

Sơ đồ số 9: Quy trình đánh giá HSDT……………………………………..

105

Sơ đồ số 10: Quy trình thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu ………...

106

Sơ đồ số 11: Quy trình thông báo kết quả đấu thầu ……………………….

107


Sơ đồ số 12: Quy trình thương thảo, hoàn thiện hợp đồng ………………..

108

Sơ đồ số 13: Các chức năng của hệ thống đấu thầu điện tử ………………

72

Sơ đồ số 14: Sơ đồ tìm kiếm hàng hóa dịch vụ trên hệ thống đấu thầu
điện tử ……………………………………………………………………..

74

Sơ đồ số 15: Quy trình mua hàng theo hợp đồng lựa chọn nhiều nhà cung
cấp (MAS) ………………………………………………………………...
Sơ đồ số 16 Quy trình mua sắm hàng hóa, dịch vụ theo hợp đồng MAS ...

109
76

Sơ đồ số 17 Quy trình tổng quát của hợp phần phần Quản lý hợp đồng và
Thanh toán qua mạng …………………………...

80

Sơ đồ số 18 Quy trình ký hợp đồng xây lắp/tư vấn ……………………….

81


Sơ đồ số 19 Quy trình ký kết hợp đồng trung gian cho mua sắm tập trung

82

Sơ đồ số 20 Quy trình tạm ứng theo hợp đồng/công việc ………………...

83

Sơ đồ số 21 Quy trình thanh toán theo hợp đồng mua sắm hàng hóa ……

83

Sơ đồ số 22 Quy trình thanh toán tiền ứng trước …………………………

85

Sơ đồ số 23 Quy trình thanh toán khi hoàn thành một hạng mục công việc
và thanh toán hoàn công …………………………………………………..

86

5


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA .................................................................................................. 1
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................ 3
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC................................................................................. 4
DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... 4

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ...................................................................................... 5
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 7
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU VÀ ỨNG DỤNG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG LĨNH VỰC MUA SẮM CHÍNH PHỦ TẠI
VIỆT NAM ........................................................................................................... 11
1.1 Khái niệm về hoạt động mua sắm, đấu thầu, và thương mại điện tử........... 11
1.2 Đặc điểm, phân loại và tác động của TMĐT đến Chính phủ điện tử .......... 13
1.3 Đặc điểm, mục tiêu, vai trò và tầm quan trọng của công tác đấu thầu ........ 20
1.4 Hệ thống văn bản pháp luật về đấu thầu của Việt Nam .............................. 35
1.5 Khả năng ứng dụng của đấu thầu điện tử trong lĩnh vực mua sắm chính phủ
tại Việt Nam .................................................................................................... 39
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG ĐẤU THẦU ĐIỆN TỬ TRONG
LĨNH VỰC MUA SẮM CHÍNH PHỦ TẠI VIỆT NAM ................................... 45
2.1 Thực trạng Hệ thống đấu thầu điện tử Việt Nam ....................................... 45
2.2 Phân tích quy trình đấu thầu điện tử hiện nay ............................................ 49
2.3 Một số đánh giá về việc ứng dụng đấu thầu điện tử tại Việt Nam .............. 58
CHƯƠNG III MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG ĐẤU
THẦU ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM ..................................................................... 73
3.1 Đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp lý .......................................................... 73
3.2 Đề xuất hoàn thiện hệ thống đấu thầu điện tử ............................................ 76
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 95

6


PHẦN MỞ ĐẦU
 Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, Thương mại điện tử (TMĐT) đang dần trở thành một khái niệm
quen thuộc đối với các doanh nghiệp và người dân. Các doanh nghiệp ngày càng

nhận thức rõ các cơ hội của TMĐT và quan tâm tới việc xây dựng các mô hình kinh
doanh TMĐT, đưa TMĐT thành một phần không thể tách rời của chiến lược phát
triển doanh nghiệp trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế cho thấy, TMĐT
ngày càng được phát triển và ứng dụng rộng rãi và sẽ trở thành hình thức giao dịch
cơ bản trong tương lai gần. Việc áp dụng TMĐT giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm
chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Chính phủ, ngoài việc tạo lập ra môi trường cho TMĐT phát triển còn là một
chủ thể tích cực tham gia ứng dụng TMĐT, là khách hàng lớn nhất của thị trường
TMĐT.
Mua sắm của chính phủ thường được gọi là mua sắm công. Theo các nghiên
cứu khảo sát gần đây, chi tiêu Chính phủ của các nước hàng năm chiếm khoảng từ
10% - 20% GDP của mỗi nước. Chi phí mua sắm chính phủ của EU chiếm khoảng
16% GDP, Ý khoảng 11,9%, trong khi Hà Lan khoảng 21,5%. Trung Quốc chi tiêu
chính phủ khoảng 600 tỷ USD năm 2006. Ở Việt Nam con số này thậm chí còn lớn
hơn (khoảng 40% GDP dành cho đầu tư phát triển).
Do khối lượng mua sắm sử dụng vốn nhà nước là rất lớn đối với mỗi quốc
gia, bên cạnh đó hàng hoá và dịch vụ mua sắm chính phủ cũng hết sức đa dạng nên
hàng năm các quốc gia phải dành rất nhiều thời gian và nguồn lực để tiến hành đấu
thầu mua sắm chính phủ. Việc ứng dụng TMĐT vào mua sắm chính phủ giúp cho
việc chi tiêu chính phủ đạt được nhiều lợi ích: tiết kiệm chi phí, thời gian, nâng cao
tính minh bạch và thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, mở
rộng không gian và thời gian đấu thầu. Vì vậy nó đã được nhiều nước quan tâm và
triển khai, thực tế đã đem lại hiệu quả trong chi tiêu chính phủ.
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
7


hóa đất nước. Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng TMĐT đã được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 27/12/2005 và

Quyết định số 1073/QĐ-TTg ngày 12/7/2010 đã xác định việc ứng dụng TMĐT trong
việc mua sắm chính phủ là một trong những mục tiêu quan trọng của ứng dụng TMĐT.
Hơn nữa, Nghị định 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước
để xây dựng một chính phủ điện tử, tinh giản, gọn nhẹ, minh bạch, tăng tính hiệu lực và
hiệu quả đã được ban hành.
Việc ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ với hình thức
đấu thầu qua mạng sẽ cung cấp một dịch vụ công quan trọng trong hệ thống chính
phủ điện tử.
Với đề tài “Nghiên cứu thực trạng và ứng dụng Đấu thầu điện tử tại Việt
Nam trong lĩnh vực mua sắm chính phủ” tôi hy vọng sẽ tổng quan được những nội
dung cơ bản về một phương thức triển khai mới trong lĩnh vực mua sắm chính phủ
hiện nay.
 Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu thực trạng và ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính
phủ bằng hình thức đấu thầu điện tử, đánh giá sơ bộ kết quả triển khai thí điểm tại
một số đơn vị, từ đó đề xuất phương án triển khai trong thời gian tới phù hợp với
tình hình thực tế tại Việt Nam.
 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết, các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành và kết quả triển khai thí điểm hệ thống đấu thầu điện tử tại Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2012. Từ các số liệu, thông tin thu thập
được, nghiên cứu sẽ tập trung phân tích và đánh giá việc ứng dụng hệ thống đấu
thầu điện tử theo các nội dung cơ bản sau:
(1) Việc ứng dụng CNTT trong mua sắm chính phủ trước khi hệ thống đấu
thầu điện tử được đưa vào sử dụng.
(2) Kết quả đạt được trong quá trình ứng dụng đấu thầu điện tử tại Việt Nam
từ thời điểm bắt đầu áp dụng hệ thống (năm 2009) đến năm 2012.
8



(3) Về các điều kiện để áp dụng đấu thầu điện tử tại Việt Nam.
(4) Về quy trình và các chức năng của hệ thống đấu thầu điện tử.
 Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận về hoạt động đấu thầu và cơ sở pháp lý hiện hành, đề
tài tập trung nghiên cứu việc ứng dụng đấu thầu điện tử trong lĩnh vực mua sắm
chính phủ trên hệ thống đấu thầu điện tử do Cục Quản lý đấu thầu Bộ Kế hoạch và
Đầu tư quản lý. Đề xuất các nội dung để tiếp tục triển khai hệ thống đấu thầu điện
tử phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam.
 Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý thuyết, các văn bản pháp lý về lĩnh vực mua sắm, thương mại điện
tử và đấu thầu điện tử được tổng quan trên cơ sở các bài giảng và các tài liệu tham
khảo từ nhiều nguồn khác nhau. Các số liệu thống kê sẽ được thu thập và tổng hợp
trên cơ sở các báo cáo, thông tin do tại các đơn vị trực tiếp khảo sát.
- Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu sẽ áp dụng phương pháp ý kiến
chuyên gia được tổng hợp từ các phiếu khảo sát theo dạng bảng câu hỏi để phân
tích, đánh giá và đưa ra những đề xuất cụ thể đối với việc ứng dụng hệ thống đấu
thầu điện tử tại Việt Nam.
 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn nghiên cứu của đề tài
Từ nghiên cứu về khả năng ứng dụng đấu thầu điện tử trong lĩnh vực mua
sắm chính phủ và việc đánh giá kết quả triển khai tại một số đơn vị thí điểm, nghiên
cứu sẽ đề xuất phương án triển khai đấu thầu điện tử phù hợp với tình hình thực tế
tại Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ khả năng ứng dụng của
TMĐT trong lĩnh vực mua sắm chính phủ tại Việt Nam hiện nay. Đồng thời, kết
quả nghiên cứu cũng là một tài liệu tham khảo có giá trị đối với các đơn vị, cá nhân
quan tâm đến ứng dụng TMĐT trong mua sắm chính phủ.
 Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động đấu thầu và ứng dụng thương mại
điện tử trong lĩnh vực mua sắm chính phủ tại Việt Nam
9



- Chương II: Thực trạng ứng dụng đấu thầu thầu điện tử trong lĩnh vực mua
sắm chính phủ tại Việt Nam.
- Chương III: Một số đề xuất để hoàn thiện hệ thống đấu thầu điện tử tại Việt
Nam.

10


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẤU THẦU VÀ ỨNG DỤNG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG LĨNH VỰC MUA SẮM CHÍNH PHỦ
TẠI VIỆT NAM

1.1 Khái niệm về hoạt động mua sắm, đấu thầu, và thương mại điện tử
1.1.1 Khái niệm chung về mua sắm
Mua sắm là các hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ dưới các hình thức trực tiếp
hoặc gián tiếp. Các chứng chỉ xác nhận các hoạt động mua sắm có thể là hóa
đơn, hợp đồng mua sắm. Có các dạng hoạt động mua sắm chính sau:
- Mua sắm cá nhân: chủ thể bên mua là cá nhân.
- Mua sắm tổ chức: chủ thể của bên mua là một tổ chức như: chính phủ của
một quốc gia, cơ quan, doanh nghiệp…
1.1.2 Khái niệm Thương mại điện tử
Thương mại điện tử được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, như “Thương
mại điện tử” (Electronic commerce), “Thương mại trực tuyến” (online trade),
“Thương mại không giấy tờ” (paperless commerce) hoặc “kinh doanh điện tử” (ebusiness). Tuy nhiên, “Thương mại điện tử” vẫn là tên gọi phổ biến nhất và được
dùng thống nhất trong các văn bản hay công trình nghiên cứu của các tổ chức hay
các nhà nghiên cứu. TMĐT bắt đầu bằng việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông
qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông, các doanh nghiệp tiến tới ứng

dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động của mình, từ bán hàng, marketing,
thanh toán đến mua sắm, sản xuất, đào tạo, phối hợp hoạt động với nhà cung cấp,
đối tác, khách hàng... khi đó TMĐT phát triển thành kinh doanh điện tử, tức là
doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử ở mức cao được gọi là doanh nghiệp
điện tử. Như vậy, có thể hiểu kinh doanh điện tử là mô hình phát triển của doanh
nghiệp khi tham gia thương mại điện tử ở mức độ cao và ứng dụng công nghệ thông
tin chuyên sâu trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Theo Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban liên hiệp quốc về luật
11


thương mại quốc tế (UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce, 1996):
TMĐT là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện điện tử,
không cần phải in ra giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
Trong đó:
- “Thông tin” được hiểu là bất cứ thứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuận điện
tử, bao gồm cả thư từ, các file văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính, các bản thiết
kế, hình đồ hoạ, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hoá đơn, bảng giá, hợp đồng, hình
ảnh động, âm thanh...
- “Thương mại” được hiểu theo nghĩa rộng, bao quát mọi vấn đề nảy sinh từ
mọi mối quan hệ mang tính thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối
quan hệ mang tính thương mại bao gồm, nhưng không giới hạn ở, các giao dịch sau
đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; đại diện
hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công
trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận
khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp
hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường
không, đường sắt hoặc đường bộ.
1.1.3 Khái niệm chung về đấu thầu và đấu thầu điện tử
Khái niệm về đấu thầu và đấu thầu điện tử có thể dễ dàng tra cứu được nhiều

tổ chức quốc tế và các quốc gia khác nhau trên thế giới. Nhìn chung, các khái niệm
này đều thống nhất với khái niệm của Việt Nam.
Thuật ngữ “Đấu thầu” đã xuất hiện trong xã hội từ xa xưa. Theo Từ điển
tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1998) thì đấu thầu được giải thích là
việc “Đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho
làm hoặc được bán hàng (một phương thức giao làm công trình hoặc mua hàng)”.
Như vậy bản chất của việc đấu thầu đã được xã hội thừa nhận như là một sự ganh
đua (cạnh tranh) để được thực hiện một công việc, một yêu cầu nào đó.
Trên thực tế đã tồn tại một số thuật ngữ về đấu thầu trong các văn bản pháp
quy khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của thuật ngữ về đấu thầu dù dưới dạng Quy

12


chế hay Luật cũng đều sử dụng một thuật ngữ có xuất xứ từ tiếng Anh là
“Procurement” (nghĩa là mua sắm). Như vậy, tuy gọi là Luật Đấu thầu nhưng bản
chất là Luật Mua sắm (Law on Procurement).
Hiện nay, đấu thầu được hiểu là “Quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các
yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án theo quy định của
Luật Đấu thầu trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu
quả kinh tế” (Luật Đấu thầu Điều 4 khoản 2).
Kết quả của sự lựa chọn là hợp đồng được ký kết với các điều khoản quy
định chi tiết trách nhiệm của hai bên. Một bên là nhà thầu phải thực hiện các nhiệm
vụ như nêu trong HSMT (có thể là dịch vụ tư vấn, cung cấp hàng hoá hoặc xây lắp
một công trình...), một bên là CĐT (là cơ quan chủ sở hữu vốn hoặc dùng vốn nhà
nước để thực hiện dự án) có trách nhiệm giám sát, kiểm tra, nghiệm thu và thanh
toán tiền. Như vậy, thực chất của quá trình đấu thầu ở Việt Nam đối với các dự án
sử dụng vốn nhà nước là một quá trình mua sắm - chi tiêu, sử dụng vốn của Nhà
nước.
Đấu thầu điện tử hay còn gọi là đấu thầu qua mạng, là quá trình sử dụng hệ

thống mạng công nghệ thông tin (internet) và các thiết bị điện toán để thực hiện lựa
chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu (Thông tư liên tịch số 17/TTBTC-KHĐT).
Các thuật ngữ cơ bản liên quan đến pháp luật về đấu thầu sẽ được mô tả tại
Phụ lục số 01.
1.2 Đặc điểm, phân loại và tác động của TMĐT đến Chính phủ điện tử
1.2.1 Các phương tiện thực hiện TMĐT
Các phương tiện thực hiện TMĐT (hay còn gọi là phương tiện điện tử) bao
gồm: điện thoại, fax, truyền hình, điện thoại không dây, các mạng máy tính có kết
nối với nhau,... và mạng Internet. Tuy nhiên, TMĐTphát triển chủ yếu qua Internet
và thực sự trở nên quan trọng khi mạng Internet được phổ cập. Mặc dù vậy, gần đây
các giao dịch thương mại thông qua các phương tiện điện tử đa dạng hơn, các thiết
bị điện tử di động cũng dần dần chiếm vị trí quan trọng, hình thức này được biết đến

13


với tên gọi thương mại điện tử di động (Mobile-commerce hay M-commerce).
- Điện thoại: là một phương tiện phổ thông, dễ sử dụng, và gần như xuất
hiện sớm nhất trong các phương tiện điện tử được đề cập. Một số dịch vụ có thể
cung cấp trực tiếp qua điện thoại như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn,
giải trí. Với sự phát triển của điện thoại di động, liên lạc qua vệ tinh, ứng dụng của
điện thoại đang và sẽ trở nên rộng rãi hơn. Nhưng điện thoại có một hạn chế là chỉ
truyền tải được âm thanh và mọi cuộc giao dịch vẫn phải kết thúc bằng giấy tờ.
Ngoài ra, chi phí giao dịch bằng điện thoại, nhất là giao dịch điện thoại đường dài,
còn khá đắt. Thương mại điện tử vẫn sử dụng điện thoại như một công cụ quan
trọng, tuy nhiên “điện thoại” được hiểu theo nghĩa rộng, không giới hạn ở điện thoại
cố định mà được hiểu là tất cả các hình thức giao tiếp bằng giọng nói thông qua các
phương tiện điện tử: điện thoại qua Internet, “voice chat”, “voice message” qua
Yahoo Messenger (YM) hay Skype... Đây cũng chính là lợi thế nổi bật của Internet
với các ứng dụng truyền thoại qua môi trường này và các thiết bị điện tử như máy

tính được sử dụng trong giao dịch thương mại điện tử này. Ví dụ: đàm phán, ký kết
hợp đồng qua YM & thư điện tử.
- Máy fax: Có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống.
Tuy nhiên hạn chế của máy fax là chỉ truyền được văn bản viết, không truyền tải
được âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh ba chiều. Fax qua Internet là một dịch vụ
mới được ứng dụng khá rộng rãi để giảm chi phí trong giao dịch điện tử. Thiết bị
điện tử cũng không giới hạn ở máy fax truyền thống mà mở rộng ra máy vi tính và
các thiết bị điện tử khác sử dụng các phần mềm cho phép gửi và nhận văn bản fax.
Hoạt động này cũng làm mở rộng khái niệm thương mại điện tử và những quy định
về văn bản gốc, bằng chứng, văn bản do bản gốc của fax trước đây là văn bản giấy,
bản gốc của fax qua máy vi tính có thể là văn bản điện tử. Ví dụ: sử dụng winfax
gửi văn bản word từ máy vi tính đến máy fax của đối tác.
- Truyền hình: ngày nay, truyền hình trở thành một trong những công cụ
điện tử phổ thông nhất. Truyền hình đóng vai trò quan trọng trong thương mại, nhất
là trong quảng cáo hàng hóa. Song truyền hình mới chỉ là một công cụ truyền thông

14


một chiều, qua truyền hình, khách hàng không thể tìm kiếm được các chào hàng,
không thể đàm phán với người bán về các điều khoản mua bán cụ thể. Gần đây, khi
máy thu hình được kết nối với máy tính thì công dụng của nó được mở rộng hơn.
Việc giao dịch và đàm phán bằng “video conference” thực hiện qua Internet trở nên
quan trọng và đẩy mạnh thương mại điện tử khi tiết kiệm được thời gian và chi phí
của các bên mà vẫn có hiệu quả như đàm phán giao dịch trực tiếp truyền thống. Ví
dụ: e-learning sử dụng video-conference và net-meeting
- Máy tính và mạng Internet: thương mại điện tử chỉ thực sự có vị trí quan
trọng khi có sự bùng nổ của máy tính và internet vào những năm 90 của thế kỷ 20.
Máy tính và Internet giúp doanh nghiệp tiến hành giao dịch mua bán, hợp tác trong
sản xuất, cung cấp dịch vụ, quản lý các hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, liên

các các doanh nghiệp trên toàn cầu, hình thành các mô hình kinh doanh mới. Không
chỉ giới hạn ở máy tính, các thiết bị điện tử và các mạng viễn thông khác cũng được
ứng dụng mạnh mẽ vào thương mại làm đa dạng các hoạt động thương mại điện tử
từ việc sử dụng thẻ thông minh trong thanh toán điện tử, mobile phone trong các
giao dịch điện tử giá trị nhỏ, hệ thống thương mại điện tử trong giao thông để xử lý
vé tàu điện, xe bus, máy bay đến giao dịch chứng khoán, tài chính, ngân hàng điện
tử, hai quan điện tử trong nước và quốc tế. Những tập đoàn toàn cầu cũng chia sẻ
thông tin trong hoạt động thương mại qua mạng riêng của mình hoặc qua internet.
Ví dụ: ngân hàng điện tử (e-banking), mua sắm điện tử (e-procurement).
1.2.2 Đặc điểm của TMĐT
- Sự phát triển của thương mại điện tử gắn liền và tác động qua lại với
sự phát triển của CNTT. TMĐT là việc ứng dụng CNTT vào trong mọi hoạt động
thương mại, chính vì lẽ đó mà sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ thúc đẩy
thương mại điện tử phát triển nhanh chóng, tuy nhiên sự phát triển của thương mại
điện tử cũng thúc đẩy và gợi mở nhiều lĩnh vực của CNTT như phần cứng và phần
mềm chuyên dụng cho các ứng dụng thương mại điện tử, dịch vụ thanh toán cho
thương mại điện tử, cũng như đẩy mạnh sản xuất trong lĩnh vực CNTT như máy
tính, thiết bị viễn thông, thiết bị mạng.

15


- Về hình thức: giao dịch thương mại điện tử là hoàn toàn qua mạng. Trong
hoạt động thương mại truyền thống các bên phải gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành
đàm phán, giao dịch và đi đến ký kết hợp đồng. Còn trong hoạt động TMĐT nhờ
việc sử dụng các phương tiện điện tử có kết nối với mạng toàn cầu, chủ yếu là sử
dụng mạng internet, mà giờ đây các bên tham gia vào giao dịch không phải gặp gỡ
nhau trực tiếp mà vẫn có thể đàm phán, giao dịch được với nhau dù cho các bên
tham gia giao dịch đang ở bất cứ quốc gia nào. Ví dụ: trước đây muốn mua một
quyển sách thì bạn đọc phải ra tận của hàng để tham khảo, chọn mua một cuốn sách

mà mình mong muốn. Sau khi đã chọn được cuốn sách cần mua thì người đọc phải
ra quầy thu ngân để thanh toán mua cuốn sách đó. Hiên nay, với sự ra đời của
TMĐT thì chỉ cần có một chiếc mày tính và mạng internet, thông qua vài thao tác
kích chuột, người đọc không cần biết mặt của người bán hàng thì họ vẫn có thể mua
một cuốn sách mình mong muốn trên các website mua bán trực tuyến như
amazon.com; vinabook.com.vn.
- Phạm vi hoạt động: trên khắp toàn cầu hay thị trường trong thương mại
điện tử là thị trường phi biên giới. Điều này thể hiện ở chỗ mọi người ở tất cả các
quốc gia trên khắp toàn cầu không phải di chuyển tới bất kì địa điểm nào mà vẫn có
thể tham gia vào cũng một giao dịch bằng cách truy cập vào các website thương mại
hoặc vào các trang mạng xã hội.
- Chủ thể tham gia: Trong hoạt động TMĐT phải có tổi thiểu ba chủ thể
tham gia. Đó là các bên tham gia giao dịch và không thể thiếu được tham gia của
bên thứ ba đó là các cơ quan cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực, đây là
những người tạo môi trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng
và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên
tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin
trong giao dịch TMĐT.
- Thời gian không giới hạn: Các bên tham gia vào hoạt động thương mại
điện tử đều có thể tiến hành các giao dịch suốt 24 giờ 7 ngày trong vòng 365 ngày
liên tục ở bất cứ nơi nào có mạng viễn thông và có các phương tiện điện tử kết nối

16


với các mạng này, đây là các phương tiện có khả năng tự động hóa cao giúp đẩy
nhanh quá trình giao dịch.
- Trong TMĐT, hệ thống thông tin chính là thị trường. Trong thương mại
truyền thống các bên phải gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành đàm phán, giao dịch và
ký kết hợp đồng. Trong TMĐT các bên không phải gặp gỡ nhau trực tiếp mà vẫn

có thể tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng. Để làm được điều này các bên phải
truy cập vào hệ thống thông tin của nhau hay hệ thống thông tin của các giải pháp
tìm kiếm thông qua mạng internet, mạng extranet….để tìm hiểu thông tin về nhau từ
đó tiến hành đàm phán kí kết hợp đồng. Ví dụ: hiện nay các doanh nghiệp thương
mại muốn tìm kiếm các đối tác trên khắp toàn cầu thì chỉ cần vào các trang tìm
kiếm như Google, Yahoo hay vào các cổng TMĐT như trong nước là ecvn.com hay
của Hàn Quốc là www.ec21.com.
1.2.3 Phân loại TMĐT
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các hình thức/ mô hình TMĐT như:
+ Phân loại theo công nghệ kết nối mạng: Thương mại di động (không dây),
thương mại điện tử 3G.
+ Phân loại theo hình thức dịch vụ: Chính phủ điện tử, giáo dục điện tử, tài
chính điện tử, ngân hàng điện tử, chứng khoán điện tử.
+ Phân loại theo mức độ phối hợp, chia sẻ và sử dụng thông tin qua mạng:
Thương mại thông tin, thương mại giao dịch, thương mại cộng tác
+ Phân loại theo đối tượng tham gia: Có bốn chủ thế chính tham gia phần lớn
vào các giao dịch thương mại điện tử: Chính phủ (G), doanh nghiệp (B), khách hàng
cá nhân (C), người lao động (E). Việc kết hợp các chủ thể này lại với nhau sẽ cho
chúng ta những mô hình thương mại điên tử khác nhau. Dưới đây là một số mô hình
TMĐT phố biến nhất hiện nay:
1.2.3.1 TMĐT giữa Doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C)
Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán hàng hóa và dịch vụ
tới người tiêu dùng; người tiêu dùng thông qua các phương tiện điện tử để lựa chọn,
mặc cả, đặt hàng, thanh toán và nhận hàng. Mô hình B2C chủ yếu là mô hình bán lẻ

17


qua mạng như www.Amazon.com, qua đó doanh nghiệp thường thiết lập website,
hình thành cơ sở dữ liệu về hàng hóa, dịch vụ, tiến hành các quy trình tiếp thị,

quảng cáo và phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng. Thương mại điện tử B2C đem
lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng: doanh nghiệp tiết kiệm nhiều
chi phí bán hàng do không cần phòng trưng bày hay thuê người giới thiệu bán hàng,
chi phí quản lý cũng giảm hơn. Người tiêu dùng sẽ cảm thấy thuận tiện vì không
phải tới tận cửa hàng, ngồi ở bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào cũng có khả năng lựa
chọn và so sánh nhiều mặt hàng cùng một lúc, cũng như tiến hành việc mua hàng.
Hiện nay, số lượng giao dịch theo mô hình thương mại điện tử B2C rất là lớn, tuy
nhiên thì giá trị giao dịch từ hoạt động này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị
thương mại điện tử ngày nay, chiếm khoảng 5%. Trong tương lai thương mại điện
tử theo mô hình B2C sẽ còn phát triển nhanh hơn nữa. Mô hình thương mại điện tử
B2C còn được gọi dưới cái tên khác đó là bán hàng trực tuyến (e-tailing)
1.2.3.2 TMĐT giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B)
B2B là loại hình giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp. Các giao dịch B2B chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống ứng
dụng TMĐT như các sàn giao dịch Thương mại điện tử B2B. Các doanh nghiệp có
thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua các hệ
thống này. Ở mức độ cao, các giao dịch này có thể diễn ra một cách tự động ví dụ
như www.alibaba.com. TMĐT B2B đem lại lợi ích rất thực tế cho các doanh
nghiệp, đặc biệt giúp các doanh nghiệp giảm các chi phí về thu thập thông tin tìm
hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị, đàm phán, tăng cường các cơ hội kinh doanh.
Ngày nay, số lượng giao dịch TMĐT B2B còn rất khiêm tốn chỉ khoảng 10%, tuy
nhiên thì giá trị giao dịch từ hoạt động này chiếm rất cao, trên 85% giá trị giao dịch
TMĐT hiện nay.
1.2.3.3. TMĐT giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước (B2G)
Trong mô hình này, Cơ quan nhà nước đóng vai trò như khách hàng vàuá
trình trao đổi thông tin cũng được tiến hành qua các phương tiện điện tử. Cơ quan
nhà nước cũng có thể lập các website, tại đó đăng tải những thông tin về nhu cầu

18



mua hàng của cơ quan mình và tiến hành việc mua sắm hàng hóa, lựa chọn nhà
cung cấp trên website. Ví dụ: Hải quan điện tử, Thuế điện tử, Đấu thầu điện tử....
1.2.3.4 TMĐT giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng (C2C)
Đây là mô hình TMĐT giữa các cá nhân với nhau. Sự phát triển của các
phương tiện điện tử, đặc biệt là internet làm cho nhiều cá nhân có thể tham gia hoạt
động thương mại với tư cách người bán hoặc người mua. Một cá nhân có thể tự thiết
lập website để kinh doanh những mặt hàng do mình làm ra hoặc sử dụng một
website có sẵn để đấu giá món hàng mình có. Giá trị giao dịch từ hoạt động TMĐT
C2C chỉ chiếm khoảng 10% tổng giá trị giao dịch từ hoạt động TMĐT. Ví dụ thành
công nhất trên thế giới cho mô hình thuơng mại điện tử C2C là Ebay.com.
1.2.3.5 TMĐT giữa Cơ quan nhà nước và cá nhân (G2C)
Mô hình G2C chủ yếu đề cập tới các giao dịch mang tính hành chính, tuy
nhiên cũng có thể mang những yếu tố của TMĐT. Ví dụ: Hoạt động đóng thuế cá
nhân qua mạng, trả phí đăng ký hồ sơ,...
1.2.3 Tác động của TMĐT đến Chính phủ điện tử
Chính phủ của hầu hết các quốc gia hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của
TMĐT, cũng đang có những bước đi tích cực để tiến tới xây dựng một Chính phủ
điện tử, trong đó các dịch vụ công của chính phủ và các giao dịch với chính phủ
được thực hiện qua mạng, thương mại hoặc phi thương mại. Các dịch vụ phi thương
mại thường bao gồm: thông tin công cộng (xuất bản các kết quả nghiên cứu khoa
học, thông tin y tế trực tuyến, đào tạo công trực tuyến), thuận lợi hóa việc thanh
toán (nộp tờ khai thuế điện tử, nộp phạt,) hoặc các dịch vụ khác. Các dịch vụ
thương mại của chính phủ bao gồm: những hoạt động xác nhận danh tính (hộ chiếu,
chứng minh thư,…), bằng cấp (bằng lái xe, đăng ký ô tô xe máy), cũng như đăng ký
thu thuế điện tử. Tất cả các giao dịch trên đều có thể sử dụng với sự hỗ trợ của
phương tiện điện tử, đặc biệt là internet.
TMĐT cũng có tác động mạnh đến quy trình mua sắm của chính phủ. Với sự
khác biệt rõ nét trong mua sắm tư (kinh doanh thương mại) và mua sắm công, quy
trình mua sắm công cần phải đảm bảo tất cả những nhà cung cấp tiềm năng đều phải


19


được tiếp cận các thông tin về đấu thầu và không có nhà cung cấp nào có thể có
thông tin lợi thế hơn người khác. TMĐT trong Chính phủ điện tử cũng phải đảm
bảo thực hiện được những tiêu chuẩn cơ bản cho việc mua sắm.
1.3 Đặc điểm, mục tiêu, vai trò và tầm quan trọng của công tác đấu thầu
1.3.1 Đặc điểm, mục tiêu của công tác đấu thầu
1.3.1.1 Đặc điểm của công tác đấu thầu
Hoạt động đấu thầu là hoạt động mua sắm sử dụng vốn của Nhà nước nên
thường gọi là "Mua sắm công” hay ”Mua sắm chính phủ”. Các quy định để thực hiện
các hành vi mua sắm thông qua đấu thầu được chi phối, điều tiết bởi người sở hữu
nguồn tiền sử dụng cho việc mua sắm. Tuỳ thuộc vào nguồn vốn được sử dụng mà việc
mua sắm có những đặc điểm khác nhau. Với việc sử dụng vốn của Nhà nước, hoạt
động đấu thầu mua sắm có những đặc điểm riêng, khác với các nguồn vốn không phải
của Nhà nước.
Hoạt động đấu thầu sử dụng vốn thuộc sở hữu Nhà nước - sở hữu toàn dân để
mua sắm phục vụ lợi ích cộng đồng do đó, việc chi dùng cần được nhà nước quản lý
theo pháp luật. Đây chính là đặc điểm cơ bản để hình thành các quy định đấu thầu
mua sắm của Nhà nước nhằm làm cho việc sử dụng, chi tiêu các nguồn tiền của Nhà
nước đảm bảo hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí. Các đối tượng mua sắm để đáp
ứng các nhu cầu trực tiếp hoặc gián tiếp của Chính phủ cũng như của nhân dân,
được coi là các nhu cầu chung.
1.3.1.2 Các chủ thể tham gia vào quá trình đấu thầu
Khi đấu thầu sử dụng tiền của Nhà nước thì hoạt động này được thực hiện
bởi các cơ quan của Nhà nước, các DNNN hoặc các đơn vị có sử dụng nguồn tiền
của Nhà nước nên có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình đấu thầu để bảo đảm
được các mục tiêu của đấu thầu là cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả
kinh tế. Các chủ thể tham gia có thể bao gồm:

 Các đối tượng tham gia trực tiếp vào hoạt động đấu thầu:
 Bên mua: chính là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan của Nhà nước
theo từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế, bao gồm:
20


 Thứ nhất là Người có thẩm quyền quyết định dự án theo quy định của
pháp luật (thông thường Người có thẩm quyền là người phê duyệt dự án hoặc quyết
định đầu tư);
 Thứ hai là CĐT: là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay
mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án;
 Thứ ba là BMT: có thể là CĐT hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và
kinh nghiệm được CĐT sử dụng để tổ chức đấu thầu;
 Thứ tư là Tổ chuyên gia đấu thầu, bao gồm các cá nhân được CĐT quyết
định thành lập hoặc công ty/đơn vị tư vấn chuyên nghiệp để giúp CĐT thực hiện nội
dung chuyên môn về đấu thầu các nhiệm vụ khác trong quá trình lựa chọn nhà thầu
theo quyết định của CĐT.
 Bên bán: nhà thầu (nhà cung cấp, nhà xây dựng và nhà tư vấn) tham gia
đấu thầu các gói thầu phù hợp với điều kiện năng lực và kinh nghiệm của mình để
có được các hợp đồng trên cơ sở cạnh tranh hoặc thông qua các hình thức lựa chọn
khác theo quy định.
 Các đối tượng tham gia gián tiếp vào hoạt động đấu thầu:
Ngoài Bên mua và Bên bán là các đối tượng tham gia trực tiếp hoạt động đấu
thầu còn có một bộ phận thứ ba gián tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu, bao gồm:
 Cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát;
 Tổ chức, công ty kiểm toán độc lập;
 Công luận, các cơ quan báo chí;
 Sự tham gia của cộng đồng với vai trò giám sát.
1.3.1.3 Mục tiêu của công tác đấu thầu
Hoạt động đấu thầu mua sắm nhằm thực hiện nội dung công việc thuộc các

dự án được duyệt để đạt được các mục tiêu cơ bản về tăng trưởng kinh tế, phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao mức sống của dân cư... theo các kế hoạch,
quy hoạch phát triển kinh tế hàng năm, 5 năm hoặc dài hạn.
Đối với từng gói thầu cụ thể, mục tiêu thể hiện qua việc lựa chọn các nhà
thầu đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện
21


việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ tư vấn), xây dựng các công
trình, hạng mục công trình, đào tạo, chuyển giao công nghệ. Việc phải mua sắm
hàng hoá; xây dựng công trình bảo đảm công năng, tính năng và hiệu năng sử dụng;
cung cấp các dịch vụ đều được thể hiện rõ trong quyết định đầu tư, KHĐT của dự
án.
a. Mục tiêu cơ bản của hoạt động đấu thầu
- Tăng cường cạnh tranh trong đấu thầu:
Một trong những yếu tố đạt được hiệu quả của công tác đấu thầu là phải bảo
đảm được quy luật cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Trong hoạt động đấu thầu nói
chung và công tác đấu thầu của Việt Nam nói riêng, mục tiêu cạnh tranh đang ngày
càng được tăng cường. Có cạnh tranh thì mới có động lực để sáng tạo, cải tiến, kích
thích người mua (BMT) đưa ra các yêu cầu phù hợp (thể hiện trong HSMT) và người
bán (nhà thầu) cạnh tranh với nhau để giành được hợp đồng (bán được hàng) với giá
bán cạnh tranh song vẫn bảo đảm chất lượng của hàng hoá, công trình, dịch vụ. Một
nguyên tắc cơ bản để bảo đảm được cạnh tranh trong đấu thầu đó là việc tạo ra sự
mâu thuẫn lợi ích” hay “xung đột lợi ích”. Xung đột lợi ích trong đấu thầu có thể hiểu
một cách nôm na rằng CĐT, BMT luôn mong muốn “nhanh, bền, tốt, rẻ” trong khi
đó, nhà thầu thì luôn muốn "làm ít, hưởng nhiều” và có nhiều hợp đồng. Tuy vậy, do
hoạt động đấu thầu là việc chi dùng tiền nhà nước nên việc mong muốn của các chủ
thể tuy là chính đáng song không thể tuỳ tiện mà cần theo quy định. Như vậy, khi có
sự xung đột lợi ích giữa các bên sẽ tạo ra động lực cạnh tranh giữa CĐT, BMT và các
nhà thầu để đạt được sự cân bằng về lợi ích thì cuộc đấu thầu sẽ diễn ra và hàng hoá,

dịch vụ, công trình được cung cấp sẽ bảo đảm về chất lượng. Bên cạnh đó, giữa các
nhà thầu cũng phải có sự cạnh tranh để giành lấy được hợp đồng và đó sẽ là điều kiện
để kích thích các nhà thầu phát huy sáng tạo, cải tiến biện pháp thi công, cải tiến công
nghệ...
Để thực hiện mục tiêu này, BMT phải tạo mọi điều kiện để các nhà thầu có cơ
hội tham dự đấu thầu. Điều này được thể hiện trên nhiều khía cạnh được đổi mới
trong Luật Đấu thầu bao gồm:

22


+ Việc phân chia công việc ngay từ giai đoạn lập và phê duyệt KHĐT đã phải
tính đến việc tăng khả năng cạnh tranh;
+ Thông tin về đấu thầu, thông báo mời thầu phải được đăng tải trên Báo Đấu
thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu của cơ quan quản lý Nhà nước về đấu
thầu;
+ Thời gian phát hành HSMT cho các nhà thầu được kéo dài tới trước thời
điểm đóng thầu để nhiều nhà thầu có cơ hội tham gia dự thầu.
- Công khai, minh bạch trong đấu thầu:
Công khai, minh bạch trong đấu thầu vừa là một trong những mục tiêu, vừa
là một trong những yêu cầu cần quán triệt.
Công khai trong đấu thầu có thể hiểu là sự không khép kín, che dấu, không bí
mật vì lợi ích của một cá nhân hoặc tổ chức nào đó mà cần thể hiện, bày tỏ các nội
dung thông tin theo quy định cho mọi người liên quan hoặc có quan tâm được biết.
Nội dung công khai cần thể hiện trên khía cạnh thông tin, bao gồm các yêu
cầu về gói thầu được thể hiện trong HSMT bảo đảm thể hiện rõ ràng, dễ hiểu, tránh
đa nghĩa. Theo đó, tất cả những nội dung trong HSMT mới được coi là yêu cầu,
ngoài HSMT không thể được coi là yêu cầu và nhà thầu không bị bắt buộc thực hiện
các nội dung công việc ngoài HSMT. Kể cả tiêu chuẩn đánh giá (tổng hợp đến chi
tiết) đều phải được thể hiện rõ ràng, minh bạch trong HSMT, quá trình xét thầu

không được thêm bớt, bổ sung.
Các thông tin liên quan tới việc tham dự thầu, tổ chức các cuộc thầu, thông
tin về dự án, thông tin về trao thầu... đều phải được thông báo công khai rộng rãi
theo quy định.
- Đảm bảo công bằng trong đấu thầu:
Đây là mục tiêu rất quan trọng trong đấu thầu. Trong quá trình thực hiện
công tác đấu thầu, phải hết sức tôn trọng quyền lợi của các bên có liên quan. Mọi
thành viên từ CĐT đến các nhà thầu, các tổ chức tư vấn được thuê thực hiện một
phần công việc trong đấu thầu đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Mỗi bên có
quyền và trách nhiệm được quy định. CĐT không được phép cho rằng mình là

23


người có quyền cao nhất muốn làm gì thì làm, muốn cho ai trúng thầu thì cho. Nhà
thầu không được lợi dụng quan hệ thân thiết, hoặc những tác động vật chất đối với
các thành viên tổ chuyên gia đấu thầu để làm sai lệch kết quả đấu thầu theo hướng
có lợi cho mình.
Tính công bằng trong đấu thầu thể hiện rằng các chủ thể tham gia đều phải
thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Cụ thể hơn là người có thẩm
quyền phê duyệt các nội dung trong đấu thầu phải thực hiện theo quy định mà
không thể dùng ảnh hưởng cá nhân để phê duyệt tạo thuận lợi cho một hoặc một số
cá nhân, tổ chức có lợi ích liên quan. Còn đối với CĐT phải có trách nhiệm lập
HSMT bảo đảm công bằng, không được tạo lợi thế cho một hoặc một số cá nhân,
hạn chế sự tham gia của các nhà thầu khác. Khi HSMT đã được phê duyệt thì CĐT,
BMT, tổ chuyên gia phải thực hiện theo đúng các nội dung nêu trong HSMT, không
được thiên vị, đối xử bất công với bất kỳ nhà thầu nào. Ngoài ra, mọi thông tin liên
quan đến quá trình tổ chức đấu thầu đều phải được công khai theo quy định đến tất
các nhà thầu để có cơ hội tiếp cận như nhau trong quá trình tham gia đấu thầu.
- Bảo đảm hiệu quả kinh tế của công tác đấu thầu:

Hiệu quả của công tác đấu thầu chính là việc sử dụng một cách có hiệu
nguồn vốn của Nhà nước. Việc sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước có thể mang
lại hiệu quả ngắn hạn cho dự án và hiệu quả dài hạn về kinh tế - xã hội.
Hiệu quả ngắn hạn là các gói thầu đều được thực hiện bảo đảm chất lượng trong
phạm vi nguồn ngân sách dự kiến sẽ bảo đảm được tính khả thi của dự án.
Hiệu quả dài hạn về mặt kinh tế có thể dễ dàng nhìn nhận và đánh giá thông
qua chất lượng hàng hoá, công trình, dịch vụ ứng với số tiền bỏ ra và chính các
công trình, nhà máy, dịch vụ, các chính sách được tạo lập... sẽ có tác động tạo ra các
nguồn thu mới, các giá trị thặng dư cho đất nước. Hiệu quả xã hội có thể nhìn nhận
qua các khía cạnh như tạo thêm nhiều công ăn việc làm, nâng cao mức sống dân cư,
tạo diện mạo mới cho bộ mặt kinh tế của đất nước thông qua các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội được nâng cấp, cải thiện. Đây sẽ là những động lực để thu hút
đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thông thoáng cho các hoạt động đầu tư- kinh

24


×