Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC GIÁM SÁT ĐỐI VỚI LĨNH VỰC MÔI GIỚI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------------------

TRẦN THỊ THANH HOA

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC GIÁM SÁT ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
MÔI GIỚI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM

Nghành : Quản trị kinh doanh
Mã số : 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ XUÂN BÌNH

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

TRẦN THỊ THANH HOA


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 01
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔI GIỚI BẢO HIỂM VÀ KINH
NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
MÔI GIỚI BẢO HIỂM ....................................................................................... 04
1.1. Lý luận cơ bản về môi giới bảo hiểm ...................................................... 04
1.2. Kinh nghiệm quốc tế về môi giới bảo hiểm ............................................ 15
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 26
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM SÁT ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
MÔI GIỚI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM ........................................................... 27
2.1. Thực trạng công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo hiểm ....... 27
2.2. Tồn tại và nguyên nhân trong công tác giám sát đối với lĩnh vực môi
giới bảo hiểm ................................................................................................ 43
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 52
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC GIÁM SÁT ĐỐI VỚI
LĨNH VỰC MÔI GIỚI BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM .................................... 54
3.1. Mục tiêu, định hướng công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo
hiểm tại Việt Nam ........................................................................................... 54
3.2. Hệ thống các giải pháp hoàn thiện .......................................................... 56
Kết luận chương 3 ................................................................................................. 73
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bancassurance

: Kênh phân phối bảo hiểm qua ngân hàng

CEO


: Giám đốc điều hành

CIRC

: Ủy ban quản lý bảo hiểm Trung Quốc

CBRC

: Ủy ban quản lý giám sát ngân hàng Trung Quốc

DNBH

: Doanh nghiệp bảo hiểm

DNMGBH

: Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm

EU

: Cộng đồng chung Châu Âu

EIPS

: Hệ thống thanh toán đầu tư liên ngân hàng

FTA

: Hiệp định thương mại tự do


HĐBH

: Hợp đồng bảo hiểm

HĐQT

: Hội đồng quản trị

ICPs

: Những nguyên tắc cơ bản về bảo hiểm

IBA

: Luật kinh doanh bảo hiểm

IMF

: Quỹ tiền tệ quốc tế

TBH

: Tái bảo hiểm

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Bảng 1.1: Phí bảo hiểm tại Malaysia .............................................................. 21
Bảng 2.1: Tỷ lệ phí bảo hiểm thu xếp qua MGBH PNT (2010 - 2014) ........ 33
Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh chia theo khối doanh nghiệp (2010 - 2014)... 35
Bảng 3.1: Trách nhiệm, nghĩa vụ theo quan hệ ủy quyền, ủy nhiệm ............. 61
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ Phí BH thu xếp qua MG của BH PNT (2014) .................. 29
Sơ đồ 2.1: Hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động KDBH ........................ 36


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Song hành với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, sự
phát triển của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đã tạo ra hoạt động dịch vụ tài
chính mới, trong đó có hoạt động môi giới bảo hiểm. Hoạt động môi giới bảo
hiểm với vai trò làm cầu nối giữa người mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy các giao dịch bảo hiểm,
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNBH cũng như đem lại nhiều lợi ích cho bên
mua bảo hiểm, qua đó, thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển.
Tại Việt Nam, các ngành dịch vụ tài chính nói chung, ngành bảo hiểm nói
riêng so với các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế còn khá mới mẻ. Để phát
huy hơn nữa vai trò của các kênh phân phối qua môi giới bảo hiểm, việc nghiên
cứu toàn diện các vấn đề liên quan đến môi giới bảo hiểm là rất cần thiết. Do
hoạt động môi giới bảo hiểm là một trong những hoạt động phân phối có những
đặc thù riêng, việc giám sát hoạt động môi giới bảo hiểm đòi hỏi phải có nghiên
cứu sâu sắc và toàn diện.
Trong bối cảnh đó, để phù hợp với bản chất của bảo hiểm là tấm lá chắn
giúp ổn định tài chính cho đối tượng tham gia bảo hiểm trước các nguy cơ rủi ro,
đồng thời, để đảm bảo cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh,
an toàn và hiệu quả, cung cấp các luận cứ khoa học cho hoạt động giám sát,

việc lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Hoàn thiện công tác giám sát đối với lĩnh vực
môi giới bảo hiểm tại Việt Nam ” là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số đề tài của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về lĩnh
vực môi giới bảo hiểm.
Ngoài nước:
Munich Personal RePEc Archive (2007): “The role of an insurance broker an
their position on the insurance market in the Czech republic” - Vai trò môi giới
bảo hiểm đối với thị trường bảo hiểm tại Cộng Hòa Séc.
1


Peter Maas (2006): “ How insurance brokers create values - a functional
approach” - Giá trị tạo ra của MGBH
Trong nước:
Đề tài: “Môi giới bảo hiểm và hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt
Nam” nhóm sinh viên khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Tài chính kế
toán Quảng Ngãi năm 2014;
Đề tài: “Hoạt động của trung gian bảo hiểm” nhóm sinh viên khoa Ngân
hàng, Trường Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh năm 2004;
Đề tài: “Bảo hiểm Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển”của học
viên Bùi Hồng Anh, Trường Đại học Ngoại thương năm 2003;
Đề tài: “Thực trạng hoạt động môi giới bảo hiểm trong thị trường Việt
Nam”…..
Tuy nhiên, hầu hết các đề tài trên chủ yếu là các luận văn đại học mang
tính thực tiễn chưa cao, nặng tính lý luận, chưa có đề tài nào dưới dạng luận văn
thạc sỹ đi sâu vào nghiên cứu một cách đầy đủ về công tác giám sát đối với lĩnh
vực môi giới bảo hiểm. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành Quản trị kinh doanh .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm nghiên cứu về hệ thống lý luận về
môi giới bảo hiểm và công tác giám sát môi giới bảo hiểm, đánh giá thực trạng
công tác giám sát môi giới bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra được
một số giải pháp để hoàn thiện công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo
hiểm tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống lại cơ sở lý luận về môi giới bảo hiểm và công tác giám sát môi
giới bảo hiểm, nêu thực trạng công tác giám sát môi giới bảo hiểm tại Việt Nam
hiện nay, cuối cùng là đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện công tác giám sát

2


đối với lĩnh vực môi giới bảo hiểm tại Việt Nam, phù hợp với các thông lệ và
chuẩn mực quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu về môi giới bảo hiểm và công tác giám sát môi giới
bảo hiểm.
Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả chủ yếu tập trung tổng hợp, đánh giá
các vấn đề về công tác giám sát về lĩnh vực môi giới bảo hiểm, phân tích hệ
thống khuôn khổ pháp luật, hoạt động giám sát đứng ở góc độ của cơ quan giám
sát hơn là hoạt động giám sát của các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp và bản thân
của các DNMGBH.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp: Đề tài vận dụng các phương pháp đánh
giá tổng hợp kết hợp với hệ thống hoá để nhận định đầy đủ về tình hình hoạt
động chung và nêu các điểm mạnh, điểm yếu trong công tác giám sát đối với
lĩnh vực môi giới bảo hiểm trong giai đoạn hiện tại và đưa ra các đề xuất trong
tương lai.

Phương pháp so sánh đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, giữa
thực trạng Việt Nam và quốc tế để tìm ra và giải quyết những khó khăn, thách
thức trong công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo hiểm
Ngoài ra, đề tài còn vận dụng một số phương pháp trong quá trình nghiên
cứu đề tài như phương pháp thống kê, thu thập và phân tích số liệu để làm rõ
những nội dung liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với phạm vi nghiên cứu về lĩnh vực môi giới bảo hiểm từ những vấn đề
lý luận cho tới thực tiễn hoạt động môi giới bảo hiểm, đề tài là nguồn tài liệu
quan trọng về môi giới bảo hiểm đối với các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh
vực bảo hiểm. Đồng thời, những lý luận, kinh nghiệm quốc tế đề tài đúc kết
được, đánh giá nhận định về hoạt động môi giới bảo hiểm trong thời gian qua sẽ
là cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện công tác giám sát đối với lĩnh vực môi
giới bảo hiểm ở Việt Nam trong thời gian tới.
3


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về môi giới bảo hiểm và kinh nghiệm quốc tế
về công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo hiểm.
Chương 2: Thực trạng công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo
hiểm tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác giám sát đối với lĩnh vực môi
giới bảo hiểm tại Việt Nam

4


Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔI GIỚI BẢO HIỂM VÀ KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VỀ CÔNG TÁC GIÁM SÁT ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
MÔI GIỚI BẢO HIỂM
1.1. Lý luận cơ bản về môi giới bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm, nội dung, phân loại hoạt động của môi giới bảo hiểm
1.1.1.1. Khái niệm môi giới bảo hiểm
Theo Tiến sỹ David Bland "MGBH là một cá nhân hoặc một công ty mà
toàn bộ thời gian làm việc của họ là thu xếp bảo hiểm với các DNBH. Nhà
MGBH không làm việc cho DNBH mà làm việc cho những người mua các sản
phẩm bảo hiểm” [8,tr. 250].
Tổ chức, cá nhân MGBH thực hiện các hoạt động tư vấn giúp khách hàng
đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm; cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo
hiểm về sản phẩm, điều kiện, mức phí và DNBH; các công việc liên quan đến
đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bên mua (bao gồm hỗ trợ việc giải
quyết và thương lượng bồi thường...), giúp cho cả DNBH và khách hàng tiết
kiệm thời gian và chi phí giao dịch bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin
tưởng lẫn nhau giữa DNBH và bên mua bảo hiểm.
Hoạt động MGBH giúp người mua bảo hiểm hiểu và lựa chọn hình thức
bảo hiểm phù hợp và DNBH uy tín, tránh được những rủi ro lớn có thể xảy ra,
gây thiệt hại cho người mua bảo hiểm. Qua đó có thể thấy rằng, bản chất của
MGBH là cầu nối giữa người mua bảo hiểm với người bảo hiểm với tư cách là
đại diện chủ yếu cho quyền lợi khách hàng và bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
(bên mua bảo hiểm) chứ không phải cho DNBH (bên bán bảo hiểm).
1.1.1.2. Nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm
Hoạt động MGBH thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, phí bảo hiểm,
DNBH cho bên mua bảo hiểm; Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh
giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo
5



hiểm; Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và bên mua
bảo hiểm; Thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện hợp
đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm: Tư vấn quản lý rủi ro ngoài
hoạt động MGBH; Tư vấn cho DNBH xây dựng sản phẩm bảo hiểm mới; Thực
hiện hoạt động MGBH nhưng không thu phí tư vấn trực tiếp từ khách hàng cũng
như không thu hoa hồng MGBH từ DNBH...
Với vai trò là người MGBH, đại diện cho khách hàng thực hiện thu xếp
các hợp đồng bảo hiểm với DNBH, MGBH phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với
bên mua bảo hiểm về các lỗi liên quan đến hoạt động tư vấn của mình. Điều đó
cho thấy trách nhiệm của DNMGBH là rất lớn và theo quy định của các nước
trên thế giới, các doanh nghiệp môi giới bắt buộc phải tham gia bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động môi giới với các mức trách nhiệm khác
nhau. Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo quyền lợi tốt hơn cho người được
bảo hiểm và giúp cho các DNMGBH cũng được bảo hiểm khi xảy ra những sơ
xuất trong hoạt động nghề nghiệp.
1.1.1.3. Phân loại môi giới bảo hiểm
Căn cứ vào đối tượng khách hàng mà MGBH có thể phân thành 3 loại:
MGBH gốc, môi giới TBH và môi giới hỗn hợp (composite). Cụ thể như sau:
MGBH gốc: Là MGBH chịu trách nhiệm tư vấn, tổ chức dàn xếp bảo
hiểm giữa khách hàng và DNBH gốc. MGBH gốc có trách nhiệm làm việc với
khách hàng để xác định nhu cầu bảo hiểm, sau đó đàm phán, thỏa thuận với
DNBH để có được phạm vi bảo hiểm và phí bảo hiểm tốt nhất, thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng. MGBH gốc thực hiện nhiều công việc cho DNBH và được
nhận môi giới phí từ DNBH hoặc trực tiếp từ khách hàng. MGBH bảo hiểm gốc
có thể được phân loại theo nghiệp vụ BH môi giới, thành MGBH nhân thọ và
MGBH phi nhân thọ tùy theo mức độ, yêu cầu giám sát.
Môi giới TBH: Môi giới TBH có vai trò hỗ trợ, giúp đỡ các DNBH gốc
làm việc việc các DN tái bảo hiểm trong việc bảo hiểm cho chính các DNBH
gốc. Môi giới tái bảo hiểm có trách nhiệm tư vấn các DNBH gốc khi các rủi ro

được bảo hiểm quá lớn so với khả năng tài chính của họ trong việc thanh toán
6


bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái
bảo hiểm giúp DNBH phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần
thiết. Hoạt động tư vấn của môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp các DNBH có được sự
an toàn về tài chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại
sự ổn định cao hơn cho xã hội.
MGBH hỗn hợp (composite) được phép thực hiện đồng thời 02 nghiệp vụ
MGBH gốc và môi giới tái bảo hiểm.
Căn cứ vào đối tượng sản phẩm/nghiệp vụ mà môi giới tổ chức phân phối,
tư vấn, MGBH được chia thành MGBH con người và MGBH tài sản.
1.1.2. Vai trò của môi giới bảo hiểm
1.1.2.1. Đối với người mua bảo hiểm
MGBH tư vấn giúp khách hàng đánh giá những rủi ro của khách hàng,
phân tích những rủi ro có thể được loại trừ, có thể được giữ lại và những rủi ro
cần phải bảo hiểm, giúp khách hàng lựa chọn các DNBH có đầy đủ khả năng
cung cấp những sản phẩm bảo hiểm, những dịch vụ bảo hiểm phù hợp theo yêu
cầu của khách hàng.
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đồng thời cũng giúp người tham gia thực
hiện đàm phán với các DNBH để có thể thu xếp được những điều kiện, điều
khoản, mức phí bảo hiểm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó,
MGBH cũng hỗ trợ cho người tham gia bảo hiểm trong việc bổ sung hồ sơ bảo
hiểm, giúp khách hàng các thủ tục yêu cầu bồi thường khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra, giúp cho khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch bảo hiểm.
1.1.2.2. Đối với DNBH
Thông qua họat động của mình, môi giới trở thành cầu nối giữa người
mua bảo hiểm và DNBH, giữa DNBH gốc và doanh nghiệp tái bảo hiểm. Theo
đó, các DNBH có thể cung cấp sản phẩm của mình cho người mua bảo hiểm,

làm tăng trưởng doanh thu và thúc đẩy họat động kinh doanh của mình.
Đồng thời, doanh nghiệp môi giới là doanh nghiệp có quan hệ tốt với người
tham gia bảo hiểm. Do đó, trong nhiều trường hợp, DNBH đã uỷ quyền cho
MGBH thực hiện công tác quản lý khách hàng của DNBH, thực hiện thu hộ phí
7


bảo hiểm và thanh toán bồi thường cho khách hàng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Hoạt động này đã tiết kiệm được nhiều chi phí cho DNBH trong việc tìm kiếm
khách hàng, chi phí đánh giá rủi ro, chi phí quản lý khách hàng,... và tạo điều
kiện cho DNBH tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm và đưa ra được
nhiều loại hình sản phẩm bảo hiểm mới.
1.1.2.3. Đối với thị trường bảo hiểm
MGBH thúc đẩy sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Thông qua hoạt
động MGBH, thị trường bảo hiểm sẽ nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng
phục vụ của các DNBH, thúc đẩy các giao dịch bảo hiểm phát triển. MGBH
thúc đẩy giao dịch công bằng và cạnh tranh có trật tự trên thị trường bảo hiểm.
Với hoạt động của mình, công ty MGBH sẽ tạo thêm nhiều chuyên gia giỏi
về chuyên môn nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm bảo hiểm. Đây sẽ là đóng góp
quan trọng của công ty MGBH với thị trường bảo hiểm phát triển nhanh nhưng
còn thiếu nhiều những chuyên gia về bảo hiểm đối với các thị trường bảo hiểm
mới phát triển như Việt Nam.
Thông qua các khả năng chuyên môn của mình cũng như sự hiểu biết về
người cung cấp dịch vụ cũng như người sử dụng dịch vụ, các công ty môi giới
có thể đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn tình trạng, hành vi trục lợi
bảo hiểm mang lại sự phát triển lành mạnh cho thị trường bảo hiểm.
1.1.2.4. Đối với xã hội
Hoạt động MGBH phát triển trước hết góp phần tạo thêm công ăn việc
làm cho toàn xã hội thông qua việc phát triển hệ thống MGBH. Đồng thời, thông
qua các hoạt động MGBH từng bước nâng cao nhận thức của người dân và của

toàn xã hội về những vai trò, lợi ích của hoạt động bảo hiểm, từ đó thúc đẩy thị
trường bảo hiểm phát triển.
1.1.3. Công tác giám sát đối với lĩnh vực môi giới bảo hiểm
1.1.3.1. Các chủ thể liên quan trong hoạt động giám sát môi giới bảo hiểm
Các chủ thể liên quan đến công tác giám sát lĩnh vực MGBH bao gồm tất
cả các bên tham gia vào quá trình tổ chức và hoạt động của MGBH, bao gồm:

8


Chủ thể giám sát bao gồm cơ quan giám sát bảo hiểm của nhà nước, các
cơ quan nhà nước liên quan như thanh tra, cơ quan công an, điều tra, tố tụng,…,
các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng và truyền thông.
Trong đó các chủ thể là cơ quan, tổ chức của nhà nước thực hiện chức năng
giám sát theo những quyền hạn, nhiệm vụ hành pháp, tư pháp do nhà nước giao
phó. Trong khi đó, các tổ chức hội nghề nghiệp, tổ chức bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, cơ quan báo chí là lực lượng thứ tư bên cạnh các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp, thực hiện vai trò giám sát độc lập trong một nhà nước
pháp quyền và xã hội dân sự .
Chủ thể chịu sự giám sát bao gồm các tổ chức, cá nhân MGBH. Tuy nhiên,
các chủ thể này đồng thời cũng thực hiện vai trò giám sát nội bộ lẫn nhau. Ví dụ:
DNMGBH thực hiện giám sát hoạt động của các nhân viên trực tiếp thực hiện
hoạt động môi giới.
(1) Cơ quan giám sát bảo hiểm
Bảo hiểm là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh rất đặc thù trong các dịch
vụ tài chính. Hầu hết các quốc gia đều thiết lập một cơ quan giám sát chuyên
ngành đối với lĩnh vực hoạt động kinh doanh bảo hiểm (hoặc độc lập, hoặc trực
thuộc). 03 mục tiêu chính của hoạt động giám sát của cơ quan giám sát bảo
hiểm là:
Duy trì sự phát triển ổn định cho thị trường bảo hiểm góp phần giữ ổn định

của toàn bộ thị trường tài chính và hệ thống tài chính.
Đảm bảo sự phát triển lành mạnh của các chủ thể tham gia thị trường, tuân
thủ các chuẩn mực, qui định giám sát, giúp cho các chủ thể có đủ sức chống đỡ
với các biến động của thị trường, các rủi ro, các cú sốc về chính sách.
Giám sát thị trường nhằm đảm bảo cho quyền lợi hợp pháp của người tiêu
dùng, ngăn ngừa và hạn chế các quyền lợi này bị xâm hại bởi các chủ thể tham
gia thị trường.
Xuất phát từ ba mục tiêu chính như trên, hoạt động giám sát của các cơ
quan giám sát tài chính được thực hiện chủ yếu thông qua việc:

9


Xây dựng, ban hành và giám sát thực hiện các quy định/khung pháp lý.
Đây là công cụ chính để thực hiện việc giám sát của các Cơ quan quản lý;
Xây dựng, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các định hướng, chính sách
phát triển thị trường;
Nghiên cứu, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho thị trường; tuyên truyền,
phổ biến nâng cao nhận thức, ý thức của các chủ thể tham gia thị trường, góp
phần thúc đẩy phát triển thị trường.
(2). Đối với các tổ chức là hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức bảo vệ người
tiêu dùng và truyền thông
Vai trò giám sát của các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức bảo vệ người
tiêu dùng và truyền thông ngày càng trở nên quan trọng đối với các hoạt động
kinh tế, trong đó có kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt, vai trò của các tổ chức tự
giám sát về bảo hiểm như Hiệp hội bảo hiểm ngày càng quan trọng. Hiệp hội
bảo hiểm có thể thực hiện chức năng giám sát MGBH theo các quy định và tiêu
chuẩn của thành viên trong Hiệp hội đưa ra, góp phần vào hoạt động tăng cường
giám sát MGBH.
Xu hướng trên thế giới hiện nay ngày càng chuyển giao nhiều nội dung

giám sát nhà nước sang cho các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp (như Hiệp hội các
nhà bảo hiểm, Hiệp hội các nhà MGBH...) nhằm phát huy quyền tự giám sát
(self-regulation) trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, đồng thuận giữa các thành
viên của tổ chức Hiệp hội. Cơ chế tự nguyện, đồng thuận sẽ là cơ sở, tiền đề cho
việc triển khai, tuân thủ thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực, quy định được
chấp nhận chung.
(3) Đối với các DNBH
Tùy theo chiến lược phân phối mà DNBH có cách thức giám sát khác nhau
đối với MGBH, tuy nhiên, mục tiêu của công tác giám sát MGBH của mọi
doanh nghiệp đều nhằm thực hiện các mục tiêu chung của doanh nghiệp, đó là:
đáp ứng nhu cầu thị trường; đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách
hàng; đạt được lợi nhuận mong muốn cho nhà đầu tư; duy trì và tăng cường khả

10


năng cạnh tranh, thị phần; quản lý tốt các rủi ro; tuân thủ pháp luật; tạo lập và
bảo vệ danh tiếng của doanh nghiệp…
Hoạt động giám sát của DNBH với MGBH là hoạt động giám sát đối với
kênh phân phối được thực hiện thông qua việc xây dựng các quy định, quy trình,
quy chế, chỉ tiêu giám sát và các cơ chế, công cụ giám sát thực hiện. Cụ thể:
Trong quan hệ với DNMGBH, DNBH thông qua các nội dung trong hợp
đồng hợp tác kinh doanh với doanh nghiệp môi giới để có cơ sở thực hiện giám
sát công tác phân phối sản phẩm bảo hiểm qua môi giới như việc thu xếp giao
kết hợp đồng, thu nộp phí của bên mua bảo hiểm cho DNBH,...
Hệ thống các chỉ tiêu báo cáo về doanh thu phí, thù lao, hoa hồng chi trả
cho môi giới, số lượng hợp đồng bảo hiểm giao kết qua từng kênh MGBH, số
lượng hợp đồng hủy ngang trong số các hợp đồng đã giao kết... đảm bảo cho
doanh nghiệp nắm được thực trạng triển khai từng kênh MGBH, vai trò vị trí
của từng kênh MGBH trong sự phát triển của doanh nghiệp mình.

Hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán, kế toán của doanh nghiệp sẽ đảm
bảo tính chính xác, độ tin cậy của các dữ liệu liên quan đến MGBH và phát hiện
được những bất thường trong hoạt động của các kênh này mà có giải pháp giải
quyết kịp thời.
1.1.3.2. Nội dung cơ chế giám sát đối với lĩnh vực MGBH
Hệ thống cơ chế giám sát MGBH bao gồm: khuôn khổ pháp luật điều chỉnh
hoạt động MGBH, cơ chế giám sát thường xuyên, kiểm tra tại chỗ và thanh tra
của cơ quan giám sát bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan
cùng với hệ thống các quy định, cơ chế tự giám sát của các tổ chức hiệp hội
nghề nghiệp; quy định, quy trình giám sát nội bộ các DNBH và MGBH; các cơ
chế giám sát hoạt động MGBH của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, và các
tổ chức xã hội dân sự khác...
(1) Quy định điều chỉnh hoạt động MGBH
Quy định pháp luật về hoạt động MGBH được xây dựng phụ thuộc vào
những yếu tố liên quan đến thể chế chính trị (tư bản chủ nghĩa, dân chủ xã hội,
chủ nghĩa xã hội...), mức độ phát triển của thị trường bảo hiểm, các yếu tố liên
11


quan đến đặc điểm kinh tế, văn hóa, phong tục, tập quán kinh doanh...., bao gồm
các nội dung chính như sau:
(a) Quy định về các loại hình MGBH và nội dung hoạt động của MGBH
Về loại hình MGBH: Có thể quy định MGBH trên cơ sở xác định tính độc
lập trong hoạt động với DNBH. MGBH hoạt động với tư cách đại diện (agent)
cho khách hàng (principal).
Về Nội dung hoạt động của MGBH: MGBH cơ bản thực hiện các nội dung
hoạt động theo yêu cầu của khách hàng, bao gồm cung cấp thông tin về các loại
hình sản phẩm bảo hiểm (quy tắc, điều khoản, biểu phí) có trên thị trường; đánh
giá rủi ro và tư vấn lựa chọn sản phẩm bảo hiểm, DNBH phù hợp; đại diện đàm
phán, thu xếp giao kết HĐBH; và thực hiện các công việc khác có liên quan đến

thực hiện HĐBH.
Ngoài những nội dung công việc liên quan đến tư vấn, môi giới, thu xếp
HĐBH, một mảng nội dung công việc khác của MGBH là tư vấn quản trị rủi ro.
Trên cơ sơ phân tích nội dung, mô hình sản xuất kinh doanh và các yếu tố liên
quan khác, MGBH sẽ có đánh giá về các rủi ro liên quan đến hoạt động của
khách hàng để cung cấp tư vấn quản trị rủi ro từ chiến lược rủi ro, khẩu vị rủi ro,
chính sách quản trị rủi ro, quy trình xác định, đánh giá, định lượng, kiểm soát rủi
ro cho đến các công cụ, cơ chế giảm thiểu, phân tán, chuyển giao rủi ro. Mặc dù
nội dung hoạt động này không phải lúc nào cũng được phép thực hiện (đặc biệt
tại các thị trường mới nổi, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh khá phổ biến),
đây là mảng dịch vụ quan trọng của MGBH.
(b) Quy định về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm và tư cách
đạo đức của MGBH
Với bản chất nhạy cảm và phức tạp của nghề nghiệp, liên quan trực tiếp
đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, MGBH cần phải có năng lực
chuyên môn nhất định không chỉ về bảo hiểm mà còn trình độ, kỹ năng (môi
giới, giới thiệu sản phẩm, phân tích, đánh giá rủi ro của khách hàng...). Năng lực
chuyên môn được hình thành, phát triển thông qua quá trình học tập, đào tạo và
tích lũy kinh nghiệm thực tiễn.
12


Do đó, để đảm bảo chất lượng dịch vụ MGBH, quy định pháp luật thường
yêu cầu cá nhân muốn được chấp nhận đăng ký hoạt động phải có chứng chỉ đào
tạo phù hợp và tích lũy thời gian kinh nghiệm nhất định; hoặc tổ chức MGBH
phải đảm bảo có quy trình đảm bảo và giám sát cá nhân trực tiếp hoạt động môi
giới thuộc tổ chức đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn bằng cấp và kinh nghiệm.
Đồng thời, MGBH còn phải thường xuyên cập nhật kiến thức nhằm đảm bảo
năng lực chuyên môn theo kịp với biến động, thay đổi của thị trường và quy
định pháp lý có liên quan.

Chi tiết và chặt chẽ hơn nữa, cơ quan giám sát bảo hiểm có thể quy định
mức độ chuyên môn và kinh nghiệm MGBH áp dụng cho từng nhóm sản phẩm
bảo hiểm theo hướng sản phẩm càng phức tạp, yêu cầu càng cao.
(c) Quy định về công khai, minh bạch thông tin với khách hàng
Trong quá trình thực hiện hoạt động MGBH, ngoài những thông tin liên
quan đến sản phẩm bảo hiểm, một số thông tin liên quan đến bản thân MGBH
cũng rất quan trọng, cần được công khai, minh bạch cho khách hàng. Vấn đề
công khai mang tính nguyên tắc này là nhằm mục tiêu phát hiện và hạn chế
những mâu thuẫn lợi ích có thể xảy ra, bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Theo đánh giá cách thức chi trả phí, hoa hồng cho hoạt động MGBH là vấn
đề nhiều khả năng có thể dẫn đến mâu thuẫn lợi ích giữa MGBH và khách hàng.
Ví dụ, trường hợp hoa hồng MGBH không phải do khách hàng trực tiếp chi trả
mà trích từ phí bảo hiểm có thể có ảnh hưởng tới tính độc lập, khách quan trong
việc đưa ra tư vấn của MGBH; MGBH có thể có xu hướng tư vấn những SPBH
có mức phí cao.
(d) Quy định về bảo vệ tiền của khách hàng
Trong quá trình hoạt động, MGBH có thể nhận tiền phí bảo hiểm từ khách
hàng và tiền bồi thường (trả tiền bảo hiểm) của DNBH với các khiếu nại bồi
thường, hoàn phí cho khách hàng. Do vậy, cần có những quy định pháp lý cụ thể
đối với dòng tiền luân chuyển qua MGBH từ khách hàng tới DNBH và ngược
lại, nhằm đảm bảo dòng tiền luân chuyển trôi chảy, tránh chiếm dụng, mất mát.

13


Cơ quan giám sát có thể yêu cầu MGBH phải có các thủ tục và quy trình
bảo vệ tiền khách hàng như: Đảm bảo các khoản tiền được trả vào tài khoản kịp
thời; đảm bảo hồ sơ sổ sách tài chính kế toán đầy đủ; đảm bảo những khác biệt
trên tài khoản được theo dõi kịp thời và giải quyết thỏa đáng..
(e) Quy định liên quan đến hoạt động nghiệp vụ MGBH

Hoạt động nghiệp vụ (conduct of business) MGBH là các hành vi trực tiếp
trao đổi, làm việc với khách hàng nhằm giới thiệu, chào bán SPBH; cung cấp
thông tin, đánh giá rủi ro, tư vấn SPBH; và hàng loạt các hành vi môi giới khác
có liên quan đến cả quá trình từ trước tiếp cận khách hàng, giao kết HĐBH cho
đến khi tất cả các quyền, nghĩa vụ có liên quan đến HĐBH được hoàn tất.
Một số quy định điều chỉnh hoạt động nghiệp vụ MGBH bao gồm: (i) trong
quan hệ kinh doanh với khách hàng, MGBH phải hành xử chuyên nghiệp, đầy
trách nhiệm và năng lực chuyên môn phù hợp; (ii) MGBH phải tư vấn, giới
thiệu SPBH một cách rõ ràng, chính xác và không gây sai lệch; (iii) MGBH phải
đảm bảo khách hàng được cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ để có thể có đầy
đủ thông tin ra quyết định chính xác về lựa chọn SPBH; (iv) MGBH phải phát
hiện, loại bỏ mâu thuẫn lợi ích trước khi tư vấn, giới thiệu, chào bán SPBH...
(f) Quy định có liên quan khác
Quy định về quản trị doanh nghiệp
Quy định pháp lý liên quan đến nội dung quản trị doanh nghiệp cơ bản
được quy định trong các văn bản pháp lý nền hoặc luật kinh tế liên quan khác
như Luật doanh nghiệp, luật chứng khoán...Tuy nhiên, với tính chất nhảy cảm
của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, liên quan đến lợi ích của cộng đồng (khách
hàng bảo hiểm chiếm tỷ trọng lớn trong cộng đồng dân cư, lên đến gần 100% tại
các thị trường phát triển), cơ quan giám sát bảo hiểm có thể đặt ra các yêu cầu
tối thiểu đối với quản trị DNBH và MGBH.
Các yêu cầu về quan trị doanh nghiệp bao gồm: đảm bảo phân công, phân
nhiệm hợp lý, hiệu quả trong HĐQT, Ban điều hành...; đảm bảo tiêu chuẩn phù
hợp cho các vị trí lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp; đảm bảo các quyết định
quan trọng được HĐQT trao đổi thảo luận kỹ; đảm bảo hệ thống kiểm soát nội
14


bộ hoạt động hiệu quả, các quy chế, quy trình trong hoạt động của DNBH có
liên quan đến các MGBH phải đảm bảo quyền lợi của khách hàng, tôn trọng và

bảo đảm thực hiện các cam kết trong HĐBH,...
Quy định chống trục lợi bảo hiểm, chống rửa tiền và tài trợ chính cho hoạt
động khủng bố
Thị trường tài chính là kênh chính cho hoạt động rửa tiền, tài trợ tài chính
cho hoạt động khủng bố, trong đó thị trường bảo hiểm với tư cách là một trong
số các trụ cột chính của thị trường tài chính (bên cạnh ngân hàng và chứng
khoán) cũng là lĩnh vực bị tổn thương trước các hoạt động phi pháp trên.
Trong khi đó, trục lợi bảo hiểm có xu hướng ngày càng nhiều, gây ảnh
hưởng không chỉ đến DNBH mà còn làm tổn hại tới uy tín của ngành bảo hiểm
và quyền lợi của khách hàng chân chính.
Do đó, cơ quan nhà nước cần yêu cầu DNMGBH phải thực hiện đầy đủ các
biện pháp nhằm phát hiện, báo cáo, xử lý và hạn chế hành vi trục lợi bảo hiểm.
Đồng thời MGBH cũng phải thực hiện các biện pháp nhằm chống rửa tiền và tài
trợ tài chính cho hoạt động khủng bố
Quy định về tài chính MGBH
Cơ quan giám sát bảo hiểm hiện nay có thể vẫn đưa ra một số quy định
nhất định đối với tài chính MGBH như yêu cầu về vốn pháp định, quy định về
doanh thu, chi phí...nhằm đảm bảo hoạt động ổn định, lành mạnh của các tổ
chức, cá nhân này.
(2) Hoạt động giám sát
(a) Giám sát từ xa
Cơ quan quản lý quy định về chế độ báo cáo của các DNMGBH trong hoạt
động MGBH. Các nội dung, thông tin cần báo cáo, định kỳ báo cáo thường được
quy định rõ. Chẳng hạn, quy định về báo cáo hoạt động của DNMGBH phải
được lập hàng tháng và báo cáo đệ trình lên Cơ quan giám sát theo định kỳ quý
theo mẫu quy định.
Quy định về chế độ báo cáo là nhằm giúp Cơ quan giám sát triển khai thực
hiện giám sát từ xa hoạt động kinh doanh và sức khỏe tài chính của MGBH,
15



phòng chống các rủi ro đối với thị trường và có các biện pháp, hành động can
thiệp kịp thời, đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, ổn định. Đồng thời, quy
định về chế độ báo cáo còn giúp các DNMGBH tự kiểm soát hoạt động kinh
doanh, quản lý rủi ro.
Ngoài thông tin báo cáo của DNMGBH, cơ quan giám sát có thể thực hiện
giám sát từ xa thông qua các nguồn thông tin phản ánh của cộng đồng, dư luận,
phản ánh của các cơ quan truyền thông, báo chí...
(b) Thanh tra, kiểm tra hoạt động MGBH
Để thực hiện chức năng giám sát của mình (theo luật định), cơ quan giám
sát bảo hiểm phải có quyền kiểm tra sổ sách, chứng từ và các tài liệu có liên
quan của bất kỳ MGBH nào hoạt động trên thị trường. Cơ quan giám sát bảo
hiểm cũng có quyền tiến hành thanh tra, kiểm tra một phần hay toàn bộ hoạt
động kinh doanh của bất kỳ MGBH nào đang hoạt động trên thị trường tại bất
kỳ thời điểm nào được cho là hợp lý.
Bất cứ DNMGBH nào không tuân thủ hay không thực hiện các yêu cầu về
việc cung cấp tài liệu hay không hợp tác với cơ quan giám sát bảo hiểm trong việc
kiểm tra, giám sát sẽ bị coi là vi phạm pháp luật và chịu các mức phạt nhất định
do cơ quan giám sát bảo hiểm qui định, hoặc có thể bị rút giấy phép hoạt động.
Cơ quan giám sát bảo hiểm cũng có quyền cấm bất cứ cá nhân hay tổ chức
nào hoạt động MGBH hay tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động
MGBH nếu cơ quan giám sát bảo hiểm có cơ sở để cho rằng cá nhân hay tổ
chức đó đã vi phạm pháp luật và có thể gây phương hại đến lợi ích công cộng.
1.2. Kinh nghiệm quốc tế về môi giới bảo hiểm
Để thuận lợi cho công tác nghiên cứu, đề tài sẽ tập trung vào kinh nghiệm
quốc tế một số nước ngành bảo hiểm ở giai đoạn đang phát triển có nhiều nét
tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia. Tại mỗi nước,
kinh nghiệm được trình bày theo 2 nhóm vấn đề là tình hình hoạt động MGBH
và kinh nghiệm tổ chức, thực hiện công tác giám sát MGBH.
1.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

1.2.1.1. Về tình hình hoạt động MGBH
16


Ở Trung Quốc, hầu hết các sản phẩm bảo hiểm được phân phối qua các
MGBH cá nhân và các đại lý liên kết (chiếm 88% doanh thu phí bảo hiểm) và
10% là phân phối qua ngân hàng. Trung Quốc có khoảng 1800 công ty đại lý với
thu nhập trung bình là 3 triệu NDT, 170 ngàn đại lý bán thời gian, bao gồm các
nhân viên ngân hàng và có khoảng 2,9 triệu đại lý hoạt động độc quyền (số liệu
năm 2010)[10].
1.2.1.2. Về giám sát MGBH
Loại hình MGBH và nội dung hoạt động: Các loại hình MGBH theo quy
định của Trung Quốc bao gồm hai loại hình MGBH gốc và MGTBH. Về cơ bản,
MGBH có hợp đồng với khách hàng để tư vấn bảo hiểm và đại diện trao đổi,
đàm phán các HĐBH với DNBH.
Các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, tư cách đạo đức: Để được hoạt
động MGBH phải đáp ứng các điều kiện về tài chính (vốn điều lệ, yêu cầu về
BH trách nhiệm nghề nghiệp/ký quỹ...) và yêu cầu về năng lực chuyên môn
(người điều hành và nhân viên hành nghề có chứng chỉ chuyên môn).
Công khai, minh bạch thông tin với khách hàng: Trung Quốc không có quy
định cụ thể về việc yêu cầu MGBH phải công khai danh tính của DNBH mà
MGBH có quan hệ, công khai mức phí, hoa hồng được hưởng, cũng như các yêu
cầu công khai, minh bạch khác nhằm hạn chế mâu thuẫn lợi ích với khách
hàng/khách hàng tiềm năng.
Bảo vệ tiền của khách hàng: CIRC yêu cầu MGBH phải mở tài khoản độc
lập để quản lý tiền của khách hàng; không được phép sử dụng, tự động trích phí
từ tài khoản này. Đồng thời, MGBH phải chuyển tiền phí bảo hiểm cho DNBH
trong thời hạn nhất định theo quy định.
Quy định về hoạt động nghiệp vụ MGBH: Cơ quan giám sát đồng thời
quy định danh mục các hành vi mà MGBH không được làm/bị cấm bao gồm các

hành vi cung cấp thông tin không chính xác, thiếu trung thực, lừa dối hoặc các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Hoạt động giám sát MGBH: Để giám sát hoạt động, CIRC yêu cầu MGBH
cung cấp báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động, tình hình tài chính (bao gồm nội
17


dung liên quan đến hoạt động của tài khoản tiền của khách hàng). Đồng thời,
CIRC có thể trao đổi, phỏng vấn hoặc tổ chức thanh tra, kiểm tra các tổ chức này.
1.2.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ
1.2.2.1. Tình hình hoạt động MGBH
Thị trường bảo hiểm Ấn Độ có đặc thù về sự quốc hữu hóa diễn ra trong
lịch sử (năm 1956 đối với nhân thọ, 1972 đối với phi nhân thọ). Đến 2011, Ấn
Độ có 48 DNBH hoạt động, bao gồm 25 DNBH phi nhân thọ Credit and
Guarantee Corporation, Tập đoàn Bảo hiểm Nông nghiệp - Agriculture
Insurance (bao gồm cả Tập đoàn bảo hiểm bảo lãnh tín dụng xuất khẩu - ECGC
– export Corporation, và 1 công ty tái bảo hiểm) cùng 23 DNBH nhân thọ [14].
Bên cạnh đó, Ấn Độ hiện có tới 322 công ty môi giới bảo hiểm vào thời điểm
30/9/2011 (theo IBID). Trong những năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm thu
xếp qua đại lý ở Ấn Độ chiếm vai trò chủ yếu. Kênh phân phối bảo hiểm qua
ngân hàng cũng có sự tăng trưởng đáng kể (từ 33% doanh thu phí trong năm
2010 lên 38% trong năm 2011).
1.2.2.2. Giám sát hoạt động MGBH
Loại hình MGBH và nội dung hoạt động: Đạo luật Bảo hiểm quy định
MGBH bao gồm các nhà môi giới bảo hiểm, môi giới tái bảo hiểm, các nhà tư
vấn bảo hiểm, các giám định rủi ro và các nhà giám định thiệt hại và cả các nhà
cung cấp dịch vụ quản lý hợp đồng bên thứ ba (TPAs).
Các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, tư cách đạo đức: Pháp luật yêu
cầu môi giới bảo hiểm phải hoàn thành những chứng chỉ chất lượng cơ bản theo
quy định. Đạo luật về IRDA năm 1999 (phần 14) cụ thể hóa các yêu cầu về chất

lượng, các bộ quy chuẩn đạo đức và việc đào tạo thực hành áp dụng cho các môi
giới bảo hiểm bao gồm môi giới bảo hiểm, các nhà giám định rủi ro, giám định
thiệt hại và TPAs. Các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và tư cách đạo đức
của các loại hình môi giới bảo hiểm tại Ấn Độ được quy định tại các Bộ Quy tắc
ứng xử ứng với từng loại hình.

18


Ngoài tiêu chuẩn về chất lượng nguồn nhân lực, đối với môi giới bảo
hiểm là công ty, các quy định cụ thể hóa cả số vốn yêu cầu và các điều kiện cơ
sở hạ tầng tối thiểu.
Ủy ban Môi giới Bảo hiểm Ấn Độ mới đây đã đề xuất một số nội dung
ràng buộc đối với hoạt động của môi giới bảo hiểm [5]:
Hạn chế 01 công ty MGBH thực hiện thu xếp bảo hiểm với 01 DNBH
không quá 25% tổng số hợp đồng bảo hiểm do công ty MGBH này thu xếp. Lý
do đưa ra là để hạn chế mâu thuẫn lợi ích.
Công khai, minh bạch thông tin với khách hàng: Những thông tin cảnh
báo về việc thiếu giám sát của các tổ chức về môi giới bảo hiểm cũng được công
bố và có sẵn trên trang tin điện tử của IRDA. Nội dung của các Bộ quy tắc ứng
xử của các loại hình môi giới bảo hiểm cũng cụ thể hóa các quy định bắt buộc
một môi giới bảo hiểm việc cung cấp thông tin cho các khách hàng. Khi một nhà
môi giới bảo hiểm thuộc cùng một tập đoàn với DNBH thì bắt buộc phải công
khai điều này với khách hàng.
Cũng nhằm mục tiêu tuyên truyền phổ biến kiến thức về bảo hiểm, góp
phần nâng cao năng lực tự bảo vệ của người tiêu dùng trên thị trường bảo hiểm,
Ấn Độ rất quan tâm tới việc phát triển cơ sở hạ tầng bảo vệ khách hàng. IRDA
đã thiết lập một cơ quan riêng rẽ thực hiện các hoạt động giáo dục người tiêu
dùng bao gồm các chiến dịch in ấn phẩm, xây dựng các chương trình phát thanh,
truyền hình và tổ chức các hội thảo.

Bảo vệ tiền của khách hàng: Đạo luật 23 quy định về môi giới bảo hiểm
của IRDA yêu cầu phí bảo hiểm thu của khách hàng được thu bởi công ty môi
giới được cấp phép cần được giữ riêng trong tài khoản ngân hàng hoặc với sự
giám sát phê duyệt của một định chế quản lý quy định. Nhà môi giới chỉ được
phép nhận chi phí, phí dịch vụ và hoa hồng kiếm được cùng lãi tiền gửi nhận
được từ các quỹ này. Nhà môi giới bảo hiểm trực tiếp không được phép nhận
phí bảo hiểm trong tài khoản của họ. Vì vậy, tại nhà môi giới sẽ không có tài
khoản quỹ cho chủ hợp đồng. Các nhà môi giới tái bảo hiểm lại có thể thu và
chuyển phí bảo hiểm.
19


Khoản 24 của quy định về môi giới yêu cầu nhà môi giới bảo hiểm có
mức bảo hiểm trách nhiệm bồi thường nghiệp vụ ít nhất bằng 3 lần thu nhập phí
dịch vụ hàng năm hoặc một con số tuyệt đối phụ thuộc vào bản chất hoạt động
của nhà môi giới. Cụ thể hơn, mức trách nhiệm tối thiểu cho 01 yêu cầu bồi
thường trong thời hạn bảo hiểm 12 tháng đối với Môi giới bảo hiểm gốc là Ba
lần doanh thu từ MGBH hàng năm; đối với môi giới TBH: Ba lần doanh thu từ
MGTBH hàng năm; đối với Môi giới hỗn hợp: Ba lần doanh thu từ MGBH hỗn
hợp hàng năm. Với cả 3 loại trên, mức được miền trừ khi đạt tối đa 5% của vốn
điều lệ.
Quy định về hoạt động nghiệp vụ MGBH: Pháp luật bảo hiểm quy định cụ
thể những nội dung mà các môi giới bảo hiểm phải thực hiện. Đồng thời, cơ
quan giám sát bảo hiểm cũng đưa ra các quy định về các hành vi mà MGBH
không được làm/bị cấm bao gồm các hành vi cung cấp thông tin không chính
xác, thiếu trung thực, lừa dối hoặc các hành vi cạnh tranh không lành mạnh với
các chế tài xử phạt tương ứng.
Hoạt động giám sát MGBH: Môi giới bảo hiểm ngày càng phát triển và
trở nên bộ phận quan trọng tại Ấn Độ nên có chế độ báo cáo định kỳ sát sao bao
gồm báo cáo định kỳ hàng năm và 6 tháng, trong đó chỉ rõ số phí thu được, số

hoa hồng nhận được và số tiền đã chuyển cho DNBH, số tiền giữ của chủ hợp
đồng bảo hiểm cần được cung cấp và tập trung hơn vào các thông tin rủi ro.
1.2.3. Kinh nghiệm Malaysia
1.2.3.1. Về hoạt động MGBH
Thị trường bảo hiểm phát triển ở mức cao, cung cấp nhiều sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ, phi nhân thọ và “takaful” (là dạng thức sản phẩm bảo hiểm hồi
giáo). Theo thông tin của Hiệp hội bảo hiểm Malaysia (LIAM), ngành công
nghiệp bảo hiểm tăng trưởng từ 7%-10% qua các năm. Các sản phẩm bảo hiểm
liên kết đầu tư có mức tăng trưởng doanh thu phí khoảng 8,9%/năm trong năm
2012. Lĩnh vực bảo hiểm ở Malaysia chiếm 6% tổng tài sản của khu vực tài
chính, tương đương với 15% GDP. Cụ thể, tỷ lệ đóng góp vào GDP của ngành

20


×