Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp thụy vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TÀO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

NGUYỄN HÀ VIỆT

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO
KHU CÔNG NGHIỆP THỤY VÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành: Quản trị Kinh Doanh
Khóa: 2009-2011

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thanh Hồng

PHÚ THỌ, NĂM 2012


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đề ra nhiều chủ trương
đúng đắn, nhờ vậy tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Trong các
chủ trương đó, phải kể đến chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, huy động
mọi nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó có vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài. Khu công nghiệp (sau đây gọi tắt là KCN), Khu kinh tế ( sau đây gọi tắt là
KKT), Khu chế xuất (KCX) được hình thành là một trong những giải pháp quan


trọng để thu hút vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau 20 năm triển khai xây dựng các
khu công nghiệp, trong cả nước đã hình thành một mạng lưới các KCN, và đã có
những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của các địa phương, các vùng
và cả nước, thể hiện vai trò đi đầu trong tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết việc làm và thúc đẩy sự
phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam.
Kể từ khi KCX đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm 1991. Hiện tại, cả
nước đã có 283 (KCN) KCX được thành lập ở 58 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích
đất tự nhiên 70.000 ha, trong đó có hơn 46.000 ha đất công nghiệp có thể cho thuê
chiếm khoảng 61% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, với 171 KCN đã đi vào
hoạt động, với tổng diện tích đất tự nhiên 43.580 ha và 112 KCN đang trong đang
trong quá trình đền bù gải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng, với tổng diện
tích đất tự nhiên 26.420 ha.
Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính
phủ, đến năm 2015, dự kiến thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN với tổng
diện tích gần 32.000 ha, sau một thời gian thực hiện quyết định nêu trên một số
KCN đã thành lập và một số KCN đã được bổ sung vào quy hoạch phát triển KCN
đến năm 2020, số KCN quy hoạch thành lập đến năm 2020 là 209 KCN với tổng
diện tích 64.310 ha.
Thực tế quá trình xây dựng và phát triển các KCN,KCX Việt Nam trong 20
năm đã qua cho ta thấy những đóng góp quan trọng của KCN,KCX trong thu hút
đầu tư, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nguyễn Hà Việt

1

Khóa học 2009



Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

và lao động các địa phương trên cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những đóng góp tích cực của KCN, KCX vào phát triển kinh tế, xã hội trong 20
năm qua đã khẳng định đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về
xây dựng và phát triển các KCN, KCX.
Tuy nhiên, sự phát triển của các KCN ở nước ta chưa thực sự vững chắc, việc
xây dựng cơ sở hạ tầng KCN chưa đồng bộ, chưa gắn chặt với yêu cầu bảo vệ môi
trường, chống ô nhiễm, vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ còn yếu, liên kết
kinh tế và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN chưa cao, khả
năng tạo việc làm, thu hút lao động vẫn còn nhiều hạn chế.
Vấn đề đặt ra là làm sao để nâng cao khả năng thu hút vôn đầu tư vào KCN
hay nói cách khác là nâng cao hiệu quả của các KCN là một vấn đề mà Đảng và
Nhà nước, các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hạ tầng KCN, các doanh nghiệp và
nhân dân trong cả nước đã và đang rất quan tâm.
Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía tây Bắc Việt Nam, vị trí địa lý trng tâm
của vùng, là cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, cầu nối vùng Tây Bắc với
thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, có truyền thống về phát triển tiểu thủ
công nghiệp và chế biến nông sản thực phẩm. Nhằm phát triển Phú Thọ là trung tâm
phía tây bắc về kinh tế, xã hội và công nghiệp tại đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18 và
19 đã xác định rõ mục tiêu: “Chủ động nắm thời cơ tranh thủ xây dựng các dự án
đầu tư để phát triển những cơ sở sản xuất công nghiệp mới, hình thành khu công
nghiệp tập trung và đầu tư cơ sở hạ tầng vào khu vực này để thu hút, đón nhận đầu
tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước"
Từ chủ trương trên, trong những năm qua UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành
xây dựng quy hoạch các KCN tập trung phù hợp với các điều kiện thực tế của địa
phương, đồng thời tỉnh cũng ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm kêu gọi và thu
hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh.

Theo báo cáo của Ban QL các KCN tỉnh Phú Thọ đến hết năm 2010 toàn tỉnh
đã có 7 KCN được Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào danh mục các khu công
nghiệp tập trung đến năm 2015, định hướng 2020. Hiện nay đã có 01 KCN đã xây
dựng xong hạ tầng đi vào hoạt động, với 47 dự án thứ cấp, 2 KCN đang làm thủ tục
đầu tư và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch bổ sung và thành lập mới

Nguyễn Hà Việt

2

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

KCN. Từ khi các KCN trên địa bàn tỉnh đi vào hoạt động đã đóng góp tích cực vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực
các KCN của tỉnh Phú Thọ cũng như nhiều KCN khác trên cả nước vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế về thu hút đầu tư vào khu công nghiệp ... Do đó đề tài: “ Phân tích
thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư
vào khu công nghiệp Thụy Vân” là một đề tài hết sức cần thiết cho tác giả trong
công tác của mình tại Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ.
2. Mục đích của đề tài.
Mục đích nghiên cứu đề tài để giải quyết một số nội dung sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển các khu công
nghiệp, xây dựng các tiêu chí đánh giá khả năng thu hút vốn đầu tư tại các KCN.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động trong quá trình hình thành và
đầu tư các KCN của tỉnh Phú Thọ.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào
KCN Thụy Vân.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở các khu công nghiệp của tỉnh Phú
Thọ nói chung, KCN Thụy Vân nói riêng và một số KCN của các tỉnh lân cận.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu sẵn có, kết hợp điều tra khảo sát tại các
KCN của tỉnh Phú Thọ, từ đó phân tích, đánh giá các số liệu thu thập được và đưa
ra các giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy Vân.
5. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài:
Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài: “Phân tích thực trạng và đề xuất một số
giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp Thụy
Vân” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các cơ quan quản lý
nhà nước, cơ quan hoạch định chính sách phát triển của địa phương có những thông
tin cần thiết để xây dựng chiến lược phát triển KCN Thụy Vân.
Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài thể hiện qua các nội dung sau đây:

Nguyễn Hà Việt

3

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Một là, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về các KCN, các tiêu chí
đánh giá khả năng thu hút vốn đầu tư của các KCN nói chung.

Hai là, bằng các số liệu chứng minh, luận văn phân tích và làm sáng tỏ hiện
trạng đầu tư vào KCN Thụy Vân. Từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
và giúp cho cho các cấp chính quyền, các cơ quan ban ngành của tỉnh nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nước đối với KCN Thụy Vân, đồng thời có chính sách phù hợp đối
với các KCN phục vụ sự phát triển bền vững của tỉnh nhà.
Ba là, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những nguyên
nhân trong quá trình phát triển KCN Thụy Vân, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào các KCN đảm bảo phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Phú Thọ một cách bền vững.
6. Kết cấu của đề tài:
- Phần mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết về Khu công nghiệp
- Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy Vân
- Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy
Vân.
- Kết luận

Nguyễn Hà Việt

4

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP


1.1. Khái niệm về KCN
1.1.1. Khái niệm về KCN
Kinh tế thế giới đã bước sang một giai đoạn mới với việc ứng dụng cách
mạng công nghệ thông tin. Thị trường toàn cầu dần rộng mở với tốc độ vận chuyển
và truyền thông nhanh hơn bao giờ hết. Các công ty có thể dễ dàng tận dụng chi phí
nhân công và nguyên vật liệu rẻ ở nơi khác để cạnh tranh về giá thành. Người ta
không còn cần phải tập trung vào các khu vực dồi dào tài nguyên và nguồn lao động
khi xây dựng cơ sở kinh doanh. Phải chăng, nền kinh tế mới đang dần xoá bỏ vai trò
của vị trí địa lý trong các quyết định chiến lược.
Trên thực tế, lợi thế cạnh tranh khu vực đang dần chuyển biến sang một
hướng khác. Đó là việc hình thành nên các khu công nghiệp tập trung (mang tính tự
phát), mà Michael E. Porter, giáo sư kinh tế Đại học Havard, gọi là những
"clusters". Trước đây, lợi thế khu vực phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, nguồn lao
động,... mà ở nơi khác không có được. Ngày nay, khái niệm cluster đã khẳng định
lợi thế khu vực qua hiện tượng quy tụ của các ngành công nghiệp. Không phải ngẫu
nhiên mà Hollywood trở thành trung tâm công nghiệp điện ảnh, Wall Street trở
thành trung tâm công nghiệp tài chính, Silicon Valley trở thành trung tâm công
nghệ cao và bắc Ý trở thành trung tâm công nghiệp giày da cao cấp. Vì khả năng
kiểm soát giá thành của các Công ty ngày càng tương đương, năng lực cạnh tranh
đang và sẽ phụ thuộc vào tính năng đầu ra của sản phẩm và dịch vụ, với yếu tố
quyết định là khả năng đổi mới (innovation) của công ty.
Trước hết cần hiểu khu công nghiệp tập trung như thế nào? Theo định nghĩa
của Porter, "cluster" là tập hợp các công ty cùng với các tổ chức tương tác qua lại
trong một lĩnh vực cụ thể. Xung quanh nhà sản xuất hình thành các nhà cung cấp
chuyên môn hoá các phụ kiện và dịch vụ cũng như cơ sở hạ tầng. Khu công nghiệp
tập trung bao trùm lên cả các kênh phân phối và khách hàng, và bên cạnh đó là
những nhà sản xuất sản phẩm phụ trợ, các công ty thuộc các ngành liên quan về kỹ
thuật, công nghệ hoặc cùng sử dụng một loại đầu vào. Các khu công nghiệp tập


Nguyễn Hà Việt

5

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

trung còn hình thành cả các tổ chức chính phủ và phi chính phủ như các trường đại
học, các viện công nghệ, các trung tâm nghiên cứu, hiệp hội thương mại... cung cấp
các dịch vụ đào tạo chuyên môn, giáo dục, thông tin, nghiên cứu và hỗ trợ kỹ thuật.
Theo Luật Đầu tư của Việt Nam số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005 và theo nghị định số 29/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy
định về KCN, KCX và KKT thì định nghĩa về các KCN, KCX và KKT như sau:
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo
quy định của Chính phủ.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý
xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu
công nghiệp quy định của Chính phủ.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ
trường hợp quy định cụ thể.
Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường
đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý
xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của
Chính Phủ.

Khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế
quan, khu bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch,
khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác phù hợp
với đặc điểm của từng khu kinh tế.
1.1.2. Đặc điểm của khu công nghiệp:
Về mặt pháp lý: các khu công nghiệp là phần lãnh thổ của nước sở tại, các
doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp của Việt Nam chịu sự điều
chỉnh của pháp luật Việt Nam như: luật đầu tư nước ngoài, luật lao động, quy chế
về khu công nghiệp và khu chế xuất...
- Về mặt kinh tế: khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực để phát triển
công nghiệp, các nguồn lực của nước sở tại, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước
tập trung vào một khu vực địa lý xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát
Nguyễn Hà Việt

6

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

triển cơ cấu kinh tế, những ngành mà nước sở tại ưu tiên, cho phép đầu tư. Bên cạnh
đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội
tốt tại đây thuận lợi cho việc sản xuất - kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác.
Mục tiêu của nước sở tại khi xây dựng khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy
mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công
nghệ kiểm soát ô nhiễm môi trường.
1.1.3. Sự cần thiết khách quan xây dựng và phát triển KCN

Trong quá trình phát triển kinh tế, ở hầu hết các nước đang phát triển đều rất
thiếu vốn. Do đó vấn đề tạo vốn được coi là vấn đề lớn nhất trong việc huy động
các nguồn lực. Chỉ có tạo được nguồn vốn cho phát triển kinh tế mới có thể tiến
hành đầu tư, tạo điều kiện cho nền kinh tế cất cánh. Giữa hai nguồn vốn đầu tư:
trong nước và ngoài nước thì vốn đầu tư trong nước được coi là giữ vai trò quyết
định cho sự phát triển, vốn đầu tư nước ngoài được xác định là rất quan trọng tạo ra
sự đột phát cho sự phát triển. Một trong những giải pháp để huy động vốn là tích
cực mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng cấp dịch vụ và chất lượng các KCN làm
cho môi trường đầu tư được thuận lợi hơn.
Để hấp dẫn đầu tư nước ngoài và huy động mọi nguồn lực trong nước nhằm
phát triển kinh tế đất nước, các quốc gia trên thế giới đều cần có một môi trường
đầu tư thuận lợi bao gồm môi trường pháp lý hoàn thiện và môi trường kinh doanh
thuận lợi.
Hai nhân tố này là điều kiện cần thiết có ý nghĩa tiên quyết cho việc thu hút
đầu tư. Song thực tế nó cũng là điểm yếu mà tất cả các nước đang phát triển gặp
phải, không dễ gì nhanh chóng khắc phục. Các nước đang phát triển chưa có được
hệ thống pháp luật hoàn hảo cùng với một môi trường kinh doanh thuận lợi nên việc
đáp ứng những điều kiện trên cho các nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, không
thể thực hiện trong thời gian ngắn.
Giải pháp khắc phục mâu thuẫn trên đã được nhiều nước đang phát triển tìm
kiếm, lựa chọn và thực tế đã thành công ở nhiều nước là xây dựng các KCN tập
trung qua đó thu hút doanh nghiệp FDI và đầu tư trong nước trong khi chưa tạo
được môi trường đầu tư hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước.
Mục tiêu chung của việc hình thành KCN là làm tăng trưởng nhanh và vững
chắc tổng sản phẩm quốc nội, tạo việc làm, đô thị hoá các vùng nông thôn lạc hậu,
Nguyễn Hà Việt

7

Khóa học 2009



Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

nâng cao dân trí. Các KCN sẽ góp phần tích cực bảo vệ môi trường sinh thái, nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả vốn đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
liên kết, hợp tác với nhau nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh,
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hội nhập kinh tế quốc tế. KCN phát triển sẽ tác động
đến việc hình thành các vùng nguyên liệu, các vùng công nghiệp vệ tinh, góp phần
thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Phát triển các KCN cũng đồng thời với việc tiết kiệm hạ tầng, có điều kiện thuận lợi
để thu hút đầu tư, cung cấp các dịch vụ hành chính công cho các Doanh nghiêp và
có môi trường tốt để tiếp nhận và chuyển giao công nghệ tiên tiến.
Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, chúng ta chưa thể có ngay được một
hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ trên cả nước, chưa thể tạo ra một mặt
bằng pháp lý thống nhất và bình đẳng cho các thành phần kinh tế trong và ngoài
nước hoạt động, phát triển KCN là một giải pháp để có được một hệ thống kết cấu
hạ tầng đồng bộ, môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất để thu hút vốn trong
nước và vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Đăc biệt trong thời gian gần đây, quan
điểm về phát triển KCN có sự thay đổi: phát triển KCN không chỉ chú trọng vào
mục tiêu thu hút vốn FDI nhằm du nhập các yếu tố vốn, công nghệ, trình độ lao
động của thế giới vào Việt Nam, xem nhẹ khu vực trong nước, mà KCN còn là một
giải pháp để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực của
các thành phần kinh tế trong nước, thông qua việc thu hút các doanh nghiệp trong
nước tham gia đầu tư vào KCN. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là dòng
vốn đầu tư trong nước vào KCN vài năm gần đây ngày càng gia tăng.
KCN là mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Ở các nước
phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, có một thời kỳ các nước này đã đẩy mạnh việc

phát triển các KCN và rất chú trọng vai trò của KCN trong quá trình phát triển kinh
tế. Kinh nghiệm phát triển mô hình KCN ở các nước này cho thấy, phát triển KCN
là một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp quốc gia. Có thể nói thành công của các KCN đã góp phần không nhỏ để các
nước này trở thành những nước có nền kinh tế phát triển như hiện nay. Các nước
công nghiệp mới phát triển như: Trung Quốc, Hàn Quốc cũng như các nước đang
phát triển ở Đông Nam Á hiện nay cũng đang phát triển việc xây dựng và phát triển
các KCN, KCX và đều gặt hái được những thành công đáng kể.
Nguyễn Hà Việt

8

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Thành công của các KCN đã được khẳng định trên thế giới và bước đầu được
khẳng định ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH,
HĐH đất nước. KCN là nơi tập trung các nguồn lực để phát triển kinh tế, là nơi diễn
ra sự phân công lao động xã hội trình độ cao, thực hiện các mối liên kết kinh tế
quốc tế. Phát triển KCN là phù hợp với xu thế kinh tế thế giới, phù hợp với chủ
trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy năng lực của mọi thành phần
kinh tế trong và ngoài nước của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.4. Vai trò của KCN trong tiến trình CNH - HĐH đất nước
(1) Thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Thực tiễn phát triển KCN, KCX thời gian qua cho thấy, các KCN, KCX đã
góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng sản lượng công

nghiệp; góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
khai thác tốt nhất mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh
và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Trong những năm qua, doanh
thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các KCN, KCX liên
tục tăng nhanh đều qua các năm. Doanh thu trung bình của các doanh nghiệp trong
KCN, KCX tăng trưởng trung bình gần 48%/năm, gấp 6,3 lần tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân của cả nước (nguồn: Vụ QL các KKT – Bộ KHĐT). Giá trị xuất
khẩu và tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp trong các KCN, KCX tăng trưởng
mạnh, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX giai đoạn từ
năm 2005-2010 là 38,1%, cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của cả nước.
Năm 2005, các doanh nghiệp trong KCN, KCX đã nộp ngân sách đạt 650 triệu
USD, đến năm 2010, các doanh nghiệp này đóng góp vào ngân sách nhà nước đạt
2.620 triệu USD, cao gấp 4 lần so với năm 2005 (xem Bảng 1.1).
Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu của các khu công nghiệp toàn quốc
Chỉ tiêu

ĐVT

GTSX Công nghiệp

2011

Triệu USD

31350

Giá trị xuất khẩu

"


14950

Giá trị nhập khẩu

"

15930

Nộp ngân sách

"

4200

1000 người

11760

Lao động cuối kỳ

Nguồn: Vụ quản lý các KKT – Bộ KHĐT, 2011
Nguyễn Hà Việt

9

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD


Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của các KCN, KCX tăng trưởng
mạnh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam theo hướng tăng nhanh
tỷ trọng công nghiệp trong GDP, từ 23,79% năm 1991 lên 41% năm 2010. Trong
khi đó, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp giảm tương ứng từ 40,49% năm 1991
xuống còn 22% năm 2010 (nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam, 2009).
Sự chuyển dịch cơ cấu này chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng nhanh của
những ngành công nghiệp chế biến có liên quan mật thiết đến xuất khẩu và KCN,
KCX. Hiện nay các ngành công nghiệp chế biến chiếm tới 80% giá trị sản lượng
công nghiệp (trừ ngành khai thác mỏ). Trong đó có một số ngành có tốc độ tăng
trưởng rất cao như may mặc và da giầy. Chính những ngành này là động lực chính
làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong thời gian qua, góp phần đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa đất nước. Việc phát triển các KCN, KCX có vai trò quan
trọng trong việc góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa.
(2) KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tạo ra lực lượng lao động có trình
độ tay nghề cao, thích ứng với nền công nghiệp hiện đại; đội ngũ cán bộ có trình độ
quản lý giỏi:
KCN, KCX là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng
với chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây là điểm đến lý tưởng để các nhà
đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện đại trên
thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp, trình độ tay
nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng tại Việt Nam.
Đây cũng là yếu tố quan trọng góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng
với dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong
KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công

nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao như

Nguyễn Hà Việt

10

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor...những lĩnh vực Việt Nam còn
yếu kém như cơ khí chính xác, điện tử.
Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng và vận
hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm vững công
nghệ, có tác động lan tỏa và nâng trình độ tay nghề của lao động Việt Nam lên một
bước. Một lượng đáng kể của lao động Việt Nam được đảm nhận các vị trí quản lý
doanh nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện
đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự... Việc được trực tiếp làm
việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao đã rèn luyện được những
kỹ năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam thích ứng với một nền
công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
(3) Thu hút các lượng vốn đầu tư lớn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước:
Các KCN, KCX với những chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi
về hạ tầng kinh tế - kỹ thuật ngày càng là điểm đến hấp dẫn của nhà đầu tư nước
ngoài. Số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đăng ký vào KCN, KCX dần được

mở rộng trong giai đoạn đầu (1991 – 1995) và đặc biệt tăng trưởng với tốc độ cao
trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 và 2001 – 2005. Nếu như cả giai đoạn 1991 –
1995, khi các KCN, KCX đang trong quá trình triển khai xây dựng, số dự án thu hút
được mới đạt 155 dự án với tổng vốn 1.550 triệu USD, thì trong 5 năm 1996 –
2000, các KCN, KCX đã thu hút thêm được 590 dự án với tổng vốn đầu tư tăng
thêm đạt 7.213 triệu USD, tăng gấp 3,8 lần về số dự án và 4,65 lần về tổng vốn đầu
tư đăng ký so với kế hoạch 5 năm 1991 – 1996. Số dự án thu hút mới trong kế
hoạch 5 năm 2001 – 2005 là 1.377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080
triệu USD, tăng gấp 2,34 lần về số dự án và 12% về tổng vốn đầu tư so với kế
hoạch 5 năm 1996 – 2001. Tốc độ tăng bình quân về số dự án thu hút mới và tổng
vốn đầu tư tăng thêm giai đoạn 1996 – 2000 tướng ứng là 37% và 46%, kế hoạch 5
năm 2001 – 2005 là 16% và 37%. Số dự án thu hút mới trong kế hoạch 5 năm 2006
– 2010 là 1.860 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 36.800 triệu USD, tăng gấp
Nguyễn Hà Việt

11

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

1,35 lần về số dự án và 4,5 lần về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 2001 –
2005. (nguồn: Vụ quản lý các KKT – Bộ KHĐT).
Ngoài ra, KCN, KCX còn là một trong những giải pháp để thực hiện chủ
trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Nhìn vào bảng 1.2
ta thấy, nếu như trong 5 năm 1991 – 1995, chỉ có gần 50 dự án đầu tư trong nước
đầu tư vào KCN, KCX, thì đến giai đoạn 5 năm 1996 – 2000 đã thu hút thêm được

450 dự án, tăng 9 lần so với giai đoạn 5 năm 1991-1995; giai đoạn 5 năm 2001 –
2005 thu hút được 1.870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với giai đoạn 5 năm trước; giai
đoạn 5 năm 2006 – 2010 thu hút được 2.010 dự án, tăng gấp 7,5% so với giai đoạn
5 năm trước Tổng vốn đầu tư trong nước tăng thêm tương ứng trong các thời kỳ kế
hoạch là 200 tỷ VNĐ, 35.000 tỷ VNĐ, 80.000 tỷ VNĐ và 218.860 tỷ đồng.
Bảng 1.2: Số lượng dự án và nguồn vốn đầu tư vào các KCN
1991 - 1995

1996 – 2000

2001 – 2005

2006 – 2010

Số

Vốn

Số dự Vốn

Số dự Vốn

Số dự Vốn ĐT

dự

ĐT

án


án

án

ĐT

ĐT

án
Đầu tư
trong nước

50

200

450

35000

1870

80000

2010

218860

155


1550

559

7213

1377

8080

1860

36800

(Tỷ VND)
Đầu tư nước
ngoài (Triệu
USD)

Nguồn: Vụ quản lý các KKT – Bộ KHĐT
Theo Báo cáo năm 2011 của Vụ quản lý các KKT - Bộ KHĐT. Các KCN cả
nước tính đến đầu tháng 12/2011 đã thu hút đầu tư vào KCN được 4.113 dự án đầu
tư nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt 59,6 tỷ USD, và 4.681
dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 420 nghìn tỷ
đồng (tính riêng cho các dự án thứ cấp trong KCN). Tổng số vốn đầu tư phát triển
hạ tầng của 283 KCN trên cả nước đạt gần 9,5 tỷ USD. Tỷ lệ lấp đầy công nghiệp
Nguyễn Hà Việt

12


Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

có thể cho thuê của các KCN cả nước đạt khoảng 55%, riêng các KCN đã vận hành
đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 65%. Giải quyết việc làm cho gần 1,76 triệu lao động và
tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp mỗi năm khoảng 25 tỷ USD (nguồn: Báo cáo
năm 2011 của Vụ quản lý KKT – Bộ KHĐT).
Các dự án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài đa dạng hóa về hình thức
đầu tư. Các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư dưới hình thức doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 85% về số dự án và hơn 80% về tổng vốn đầu
tư đăng ký, còn lại là các hình thức liên doanh, doanh nghiệp cổ phần và hợp đồng
hợp tác kinh doanh. Các dự án đầu tư trong nước cũng bao gồm đa dạng các loại
hình doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn (trên 80% số
dự án và gần 60% vốn đầu tư).
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, KCN, KCX với vai trò
thu hút và đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư đã thực sự đóng góp không nhỏ trong
việc huy động nguồn lực lớn vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
(4) KCN, KCX góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng:
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và cấp
thiết của nền kinh tế quốc dân. Để thu hút đầu tư vào KCN, tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà đầu tư trong việc triển khai nhanh dự án.Việc phát triển các KCN trong thời
gian qua không những thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, mà còn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp
phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN,
KCX. Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:

Thứ nhất là, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích
thích sự phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển
giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Điều này có thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Biên
Hòa, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn (Bắc Ninh, cùng
với quá trình phát triển KCN, KCX các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực

Nguyễn Hà Việt

13

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng.
Thứ hai là, cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý
thuận lợi của nhà nước, có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn
thiện và đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN, KCX có vai trò quyết định trong
việc thu hút đầu tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, KCX không những tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong KCN, KCX hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng
hóa thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn
trong việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào KCN, KCX.
Thứ ba là, việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN, KCX không
những thu hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở

rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các
khu đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm,
bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích
khác của cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh),
Việt Hương (Bình Dương).
Thứ tư là, quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN,
KCX còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát
triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp
phụ trợ, dịch vụ, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và
cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí.
Thứ năm là, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư các
ngành như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt
động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường
địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN, KCX.
(5) KCN góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao trình
độ của đội ngũ lao động quản lý:

Nguyễn Hà Việt

14

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Các KCN có không gian kinh tế rộng lớn với nhiều doanh nghiệp sản xuất đã
tạo ra kênh hiệu quả để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội,

gồm người lao động tại chỗ và lao động nhập cư. Lực lượng lao động trong KCN
gia tăng cùng với sự gia tăng các KCN thành lập mới và mở rộng, các dự án hoạt
động trong KCN. Đến tháng 12 năm 2011, các KCN đã thu hút được trên 150 vạn
lao động trực tiếp với tỷ trọng lao động có chuyên môn kỹ thuật tăng dần và đạt gần
40%, ngoài ra nếu tính cả số lao động gián tiếp thì tổng số việc làm được tạo ra từ
chương trình phát triển KCN khoảng trên 1,76 triệu người.
Ngoài ra, KCN còn là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao đạt
trình độ khu vực và quốc tế. Các lao động trong các KCN còn được làm quen với
mô hình tổ chức và quản lý tiên tiến của các nước phát triển như Nhật, Hàn Quốc,
Hồng Kông, Đài Loan, EU, Mỹ. Một số KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề riêng
phục vụ cho hoạt động của KCN. Do vậy, có thể nói, KCN đóng góp rất lớn vào
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho Việt Nam để giúp hình thành đội ngũ
lao động có ý thức, kỹ năng lao động của một nền công nghiệp hiện đại.
KCN là nơi tập trung lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với
công nghệ mới áp dụng vào sản xuất quản lý đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do
đó, KCN đóng góp rất lớn vào đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam
để hình thành đội ngũ lao động có tay nghề và trình độ của nền công nghiệp hiện
đại. Đến nay, nhiều KCN ở các tỉnh như Huế, Bình Dương, Đồng Nai, thành phố
Hồ Chí Minh đã xây dựng được cơ sở dạy nghề và hình thành mô hình liên kết đào
tạo sử dụng nhân lực giữa các KCN và nhà trường.
(6) Phát triển KCN góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác sản xuất và mở rộng
mối liên kết liên ngành, liên vùng:
Bước đầu liên kết ngành và liên kết vùng trong KCN đã có những kết quả
nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ trong KCN bởi những ngành nghề bổ trợ
lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN đã tạo điều kiện cho các
ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp KCN hoặc bản thân các

Nguyễn Hà Việt

15


Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

doanh nghiệp trong các KCN có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh
doanh xung quanh KCN.
KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích
cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch
vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng
hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các KCN thuộc vùng
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại
các KCN ở Nam Định, Hà Nam, Cần Thơ…đã góp phần tiêu thụ nông sản ở các hộ
gia đình, cơ sở công nghiệp ở các vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước
đời sống nông dân.
KCN góp phần mở rộng thị trường yếu tố đầu vào, đầu ra tại các vùng lân
cận, đặc biệt là những địa phương trình độ công nghiệp phát triển, thấy rõ nhất điều
này là sức lan tỏa lớn của KCN tại thành phố Hồ Chí Minh lan tỏa tới các tỉnh lân
cận như Đồng Nai, Bình Dương, chuyển các địa phương này từ cơ cấu kinh tế thuần
nông sang cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Trong thời gian tới, xu hướng lan
tỏa từ các KCN ở các địa phương này sẽ còn mở rộng hơn nữa sang các địa phương
khác như Long An và Tây Ninh.
Cùng với quá trình phát triển các KCN, nhu cầu về nhân lực ngày càng lớn.
Để đáp ứng nhu cầu này, trong quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch
phát triển công nghiệp trên địa bàn, các địa phương đưa ra chương trình kế hoạch và
giải pháp cụ thể về đào tạo nguồn nhân lực; các cơ sở đào tạo trong vùng và lân cận
phải xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch đào tạo theo định hướng phù hợp với nhu

cầu của thị trường lao động.
Ngoài ra, các KCN cũng có tác động lan tỏa rất lớn đến công nghiệp của địa
phương. Các dự án đầu tư trong KCN là các dự án đầu tư mới, phần lớn được trang
bị máy móc, thiết bị thế hệ mới, đồng bộ. Nhiều dự án có công nghệ hiện đại, mức
độ tự động hóa cao. Với thế mạnh về công nghệ, thiết bị và phương pháp quản lý
tiến bộ, các DN này sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng và ổn định. Vì vậy,
để cạnh tranh có hiệu quả và tồn tại được trên thị trường, các doanh nghiệp khác sản
xuất các sản phẩm cùng loại không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra.
Nguyễn Hà Việt

16

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Như vậy, các DN trong KCN đã góp phần giúp công nghiệp địa phương từ chỗ chỉ
phục vụ nhu cầu tại chỗ là chính đã vươn ra thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tác động lan tỏa đã cho thấy vai trò của KCN trong quá trình đô thị hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Các KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công
nghiệp của địa phương trong vùng có KCN mà còn tác động lan tỏa tới các nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là
hạt nhân của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
(7) KCN đã góp phần bảo vệ môi trường sinh thái:
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập
trung, xử lý chất thải, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh
nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất.

KCN góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra khỏi
thành phố, do vậy, góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, tạo điều kiện quy hoạch đô
thị hiện đại.
(8) Các KCN góp phần tạo ra công nghệ, năng lực sản xuất mới:
Cùng với việc đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư đã đưa
vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ được đánh giá là tiên tiến,
hiện đại. Trong đó, có những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến
khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử.
Trước đây, các dự án đầu tư vào KCN chủ yếu thuộc ngành công nghiệp nhẹ
như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên 50% tổng số dự
án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất khẩu cao và đó góp phần
nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm... Tuy
nhiên, đến nay, các KCN đã có nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, mới
như dầu khí, cơ khí chính xác, sản xuất phụ tùng ô tô.... Nhiều công ty sản xuất
công nghiệp đa quốc gia lớn đã có mặt tại Việt Nam như: Sam Sung, Hồng Hải,
Robert Bosch, Cannon. Một số dự án sản xuất công nghiệp có vốn đầu tư lên đến
hàng trăm triệu USD như Dự án của Tập đoàn Foxcon (Đài Loan) tại Bắc Ninh, Dự

Nguyễn Hà Việt

17

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

án sản xuất linh kiện máy điện thoại di dộng của Tập đoàn Hồng Hải tại Vĩnh

Phúc...sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới của nền kinh tế.
1.2. Quản lý Nhà nước đối với KCN:
Sau 20 năm phát triển các KCN trên địa bàn cả nước đã cho thấy vai trò và
tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này, trước năm 1998
cả nước có chung một Ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam trực thuộc Chính
phủ, sau này đã chuyển thành Vụ quản lý KCN, KKT thuộc Bộ KHH và ĐT và các
địa phương có KCN được Thủ tướng Chính phủ thành lập một Ban QL các KCN
trực thuộc UBND cấp tỉnh.
Tuy Ban QL các KCN của các tỉnh đã được thành lập nhưng cơ sở pháp lý về
quản lý các KCN chưa được hoàn thiện, từ trước năm 2006 công tác quản lý Nhà
nước về các KCN, KCX được qui định trong Nghị định 36/CP của Chính phủ ban
hành ngày 14 tháng 4 năm 1997 nhưng Nghị định 108/2006/NĐ-CP ra đời năm
2006 đã bãi bỏ Nghị định 36/CP. Cho đến tháng 3/2008 Thủ tướng Chính Phủ mới
ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2008 qui định về
KCN, KCX, KKT. Hiện nay công tác quản lý Nhà nước đối với KCN được qui định
đầy đủ và chi tiết tại nghị định này.
1.3. Hệ thống tiêu chí đánh giá khả năng thu hút vốn đầu tư của các khu công
nghiệp:
1.3.1. Các tiêu chí đánh giá khả năng thu hút vốn đầu tư tại khu công nghiệp.
1.3.1.1. Vị trí đặt của khu công nghiệp :
Đây là một trong những tiêu chí rất quan trọng và là cơ sở ban đầu dẫn đến sự
thành công của khu công nghiệp và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi
quyết định đầu tư vào KCN. Khu công nghiệp được đặt ở vị trí thuận lợi, gần cảng
biển, cảng hàng không, ga xe lửa, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật thuận lợi như hệ thống
đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống lưới điện quốc gia, hệ thống
thông tin, viễn thông; điều kiện về nguồn nhân lực dồi dào; tính hấp dẫn các nhà đầu
tư về vị trí và điều kiện sinh hoạt; chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật thấp và
được địa phương, các ngành hỗ trợ tạo điều kiện ...những điểm trên phải được xem
Nguyễn Hà Việt


18

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

xét trên khía cạnh hiện tại và sự duy trì khả năng ấy trong tương lai. KCN đảm bảo
được nhiều điều kiện thuận lợi thì khả năng thành công là rất cao và ngược lại nếu
không đáp ứng được các yêu cầu trên thì sẽ rất khó khăn trong quá trình hình thành,
phát triển thu hút đầu tư và hiệu quả đầu tư phát triển KCN sẽ thấp rất dễ thất bại.
1.3.1.2. Chất lượng qui hoạch KCN :
Tiêu chí này nhằm đảm bảo tính chất bền vững ngay từ giai đoạn đầu của quá
trình qui hoạch, sử dụng và phát triển KCN. Nó thể hiện ở tính hợp lý, đồng bộ,
khoa học, thực tiễn và hiệu quả trong qui hoạch các yếu tố chủ đạo của KCN như
xác định các lĩnh vực và ngành thu hút đầu tư, đất đai, các khu chức năng, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, điện, nước, thông tin, viễn thông, dịch vụ,... nhằm đạt được các mục
tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trường, và thu hút lao động.
Tiêu chí này xét trên 2 khía cạnh:
- Một là, mục đích hình thành khu công nghiệp: nếu việc hình thành khu
công nghiệp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì quy mô có hiệu quả nằm trong
khoảng 200-300 ha (đối với các khu công nghiệp nằm trong khu vực thành thị và
vùng kinh tế trọng điểm), còn 200-400 ha đối với khu công nghiệp nằm trên các
tỉnh; với mục tiêu di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn tập
trung vào thì khu công nghiệp có quy mô nhỏ hơn 100 ha; với mục tiêu tận dụng
nguồn lao động là thế mạnh tại chỗ của các địa phương thì quy mô khu công nghiệp
từ 100 ha; với mục tiêu kết hợp kinh tế với quốc phòng thì hình thành các khu công
nghiệp có quy mô từ 100-200 ha.

- Hai là, tính chất và điều kiện hoạt động của KCN: nếu khu công nghiệp
được đặt ở địa phương có cảng biển và nguồn nguyên liệu lớn, hình thành với tính
chất chuyên môn hoá sản xuất ổn định một số sản phẩm hàng hoá công nghiệp nặng
thì quy mô khu công nghiệp từ 300-500 ha; với các khu công nghiệp nằm ở xa đô
thị với các điều kiện xa cảng biển, với tính chất hoạt động là tận dụng lao động thì
quy mô hợp lý là 50-100 ha.
- Ba là, về qui hoạch chi tiết : Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch các
KCN không những phải xây dựng hợp lý không gian quy hoạch, mà điều quan trọng
Nguyễn Hà Việt

19

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

hơn là tổ chức tốt việc thực hiện quy hoạch trong thực tiễn. Quan điểm phát triển
KCN Việt Nam trong giai đoạn mới cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
(1) Quy hoạch KCN, KCX theo nguyên tắc tiết kiệm :
Tiết kiệm là nguyên tắc quan trọng nhất trong cuộc tranh đua phát triển
KCN, KCX hiện nay ở Việt Nam. Thực hiện nguyên tắc tiết kiệm trước hết là tiết
kiệm sử dụng đất nông nghiệp. Quy hoạch KCN phải tính đến tiết kiệm không gian
sử dụng đất, tránh hiện tượng "quy hoạch treo", "dự án treo". Cần có tầm nhìn chiến
lược trong việc quy hoạch các KCN, KCX, xác định cụ thể KCN nào xây dựng
trước, KCN nào xây dựng sau nhằm tiết kiệm tối đa không gian sử dụng đất, nhất là
đất nông nghiệp.
(2) Kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ :

Quá trình xây dựng quy hoạch phát triển KCN cần thiết phải kết hợp một
cách hữu cơ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, không gian và sử dụng đất,
giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ. Rà soát chi tiết quy hoạch sử dụng đất
để xây dựng và phát triển các KCN trên phạm vi cả nước, để điều chỉnh cho phù
hợp với phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và từng vùng kinh tế. Quy
hoạch phải mang tính tổng thể, phải xem xét tất cả các yếu tố: vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên, nguồn lực vật chất, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực ... đảm bảo
liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội chung, dựa trên sự phân công, căn cứ vào
tiềm năng, lợi thế phát triển tương lai của từng địa phương và khu vực từ đó tận
dụng được lợi thế so sánh, tránh tình trạng cạnh tranh gay gắt làm hiệu quả hoạt
động của các KCN bị giảm sút. Quy hoạch phải có tính toàn diện, bao quát cả quy
hoạch bên trong và bên ngoài các KCN, bao gồm cả vùng dân cư, các cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và xã hội. Các quy hoạch cần được xác định rõ mục tiêu và nguồn thu hút
đầu tư.
(3) Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề xã hội :
Phát triển kinh tế và vấn đề xã hội luôn là hai mặt của đời sống xã hội cần
được quan tâm. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, từ một nước có trình
độ phát triển thấp, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh cần có những
Nguyễn Hà Việt

20

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

"điểm nhấn", lựa chọn ngành mũi nhọn, KCN mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm để

đầu tư phát triển, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, gây lãng phí. Phân loại, lựa chọn
những dự án, những KCN, KCX vừa đảm bảo tính kinh tế, vừa đảm bảo tính xã hội.
Thực hiện đúng chính sách tái định cư theo quy định của Luật Đất đai, có
chính sách hỗ trợ, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi,
có sự ưu tiên tuyển chọn lao động vào các nhà máy trong KCN từ các hộ gia đình
có đất bị thu hồi.
Công tác quy hoạch KCN, KCX cũng cần tránh mang nặng tính cục bộ, khép
kín trong địa giới hành chính, tránh tình trạng "quy hoạch treo", "dự án treo", "đền
bù treo" đang diễn ra phổ biến ở nhiều tỉnh, dân mất đất không có việc làm, mất
lòng tin, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực khác trong xã hội. Tránh tình trạng các
KCN được xây dựng theo "nhiệm kỳ", được phê duyệt nhờ cơ chế xin - cho làm phá
vỡ quy hoạch tổng thể phát triển KCN của cả nước và sự thiếu các chuẩn mực dẫn
đến tình trạng các KCN được xây dựng theo kiểu phong trào, đầu tư tràn lan, dàn
trải, kém hiệu quả.
(4) Kết hợp quy hoạch KCN, KCX và quy hoạch đô thị :
Vấn đề phát triển các đô thị công nghiệp trên cơ sở các KCN theo hướng tập
trung thành các KCN tập trung lớn, thành lập các khu dân cư, dịch vụ vành đai gần
KCN vừa nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ thuật sẵn có, vừa phát triển
KCN quy mô lớn thành phố công nghiệp. Như thế sẽ thuận lợi cho xây dựng nhà ở
công dân, cũng như các dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu cho người lao động trong
KCN.
Quy hoạch xây dựng các KCN, KCX phải gắn với quy hoạch đô thị. Tránh
tình trạng các KCN được xây dựng hoặc ở trong thành phố gây khó khăn cho công
tác bảo vệ môi trường gây ách tắc giao thông, hoặc được bố trí quá xa khu dân cư
và nguồn cung cấp dịch vụ nên khó khăn trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt là các
nhà đầu tư nước ngoài.
Việc quy hoạch KCN chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân
cư, hạ tầng kỹ thuật và xã hội dẫn đến sự phát triển không bền vững. Việc đặt phát
Nguyễn Hà Việt


21

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

triển KCN trong quy hoạch xây dựng vùng và đô thị có một tầm quan trọng đặc biệt
và xuất phát từ bối cảnh Việt Nam hiện nay mật độ dân cư và ngày càng tăng, tỷ lệ
đô thị hoá đang tăng nhanh song song với tiến trình CNH, quỹ đất canh tác nông
nghiệp truyền thống do đó đang dần bị thu hẹp nhường chỗ cho đất dành cho phát
triển đô thị, công nghiệp và hàng loạt các nhu cầu xã hội khác không gắn bó trực
tiếp với sản xuất hàng hoá như dịch vụ, nghỉ ngơi, giải trí.
1.3.1.3. Diện tích đất và tỉ lệ lấp đầy KCN
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả việc sử dụng tối ưu mặt bằng các KCN, tiêu chí
này xác định hiệu quả của việc khai thác và sử dụng đất có ích trên tổng diện tích được
cấp phép theo dự án của KCN, đó chính bằng tổng diện tích đất trong KCN đã được
các doanh nghiệp và dịch vụ thuê so với tổng diện tích đất của KCN. Tỷ lệ lấp đầy này
không đòi hỏi phải đạt cao ngay từ đầu mà phải chia theo từng phân kỳ đầu tư và đánh
giá theo từng giai đoạn. Thời kỳ đầu là thời kỳ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khoảng
3-5 năm, tiếp sau đó là giai đoạn thu hút đầu tư và hoàn thiện các khu chức năng theo
nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp thuê đất, thu hồi chi phí đầu tư, tạo việc làm cho
người lao động …theo kinh nghiệm quốc tế thời gian để thu hồi kinh phí đầu tư xây
dựng có thể kéo dài trong khoảng 15-20 năm còn nếu sau khoảng 10-15 năm mà tỷ lệ
lấp đầy thấp hơn 75% thì coi như KCN này không đạt hiệu quả kinh tế như kỳ vọng và
không đảm bảo phát triển bền vững.
Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp trên đất tự nhiên(%)
S CN

× 100%
STN

SCN: Diện tích đất công nghiệp là diện tích đất của KCN đã hoàn chỉnh kết
cấu hạ tầng và đủ điều kiện để cho các nhà đầu tư thuê, thuê lại để thực hiện dự án
đầu tư sản xuất kinh doanh trong KCN.

STN: Diện tích đất tự nhiên là toàn bộ diện tích đất trong hàng rào KCN, bao
gồm cả diện tích đất công nghiệp, diện tích các công trình hạ tầng khác như khu nhà
điều hành, hệ thống đường giao thông, diện tích thảm cỏ cây xanh và các khu phụ
trợ khác.
Nguyễn Hà Việt

22

Khóa học 2009


Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Tỷ lệ này phản ánh mật độ sử dụng diện tích đất phục vụ cho sản xuất công
nghiệp, nếu mật độ này cao quá thì phần diện tích dành cho làm đường giao thông,
sân vườn, thảm cỏ cây xanh ... ít dẫn đến là giảm khả năng vận chuyển, lưu thông
hàng hóa trong KCN cũng giảm hình ảnh một KCN thân thiện với môi trường. Nếu
tỷ lệ này thấp quá thì hiệu quả sử dụng đất bị ảnh hưởng và gây lãng phí tài nguyên
đất. Theo tác giả tỷ lệ này vào khoảng 60-70% là hợp lý.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp(%) =


SCN đã cho thuê
×100%
Tông SCN cúa KCN

Tỷ lệ này phản ánh tính hiệu quả của việc khai thác sử dụng đất có ích trên
tổng diện tích đất công nghiệp được cấp phép theo dự án của KCN và là chỉ tiêu so
sánh sự thành công của các KCN với nhau trong việc thu hút đầu tư.
Một KCN có diện tích đất lấp đầy 100% là KCN đã khai thác triệt để phần
diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê và không để lãng phí đất trống.
1.3.1.4. Số dự án đầu tư, tổng số vốn đăng ký, vốn đầu tư thực hiện.
Chỉ tiêu số dự án đầu tư nhằm xác định khả năng thu hút các nhà đầu tư và số
dự án được đầu tư vào từng KCN đồng thời cũng là một tiêu chí so sánh khả năng
thu hút vốn đầu tư vào các KCN với nhau. Chỉ tiêu so sánh này chỉ mang tính tương
đối bởi nếu số dự án đầu tư vào một KCN nhiều nhưng tổng vốn đầu tư thấp thì
cũng chưa phản ánh hết được quy mô của KCN.
Chỉ tiêu tổng vốn đầu tư nhằm xác định tổng lượng vốn mà các nhà đầu tư
đầu tư cho từng KCN đồng thời nó là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thu hút vốn của
từng KCN với nhau. Chỉ tiêu này cũng chưa phản ánh chính xác hiệu quả khai thác
bởi các KCN có diện tích khác nhau, do vậy khi so sánh cần cân nhắc thêm nhiều
yếu tố khác.
Tổng số vốn đăng ký và tỉ lệ vốn đầu tư thực hiện trong tổng số vốn đăng ký
của các doanh nghiệp FDI và trong nước vào KCN; vốn đầu tư bình quân của một
dự án và vốn đầu tư bình quân trên một ha đất.
Công thức tính tỷ lệ vốn đầu tư trên một diện tích đất công nghiệp
Nguyễn Hà Việt

23

Khóa học 2009



Luận văn Thạc sỹ QTKD

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Tổng vốn đầu tư (triệu USD)
Tỷ lệ vốn đầu tư (triệu USD/ha) =
Tổng diện tích đất CN(ha)
1.3.1.5. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Tiêu chí này bao gồm: Tổng doanh thu; tổng giá trị gia tăng; tổng lao động
thu hút; tổng vốn kinh doanh; tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng doanh thu; năng suất
lao động tính theo doanh thu; thu nhập bình quân của một đơn vị lao động. Một số
chỉ tiêu được tính như sau:
Tổng số lao động.
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá khả năng thu hút lao động và giải quyết
việc làm giữa các KCN về số lượng lao động đang làm việc tại các KCN. Qua chỉ
tiêu này chúng ta có thể thấy được lợi ích của việc xây dựng các KCN trong việc
giải quyết tình trạng thất nghiệp và lao động dôi dư ở các địa phương.
Chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh được ở góc độ giải quyết việc làm của các
KCN, chứ không đánh giá được “chất lượng” của các dự án đầu tư. Bởi vì một
doanh nghiệp đầu tư một lượng vốn ít, hoặc chỉ là doanh nghiệp gia công sử dụng
một số lượng lớn nhân công thì chứng tỏ trình độ kỹ thuật, khoa học công nghệ,
máy móc mà doanh nghiệp áp dụng vào sản xuất là không cao mà sử dụng sức
người là chủ yếu.
Tỷ lệ % đóng góp GDP cho địa phương.
Tổng giá trị sản lượng của KCN
% đóng góp GDP =

X 100%

GDP địa phương.

Chỉ tiêu này nhằm đánh giá khả năng và năng lực đóng góp của KCN vào việc
tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP của địa phương nơi đặt KCN. Qua chỉ tiêu
này chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng của KCN đối với việc tăng trưởng GDP
và tăng trưởng kinh tế địa phương để từ đó có cách nhìn nhận đúng trong việc cần
thiết, hay chưa thực sự cần thiết trong xây dựng và phát triển các KCN và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế địa phương.

Nguyễn Hà Việt

24

Khóa học 2009


×