Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá sự cố môi trường trong sử dụng khí hóa lỏng (LPG) ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.2 MB, 160 trang )

Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh
giá sự cố môi trường trong sử dụng khí
hóa lỏng (LPG) ở Việt Nam
Biên tập bởi:
TS. Lý Ngọc Minh


Nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh
giá sự cố môi trường trong sử dụng khí
hóa lỏng (LPG) ở Việt Nam
Biên tập bởi:
TS. Lý Ngọc Minh
Các tác giả:
TS. Lý Ngọc Minh

Phiên bản trực tuyến:
/>

MỤC LỤC
1. Mở đầu
2. Tổng Quan
2.1. Sự cố môi trường
2.2. Đánh giá sự cố môi trường
2.3. Tổng quan, tình hình chế biến và sử dụng khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG)
2.4. Các phương pháp đánh giá và Các vấn đề nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Cơ sở lý thuyết
5. Kết quả và Thảo luận
5.1. Xây dựng kịch bản sự cố trong sử dung LPG ở Việt Nam
5.2. Xây dựng cơ sở khoa học đánh giá sự cố nổ thiết bị LPG
5.3. Đề xuất quy trình đánh giá sự cố nổ thiết bị chứa LPG


5.4. Đánh giá sự cố nổ bồn chứa 20 tấn LPG năm 2007 tại Hà Nội
5.5. Đánh giá thực trạng và nguyên nhân gây sự cố trong sử dụng LPG ở Việt Nam
5.6. Xây dựng cơ sở quản trị rủi ro kỹ thuật trong sử dụng LPG
6. Kết luận và kiến nghị
7. Tổng hợp công trình nghiên cứu khoa học
8. Tài liệu tham khảo
Tham gia đóng góp

1/158


Mở đầu
TÍNH CẤN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Việt Nam, với một tiềm năng dầu khí dồi dào, đang phát triển mạnh mẽ công nghiệp
khai thác, chế biến nguồn tài nguyên quý giá này thành các sản phẩm có giá trị, trong
đó có khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG), góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Từ nguồn LPG trong nước do các NM chế biến khí Dinh Cố, NM lọc dầu Dung Quất
chế biến và cung cấp, các cơ sở sử dụng LPG trong sản xuất và đời sống ngày càng phát
triển. LPG là loại nhiên liệu sạch và cao cấp được sử dụng trong sản xuất đã làm thay
đổi hình ảnh khói đen luôn gắn liền với các xí nghiệp công nghiệp; sử dụng trong các
khu đô thị, khu dân cư, các nhà hàng, khách sạn, bếp ăn tập thể, hộ gia đình…đã làm
thay đổi thói quen tiêu thụ nhiên liệu truyền thống là củi, than ... góp phần đáng kể vào
công tác BVMT và sức khỏe nguời dân. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò đóng góp những
giá trị KT-XH vô cùng to lớn, quá trình chế biến và sử dụng LPG luôn tiềm ẩn nguy
cơ gây SCMT và thực tế trên thế giới đã xảy ra các sự cố rò rỉ, cháy, nổ LPG gây hậu
quả nghiêm trọng, làm chết và bị thương nhiều người, phá hủy tài sản và gây ô nhiễm
môi trường như sự cố nổ TB chứa propane trên đường vận chuyển tại Tây Ban Nha
năm 1978 làm chết 200 người và bị thương 120 người [14]; sự cố trật bánh tàu hỏa chở
propane (và clorine) gần Toroto, Canada tháng 11/1979 làm 250.000 người phải sơ tán
và nhiều người bị ngộ độc phải nhập viện [14]; sự cố nổ TB chứa LPG ở khu dân cư của

thành phố Mexico ngày 19/11/1984 làm chết 450 người, trên 30.000 người mất nhà cửa
phải sơ tán [125]; sự cố cháy tàu hoả ngày 20/02/2002 tại Ai Cập làm gần 400 người
bị chết, hàng trăm người bị thương do nổ bình LPG để nấu ăn trong toa căng tin [125];
sự cố nổ bình chứa LPG làm sập nhà tại thành phố St. Peterburg – Nga vào ngày 03/06/
2003 làm sập toà nhà 9 tầng, gây chết và bị thương nhiều người [125]. Ở Việt Nam, mặc
dù các sự cố đã xảy ra trong chế biến và sử dụng LPG chưa mang tính thảm họa nhưng
cũng là những dấu hiệu cảnh báo sẽ xảy ra những SCMT nghiêm trọng trong tương lai
nếu chúng ta không có biện pháp phòng ngừa. Trong thời gian tới, khi các cơ sở lọc hóa
dầu trọng điểm của đất nước dần đi vào hoạt động ổn định làm cho lượng LPG được
chế biến trong nước ngày càng tăng lên thì số cơ sở sử dụng LPG trong sản xuất và đời
sống ngày càng nhiều; trạm cung cấp LPG trung tâm trong khu chung cư cao tầng ngày
càng tăng và nhất là khi chủ trương chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu truyền thống
(xăng, dầu … ) sang sử dụng LPG cho các phương tiện giao thông vận tải (GTVT) được
thực hiện rộng rãi nhằm cải thiện chất lượng môi trường không khí tại các thành phố lớn
của nước ta, các thiết bị chứa LPG được lắp đặt trong các đô thị, khu dân cư ngày càng
nhiều thì nguy cơ xảy ra SCMT trong sử dụng LPG sẽ ngày càng tăng, thiệt hại sẽ ngày
càng lớn.
Để quản trị rủi ro (QTRR) trong chế biến và sử dụng hiệu quả, một trong những công
việc quan trọng là phải xây dựng được phương pháp đánh giá SCMT một cách định
2/158


lượng trên cơ sở khoa học, thiết lập quy trình đánh giá sự cố, nêu và phân tích các nguy
cơ gây SCMT trong sử dụng LPG, dự báo khả năng xảy ra và mức độ thiệt hại khi sự
cố xảy ra, trong đó một chỉ tiêu rất quan trọng là dự báo phạm vi ảnh hưởng thông qua
việc xác định khả năng phát tán chất ô nhiễm môi trường sau sự cố. Nhưng xác định khả
năng phát tán chất nguy hại bằng cách đo đạc trong thực tế khi một sự cố xảy ra là điều
mà chúng ta không mong đợi. Bởi lẽ, SCMT trong sử dụng LPG nếu xảy ra thì thiệt hại
mà nó gây ra đối với con người, môi trường sẽ rất lớn; thậm chí còn rất nghiêm trọng
như các sự cố đã xảy ra trên thế giới và thiệt hại có thể còn lớn hơn mà chúng ta chưa

lường hết. Cùng với việc xác định nguy cơ, mức độ ảnh hưởng, xác suất xảy ra sự cố
cần đề ra những giải pháp phòng ngừa sự cố trong chế biến và sử dụng LPG một cách
hữu hiệu.
Trên thế giới, các nước có nền công nghiệp dầu khí phát triển đã có nhiều nghiên cứu
về đánh giá SCMT trong chế biến và sử dụng LPG nhưng các nghiên cứu này chưa đề
cập hoặc đề cập chưa đầy đủ, định lượng tới các tác động mà SCMT, đặc biệt là sự cố
nổ vật lý trong chế biến và sử dụng LPG gây ra. Còn ở Việt Nam, vấn đề này hầu như
chỉ được đề cập một cách định tính hoặc chưa đầy đủ về mặt định lượng như đã thể hiện
trong các tiêu chuẩn, quy định, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, các báo cáo
tác động môi trường của các dự án quan trọng trong tồn trữ, phân phối LPG, các cơ sở
sử dụng LPG trong sản xuất và đời sống.
Do vậy, việc nghiên cứu xây dựng phương pháp đánh giá SCMT trong sử dụng LPG,
đề ra các giải pháp phòng ngừa SCMT trong sử dụng LPG một cách đồng bộ, hệ thống,
bằng nhiều công cụ đa dạng, thích hợp với sự tham gia của các đối tượng liên quan, có
khả năng áp dụng trong điều kiện Việt Nam là cần thiết, bởi lẽ, nếu để SCMT xảy ra thì
hoặc là không khắc phục được hoặc nếu khắc phục được cũng hết sức tốn kém và khi đó
đã tổn thất về nguời, thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng tới môi trường. Luận án được thực
hiện nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết trên.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề xuất phương pháp đánh giá SCMT và giải pháp bảo đảm an toàn, phòng
ngừa SCMT trong sử dụng LPG nhằm hạn chế xảy ra SCMT và giảm thiểu tác động đến
con người, thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến môi trường phù hợp với điều kiện Việt
Nam cũng như các nước có điều kiện tương tự.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan về LPG, tình hình chế biến và sử dụng LPG ở Việt Nam; phân tích
nguy cơ gây sự cố và hồi cứu một số sự cố đã xảy ra trong chế biến và sử dụng
LPG trên thế giới và ở Việt Nam;


3/158


2. Đề xuất tiêu chí xây dựng kịch bản sự cố và lựa chọn kịch bản sự cố nổ hoàn
toàn thiết bị chứa LPG là sự cố có nguy cơ xảy ra rất cao trong sử dụng LPG ở
Việt Nam và gây thiệt hại nghiêm trọng về con người, tài sản và môi trường;
3. Xây dựng cơ sở khoa học đánh giá tác động tới con người và môi trường khi nổ
thiết bị chứa LPG; nghiên cứu trường hợp điển hình: đánh giá sự cố nổ bồn
chứa 20 tấn LPG năm 2007 tại Hà Nội.
4. Xây dựng quy trình đánh giá SCMT trong sử dụng LPG dựa trên các cơ sở
khoa học và phù hợp với điều kiện Việt Nam.
5. Nghiên cứu đề xuất khái niệm, quan điểm và xây dựng cơ sở khoa học quản trị
rủi ro kỹ thuật trong sử dụng LPG ở Việt Nam.
6. Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân gây sự cố và đề xuất giải pháp
phòng ngừa SCMT trong sử dụng LPG phù hợp với thực tế Việt Nam và những
nước có điều kiện tương tự.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là phương pháp đánh giá SCMT trong sử dụng LPG. Khi thực
hiện nghiên cứu này, cần thực hiện trên các đối tượng được khảo sát là LPG và thiết bị
chứa LPG:
• LPG thương mại trong sản xuất và đời sống (gồm thành phần chính là propane
hoặc butane hoặc hỗn hợp propane và butane với tỷ lệ propane: butane là 50%:
50% theo thể tích và một lượng nhỏ các khí, tạp chất khác [89]. Trong tính
toán, luận án lấy LPG công nghiệp với thành phần chính là propane 100% hoặc
LPG có tỷ lệ propane: butane là 50%: 50% theo thể tích) được chứa trong thiết
bị ở trạng thái bão hòa, gồm hỗn hợp lỏng và hơi, trong điều kiện có áp suất và
nhiệt độ trên nhiệt độ sôi bình thường của nó.
• Thiết bị chứa LPG bao gồm các bồn chứa LPG trong các hệ thống cấp khí đốt
trung tâm trong nhà ở có dung tích chứa nước từ 0,45 m3 trở lên [11], bồn chứa

LPG trên các xe bồn chuyên dụng [72] và bồn chứa LPG lắp đặt cố định tại các
cơ sở công nghiệp và thương mại có dung tích chứa nước từ 150 lít trở lên [73].

PHẠM VI NGHIÊN CỨU
SCMT trong sử dụng LPG là một lĩnh vực khá rộng và phức tạp, do vậy, luận án thực
hiện trong phạm vi nghiên cứu sau:
• LPG được đề cập trong luận án là LPG thương phẩm, sử dụng trong sản xuất và
đời sống [89]; thiết bị chứa LPG đặt trong môi trường không khí, áp suất khí
quyển lấy ở điều kiện tiêu chuẩn 760 mmHg;
• Điều kiện khí tượng lấy khu vực điển hình có nguy cơ cao xảy ra sự cố trong sử
dụng LPG là khu vực Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh.

4/158


• Sự cố xảy ra là sự cố nổ vật lý do tác động cơ học từ bên ngoài hoặc do bản thể
thiết bị không bảo đảm an toàn làm vỡ bồn chứa LPG [49]. Đây là sự cố có
nguy cơ xảy ra rất cao trong sử dụng LPG ở nước ta và những nước có điều
kiện KT-XH tương tự;
• Do số liệu thống kê về các sự cố đã xảy ra trong sử dụng LPG ở Việt Nam chưa
bảo đảm độ tin cậy để đánh giá xác suất nên luận án tập trung xây dựng phương
pháp đánh giá thiệt hại khi nổ thiết bị chứa LPG;
• Quá trình nổ thiết bị chứa LPG giảm áp suất từ áp suất làm việc của LPG trong
thiết bị tới áp suất khí quyển diễn ra nhanh chóng, sự trao đổi nhiệt giữa môi
chất với môi trường bên ngòai coi như không đáng kể nên quá trình nổ thiết bị
được coi là quá trình dãn nở đọan nhiệt;
• Thông số làm việc của LPG:
• Trước khi xảy ra sự cố, LPG chứa trong thiết bị ở trạng thái lỏng bão hoà, có
các thông số kỹ thuật sau: khối lượng mLPG (kg), nhiệt độ bão hòa To của LPG
(phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường bên ngoài và thành phần của LPG). Luận

án lấy giá trị nhiệt độ bão hòa của LPG khoảng 303K và áp suất p1 (bar) làm
việc của LPG trong thiết bị là áp suất bão hòa tương ứng của LPG khoảng 6 bar
[89]. Trong thực tế, áp suất này có thể thay đổi tùy thuộc thành phần và nhiệt
độ bên ngoài;
• Sau khi nổ, LPG giảm áp suất tới áp suất khí quyển ở nhiệt độ sôi Tb; lượng
LPG lỏng hóa hơi sau khi thoát ra khỏi bình chứa là (kg). Phần LPG lỏng cuốn
theo đám mây hơi coi như không đáng kể.
• Trong phạm vi sai số cho phép và để thuận tiện trong tính toán, hơi LPG được
coi là khí lý tưởng [135], do vậy một số thông số nhiệt động của LPG như nhiệt
dung riêng … được coi là hằng số; lượng không khí đủ để coi chế độ cháy là
hoàn toàn ở điều kiện đẳng áp.

Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
Khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG), bên cạnh ưu điểm là nhiên liệu sạch và tiện dụng, cũng
tiềm ẩn những rủi ro gây ra SCMT trong chế biến và sử dụng, làm thiệt hại về nguời, tài
sản và tác động xấu tới môi trường nếu không nhận thức được khả năng xảy ra sự cố và
mức độ nguy hiểm của nó để có những biện pháp QTRR, phòng ngừa sự cố. Một trong
những biện pháp đó là phải có được phương pháp đánh giá SCMT định lượng, khả thi,
phù hợp với đặc điểm trong sử dụng LPG ở Việt Nam.
Đánh giá SCMT là quá trình mang tính hệ thống, cung cấp thông tin tổng hợp, lôgic cho
các nhà QLMT, những người ra quyết định trong việc xác định những phương án quản
lý phù hợp. Ngoài ra, đánh giá SCMT còn hạn chế lãng phí đối với những nguồn lực
phải bỏ ra để giải quyết vấn đề ATMT đối với những rủi ro chấp nhận được.

5/158


Ý nghĩa khoa học
• Góp phần xây dựng cơ sở khoa học để đánh giá SCMT một cách định lượng
trong chế biến và sử dụng LPG và các môi chất tương tự.

• Góp phần bổ sung cơ sở khoa học về quản trị rủi ro kỹ thuật để bảo đảm an
toàn, phòng ngừa SCMT do thiết bị chứa LPG nói riêng và TBAL nói chung.
• Là cơ sở để xây dựng phần mềm tính sức bền thiết bị chứa LPG nói riêng và
chứa môi chất có đặc tính tương tự nói chung; phần mềm tính phát tán LPG do
sự cố sự cố nổ thiết bị chứa LPG với đặc điểm là năng lượng cao, phát tán
nhanh, gián đoạn … Ứng dụng để tính toán đối với các môi chất được chế biến
và sử dụng ở nhiệt độ trên nhiệt độ sôi bình thường của môi chất.
• Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện tài liệu trong
giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực
an toàn, đánh giá rủi ro, đánh giá tác động môi trường.
Ý nghĩa thực tiễn
• Nêu và phân tích nguyên nhân một số bất cập, đề ra giải pháp đồng bộ, mang
tính hệ thống, góp phần đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn, phòng ngừa sự cố
trong sử dụng LPG ở Việt Nam và những nước có điều kiện KT-XH tương tự.
• Xác định tiêu chí xây dựng kịch bản sự cố trong sử dụng LPG ở Việt Nam và
lựa chọn kịch bản sự cố nổ thiết bị chứa LPG là sự cố có nguy cơ xảy ra cao và
gây thiệt hại nghiêm trọng về con người, tài sản và môi trường.
• Góp phần bổ sung, hoàn thiện cơ sở xây dựng tiêu chuẩn ATMT trong sử dụng
LPG và môi chất có đặc tính, điều kiện chế biến, sử dụng tương tự.
• Xây dựng phương pháp đánh giá SCMT trong sử dụng LPG. Kết quả nghiên
cứu của luận án (công thức tính lượng hơi tạo thành, công sinh ra khi nổ thiết bị
chứa LPG, hệ số tiêu thụ oxy, hệ số tiêu thụ không khí lý thuyết, hệ số phát thải
CO2, hệ số phát thải khói khi cháy 1 m3 LPG ở trạng thái hơi …) góp phần bổ
sung cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi trường khi triển khai các dự án
có liên quan tới LPG; dự báo khả năng ảnh hưởng của các sự cố có thể xảy ra
khi xây dựng các cơ sở sử dụng LPG cũng như sử dụng hóa chất nguy hại khác
có đặc tính tương tự như LPG.
Đáp ứng yêu cầu đánh giá rủi ro kỹ thuật cho các dự án có sử dụng LPG đang ngày càng
phát triển ở nước ta, đề ra các giải pháp phòng ngừa sự cố trong sử dụng LPG ở Việt
Nam.

Có thể vận dụng phương pháp đánh giá cho công nghiệp hóa chất, kỹ thuật lạnh và điều
hoà không khí.

6/158


• Bổ sung cơ sở khoa học và thực tiễn để góp phần quy hoạch công nghiệp, quy
họach môi trường, quy họach đô thị, khu dân cư, dự báo sự cố, quản lý môi
trường … khi triển khai các dự án có sử dụng LPG.
• Phương pháp đánh giá SCMT được đề xuất giúp các nhà quản lý nhìn nhận
toàn diện hơn về công tác ATMT, góp phần ra quyết định đúng để quản lý
ATMT trong sử dụng LPG nói riêng và TBAL nói chung. Từ đó, có chiến lược
ngăn ngừa và ứng cứu sự cố nhằm giảm thiểu thiệt hại, đảm bảo an toàn,
BVMT.
Ý NGHĨA KINH TẾ-XÃ HỘI
Chế biến và sử dụng LPG đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Tuy
nhiên, chế biến và sử dụng LPG cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây SCMT nghiêm trọng.
Sự cố nổ thiết bị chứa LPG là một trong những sự cố đó. Trong thực tế đã xảy ra nhiều
sự cố nổ thiết bị chứa LPG trên thế giới, gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản và
môi trường do không lường hết mức độ nguy hại của các rủi ro tiềm ẩn trong chế biến
và sử dụng LPG. Do vậy, cần có những nghiên cứu dự báo định lượng đầy đủ hơn về
các tác động tiêu cực khi đánh giá rủi ro, đánh giá tác động môi trường trong quy họach,
xây dựng cơ sở sử dụng LPG; đề ra giải pháp QTRR, phòng ngừa SCMT trong sử dụng
LPG ở Việt Nam, góp phần ổn định trật tự xã hội, phát triển đất nước bền vững.
TÍNH MỚI CỦA LUẬN ÁN
1. Đóng góp khoa học quan trọng và đầu tiên của luận án về lý thuyết là đã xây
dựng được cơ sở khoa học để đánh giá SCMT khi nổ thiết bị chứa LPG, gồm
các vấn đề: xây dựng công thức tính lượng hơi LPG tạo thành, công dãn nở khi
nổ thiết bị chứa LPG được tồn trữ ở trạng thái bão hòa, tồn tại cả hai pha trong
thiết bị; xây dựng hệ số tiêu thụ oxy, hệ số tiêu thụ không khí lý thuyết, hệ số

phát thải CO2, hệ số phát thải khói khi cháy 1 m3 LPG ở trạng thái hơi …;
nghiên cứu ứng dụng mô hình nguồn phát thải gián đoạn, phát tán dạng đám
mây hơi vào trường hợp LPG.
2. Một trong những đóng góp nữa về lý thuyết của luận án là đã xây dựng cơ sở
khoa học quản trị rủi ro kỹ thuật (TERM) trong sử dụng LPG, góp phần bổ
sung cơ sở lý luận quản trị rủi ro công nghiệp.
3. Cùng với những đóng góp quan trọng trên đây, luận án đã đề xuất khái niệm
“an toàn môi trường thiết bị” là khái niệm mới trên cơ sở tích hợp các vấn đề
về an toàn thiết bị, an toàn con người, an toàn môi trường. Từ đó, đề xuất quan
điểm về ATMT là lấy an tòan thiết bị làm trung tâm để phòng ngừa SCMT.
Luận án cũng đã đề xuất tiêu chí phân loại và thực hiện phân loại thiết bị chứa
LPG theo mức độ an toàn; từ đó đề xuất phương pháp dự báo sự thay đổi về
chất và lượng của thiết bị chứa LPG theo thời gian để dự báo khả năng xảy ra
SCMT một cách định lượng.

7/158


4. Bên cạnh những đóng góp về lý thuyết, luận án có những đóng góp mang tính
thực tiễn như: xác định tiêu chí xây dựng kịch bản sự cố, tổng hợp các kịch bản
sự cố có thể xảy ra và lựa chọn kịch bản sự cố nổ hoàn toàn thiết bị chứa LPG
là sự cố có nguy cơ xảy ra rất cao và có thể gây thiệt hại nghiêm trọng về
người, tài sản và môi trường trong điều kiện sử dụng LPG ở Việt Nam; xây
dựng hoàn thiện quy trình đánh giá SCMT trong sử dụng LPG ở Việt Nam
mang tính khả thi; xây dựng quy trình tính toán sức bền thiết bị chứa LPG,
thuận tiện trong sử dụng để tính toán thiết kế, kiểm tra thiết bị chứa LPG, tạo
cơ sở để xây dựng phần mềm tính sức bền thiết bị chứa LPG và phần mềm tính
phát tán quả cầu lửa phù hợp với đặc điểm trong sử dụng LPG ở Việt Nam.

8/158



Tổng Quan
Sự cố môi trường
Khái niệm
Sự cố môi trường (SCMT) là những hiện tượng đột biến của thiên nhiên, của quá trình
hoạt động của con người, gây tác động tới con người và môi trường, diễn ra dưới tác
động của yếu tố tự nhiên hoặc sự tác động của con người hay là sự kết hợp cả hai yếu
tố đó. Pháp luật nhiều nước định nghĩa SCMT như là một rủi ro môi trường (RRMT) và
quy định những biện pháp, những nguyên tắc để ngăn chặn và khắc phục những rủi ro
[98].
Luật bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2005 của Việt Nam [41] đưa ra khái niệm SCMT
như sau: “SCMT là những tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con
người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi
trường nghiêm trọng ”.
Ở Việt Nam hiện nay vẫn sử dụng đồng thời hai khái niệm “sự cố môi trường” và “rủi
ro môi trường” theo nghĩa tương tự. Trong một số trường hợp, khái niệm “sự cố” được
sử dụng thay thế cho khái niệm “sự cố môi trường” [41]. Một số tác giả còn sử dụng
thuật ngữ “tai biến môi trường” [35] hoặc “sự cố rủi ro môi trường” [29] để chỉ nghĩa
như nghĩa của hai khái niệm “sự cố môi trường” và “rủi ro môi trường”. Tuy nhiên,
trong luận án, khái niệm “sự cố môi trường” được sử dụng để phù hợp với thuật ngữ
như đã ghi trong luật bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành
[41], nhưng khi trích dẫn tài liệu tham khảo, luận án vẫn sử dụng khái niệm “rủi ro môi
trường” như nguyên văn.
RRMT là khả năng mà điều kiện môi trường bị thay đổi bởi hoạt động của con người,
có thể gây ra các tác động có hại cho một đối tượng nào đó. Các đối tượng bao gồm sức
khỏe và tính mạng con người, hệ sinh thái và xã hội. Tác nhân gây rủi ro có thể là tác
nhân hóa học, sinh học, vật lý hay kết hợp các tác nhân này. Các đối tượng bị rủi ro và
tác nhân gây rủi ro nằm trong mối quan hệ phức tạp và được thể hiện bằng một sơ đồ
gọi là chuỗi đường truyền rủi ro. Chuỗi này liên hệ tất cả các hoạt động liên quan của

con người với các loại tác nhân gây rủi ro và các đối tượng bị rủi ro. Nhiều tác nhân có
thể gây rủi ro cho một đối tượng, đồng thời nhiều đối tượng có thể bị tác động bởi một
tác nhân gây rủi ro. Rủi ro thường phụ thuộc vào mức độ tiếp xúc hay phơi nhiễm của
đối tượng đối với tác nhân gây rủi ro và mức độ gây hại tiềm tàng của các tác nhân lên
đối tượng.

9/158


Như vậy, rủi ro môi trường là xác suất các thiệt hại sẽ xảy ra do sự phơi nhiễm với các
nguy hại môi trường hay xác suất của một tác động bất lợi lên con người hay môi trường
do phơi nhiễm với một chất. Nó thường biểu diễn xác suất xảy ra tác động có hại, tức là
tỷ số giữa số lượng cá thể bị ảnh hưởng và tổng số cá thể phơi nhiễm với tác nhân gây
rủi ro. Về mặt toán học, sự cố R được xem là tích của xác suất xảy ra sự cố P và hậu quả
do sự cố gây ra D [35]:
R(x) = P(x).D(x) (1.1)
Đối với một nhóm sự cố:
R(x) = ?P(x).D(x) (1.2)
Rủi ro tập hợp các hiện tượng có quan hệ với nhau và bằng xác suất xảy ra nhân với
mức độ hậu quả. Vì vậy cần kết hợp chặt chẽ việc đánh giá rủi ro với quản lý môi trường
[95].

Phân loại
Tùy thuộc tiêu chí phân loại sẽ có các cách phân loại SCMT khác nhau.
• Phân loại theo lĩnh vực xảy ra sự cố [47]: rủi ro sinh thái, rủi ro sức khỏe, rủi ro
công nghiệp.
• Phân loại theo tiến trình xảy ra sự cố [35]:
• Loại cấp diễn: xảy ra nhanh, mạnh và đột ngột. Ví dụ: động đất, cháy nổ …
• Loại trường diễn: xảy ra chậm, trường kỳ. Ví dụ: nhiễm mặn, sa mạc hoá …


10/158


Đánh giá sự cố môi trường
Khái niệm
Đánh giá sự cố môi trường (ĐSM) là kỹ thuật đánh giá một hệ thống có tác động có hại
thực tế hay tiềm tàng của các chất ô nhiễm lên sức khỏe của thực vật, động vật hay hệ
sinh thái. Các kỹ thuật đánh giá rủi ro dựa trên mô hình nhân quả, áp lực – đáp ứng, trong
đó chất ô nhiễm được vận chuyển từ nguồn theo một đường đi đến nơi nhận: Nguồn →
Đường đi → Nơi nhận như giới thiệu trong sơ đồ hình 1 [47].

Trình tự đánh giá rủi ro môi trường [47]

Phân loại
• Phân loại theo giai đoạn: ĐRM được tiến hành theo 2 giai đoạn:
• Đánh giá rủi ro sơ bộ: được thực hiện trên cơ sở điều kiện số liệu, thông tin
hiện có chưa đầy đủ và độ tin cậy thấp với mục tiêu là xác định được các rủi ro
chính.
• Đánh giá rủi ro chi tiết: được tiến hành trên cơ sở kết quả của ĐGRRSB và các
số liệu được bổ sung, củng cố từ các đo đạc, quan trắc, nghiên cứu, thực hiện
theo đề xuất của ĐGRRSB.
• Phân loại theo lĩnh vực xảy ra sự cố: Tương ứng với cách phân loại rủi ro theo
lĩnh vực, đánh giá rủi ro môi trường cũng được chia thành 3 loại: đánh giá rủi
ro sức khỏe, đánh giá rủi ro sinh thái và đánh giá rủi ro công nghiệp [47]
• Đánh giá rủi ro sức khỏe (HRA): HRA quan tâm đến những cá nhân, tình trạng
bệnh tật và số người tử vong. HRA là tiến trình sử dụng các thông tin thực tế để
xác định sự phơi nhiễm của cá thể hay quần thể đối với vật liệu nguy hại hay
hoàn cảnh nguy hại. Đánh giá rủi ro sức khỏe có ba nhóm chính: rủi ro vật lý;
rủi ro hóa chất; rủi ro sinh học.
• Đánh giá rủi ro sinh thái (EcoRA): được phát triển từ HRA, EcoRA đánh giá

trên diện rộng, chú trọng đến quần thể, quần xã và những ảnh hưởng của các
chất lên tỉ lệ tử vong và khả năng sinh sản. EcoRA có ba nhóm: đánh giá rủi ro
sinh thái do hóa chất; đánh giá rủi ro sinh thái đối với hóa chất bảo vệ thực vật;
đánh giá rủi ro sinh thái đối với sinh vật biến đổi gen.

11/158


• Đánh giá rủi ro công nghiệp (IRA): Bao gồm đánh giá rủi ro đối với các hoạt
động công nghiệp như: khu vực có sự phát thải; đánh giá rủi ro trong việc lập
kế hoạch sản xuất-kinh doanh; đánh giá rủi ro sản phẩm và vòng đời sản phẩm

Luật BVMT [41] và các luật liên quan tới SCMT như luật hóa chất [42], luật phòng cháy
và chữa cháy [44] giới thiệu một số SCMT công nghiệp phổ biến và nguy hại, trong đó
có sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, vận chuyển và sử dụng dầu, khí.
Như vậy, sự cố trong sử dụng LPG là SCMT thuộc nhóm rủi ro công nghiệp.
Phân loại theo cấp độ đánh giá rủi ro: ĐRM có thể thực hiện ở 3 cấp độ [47]:
• cấp 1-mô tả định tính;
• cấp 2-đánh giá bán định lượng;
• cấp 3-đánh giá định lượng.
Ở mỗi cấp độ, các nhiệm vụ được thực hiện để cung cấp thông tin gồm: xác định mối
nguy hại, đánh giá phơi nhiễm, đánh giá liều–phản ứng, mô tả đặc tính rủi ro. Các thông
tin này được sử dụng để ra quyết định có cần phải tiếp tục thực hiện đánh giá cấp độ cao
hơn hay không?

Nguyên nhân gây sự cố môi trường
Có 3 nguyên nhân gây SCMT: SCMT do thiên nhiên gây ra, SCMT do con người gây
ra, SCMT do cả thiên nhiên và con người kết hợp gây ra [98].
Sự cố môi trường do thiên nhiên gây ra
Là các tai biến tự nhiên như: động đất, bão, sóng thần, cháy rừng...Thiên tai là SCMT

gây ra bởi quá trình tự nhiên, thường được coi là bất khả kháng, con người cần sống hoà
hợp với chúng. Việc lựa chọn phương án phòng chống thiên tai tập trung vào lựa chọn
cách sống và né tránh những ảnh hưởng không mong đợi.
Sự cố môi trường do con người gây ra
Là những hoạt động của con người như xả thải chất ô nhiễm hoặc sự cố kỹ thuật như
cháy, nổ nhà máy lọc dầu, vỡ ống dẫn khí, rò rỉ hoá chất nguy hại …
Sự cố môi trường do cả con người và thiên nhiên gây ra
Là hậu quả do các hoạt động của con người và quá trình tự nhiên như hiện tượng mưa
acid. Hiện tượng này có nguyên nhân là do con người đã thải ra các khí Cl2, SO2 …
phát tán lên bầu khí quyển và tạo ra mưa a xít HCl hay H2SO4 …

12/158


Phân biệt nguyên nhân gây ra SCMT có ý nghĩa quan trọng để xác định trách nhiệm
pháp lý đối với cá nhân hoặc tổ chức có liên quan.

Các giai đoạn của SCMT [35]
Quá trình sự cố phản ánh tính nhiễu loạn, bất ổn của hệ thống và thường gồm 3 giai
đoạn. Với mỗi giai đoạn của sự cố sẽ có những chiến lược ứng phó thích hợp:
1. Giai đoạn nguy cơ: Đã tồn tại các yếu tố gây hại nhưng chưa gây mất ổn định
cho hệ thống.
2. Giai đoạn phát triển: Tập trung và gia tăng các yếu tố sự cố, xuất hiện trạng thái
mất ổn định, nhưng chưa vượt qua ngưỡng an toàn của hệ thống môi trường.
3. Giai đoạn sự cố: Trạng thái mất ổn định đã vượt qua ngưỡng an toàn của hệ
thống, gây ra các thiệt hại không mong đợi cho con người và môi trường.

Chiến lược ứng xử SCMT [35]
Tương ứng với 3 giai đoạn của sự cố có 3 chiến lược ứng xử sự cố sau:
• Chiến lược I: được tiến hành khi xảy ra SCMT gồm các hành động khẩn cấp

nhằm can thiệp để chấm dứt sự cố, đưa hệ thống đến ngưỡng an toàn tạm thờingưỡng mà hệ thống môi trường chưa bị phá vỡ nhưng các quá trình sự cố vẫn
đang tồn tại có khả năng gây thiệt hại, do đó ngưỡng an toàn này không bền.
• Chiến lược II: phòng ngừa để giảm sự cố đến mức thấp nhất, cách xa ngưỡng
an toàn tạm thời. Chiến lược này bao gồm các hành động ưu tiên có chọn lọc.
• Chiến lược III: phòng ngừa toàn diện để đưa quá trình sự cố đến ngưỡng an
toàn lâu dài. Chiến lược này bao gồm các hành động tổng hợp, tác động lên tất
cả các yếu tố của quá trình sự cố. Các hành động có tính phòng ngừa lâu dài
như qui hoạch, truyền thông môi trường, hoàn thiện cơ sở luật pháp … thích
hợp với chiến lược này. Các giai đoạn chiến lược ứng xử SCMT được biểu diễn
ở hình 2

Các giai đoạn chiến lược ứng xử SCMT

13/158


Vai trò của đánh giá rủi ro môi trường
ĐGRRMT tạo cơ sở giúp các nhà quản lý môi trường cân bằng giữa trách nhiệm bảo vệ
con người và môi trường với sự phát triển kinh tế. Mục đích của đánh giá rủi ro là xác
định con người hay các yếu tố môi trường bị tác động. Các nhà quản lý môi trường có
nhiệm vụ bảo vệ con người cũng như hệ động, thực vật khỏi những tác động có hại. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, điều này được thực hiện với việc áp dụng các phương
pháp chưa triệt để và với chi phí đầu tư thấp. Bên cạnh đó, việc loại trừ triệt để các chất
gây ô nhiễm và tác động có hại có thể gây cản trở đối với quá trình sản xuất, kéo theo
sự giảm lượng hàng hóa cần thiết [76]. Vì thế cần thực hiện đánh giá SCMT để giúp các
nhà quản lý môi trường đưa ra các quyết định hợp lý nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu và
loại trừ các tác động có hại gây ra đối với con người, môi trường và xã hội; đồng thời
đảm bảo mức sản xuất hợp lý. Vai trò của đánh giá rủi ro trong chu trình quản lý rủi ro
được giới thiệu trong hình 3


Chu trình đánh giá rủi ro môi trường

Lịch sử đánh giá rủi ro môi trường
Nghiên cứu về đánh giá SCMT trong sản xuất và đời sống được quan tâm nhiều trên
thế giới. ĐGRRMT đã và đang được sử dụng rộng rãi, đặc biệt ở Mỹ, Canađa và các
nước khối cộng đồng châu Âu. Phương pháp giải quyết vấn đề dựa vào việc xem xét
những rủi ro trở nên nổi bật trong công nghiệp hạt nhân và được tiến hành rộng rãi trong
công nghiệp không gian, là ngành có nhiều hệ thống phức tạp và cần thiết phải có độ
tin cậy rõ ràng. Trong những năm 1960, phương pháp đánh giá xác xuất của rủi ro –
Probabilistic Risk Assessement (PRA) đã phát triển trong ngành công nghiệp này. Sau
những sự cố công nghiệp vào những năm giữa thập niên 70 (đáng chú ý nhất là vụ nổ
cyclohexane ở Flixborough (Anh) năm 1974 và vụ rò rỉ hơi dioxin tại Seveso (Italia)

14/158


năm 1976, khung phương pháp luận của công nghiệp hạt nhân được áp dụng trong công
nghiệp hóa chất và công nghiệp dầu mỏ ở châu Âu những năm 1980. Có nhiều quy
định đối với những chất nguy hại được hình thành như hướng dẫn Seveso ở châu Âu
… Vào những năm 1970, phương pháp đánh giá định lượng rủi ro – Quantitative Risk
Assessment (QRA) và hướng dẫn Seveso đã được sử dụng trong công nghiệp hóa chất.
Từ những năm 1990, trong công nghiệp tàu biển đã áp dụng phương pháp đánh giá độ an
toàn – Formal Safety Assessement (FSA). Gần đây nhiều nghiên cứu tại các nước phát
triển đã đưa ra nhiều phương pháp đánh giá rủi ro liên quan đến môi trường, bao gồm
đánh giá rủi ro sức khỏe (HRA), đánh giá rủi ro sinh thái (ERA) và đánh giá rủi ro công
nghiệp (IRA) [47]. Joseph F và B. Diane Louvar [138] nghiên cứu về đánh giá SCMT
do hóa chất với phương pháp đánh gía quan hệ liều lượng-phản ứng. ĐGRRMT sơ bộ
và chi tiết được áp dụng cho eo biển Malacca (chung của ba nước Singapo, Malaixia và
Inđônêxia) năm 1999, đưa ra các kết luận quan trọng về khả năng rủi ro do tràn dầu và
các đề xuất liên quan cho ba quốc gia nói trên. ĐGRRSB đã hoàn thành đối với vịnh

Manila, Philipin, bước đầu xác định và lượng hóa được mức độ của các rủi ro chính đối
với môi trường nước của vịnh.
Ở Việt Nam, đánh giá SCMT đã bước đầu được quan tâm. Luật BVMT Việt Nam giới
thiệu những quy định chung về SCMT và phòng ngừa SCMT [41]; Chính phủ ban hành
quy chế quản lý an toàn trong các họat động dầu khí [84]. GS.TSKH Lê Huy Bá giới
thiệu tổng quan về SCMT và phương pháp đánh gía SCMT [1]; PGS.TS Huỳnh Thị
Minh Hằng giới thiệu tổng quan về rủi ro và quy trình đánh giá rủi ro trong họat động
dầu khí [26]; GS Lê Văn Khoa giới thiệu tổng quan về tai biến môi trường và cách ứng
xử tai biến môi trường [35]; TS. Chế Đình Lý giới thiệu về phân tích hệ thống môi
trường và hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường [47], TS. Lê Thị Hồng Trân hướng dẫn
đánh giá rủi ro sinh thái và rủi ro sức khỏe [95]; TCT dầu khí Việt Nam ban hành các
văn bản hướng dẫn giám sát ATLĐ trong các họat động dầu khí [85], hướng dẫn quản lý
rủi ro và ứng cứu khẩn cấp trong các hoạt động dầu khí [86], hướng dẫn quản lý ATLĐ
và VSLĐ trong các họat động dầu khí [87] đề cập chủ yếu tới công tác hướng dẫn quản
lý an toàn trong chế biến dầu khí. Tuy nhiên, đánh giá sự cố được giới thiệu trong các
văn bản nói trên hầu như chỉ mang tính chất định tính. Một số báo cáo đánh giá RRMT
cho các dự án cụ thể đã được thực hiện như ĐGRRSB môi trường vùng biển ven bờ
thành phố Đà Nẵng được thực hiện bởi nhóm chuyên gia đa ngành với sự tham vấn của
các chuyên gia của chương trình hợp tác khu vực trong quản lý môi trường biển Đông
nhằm nâng cao năng lực của địa phương trong quản lý tài nguyên, môi trường vùng ven
bờ, tạo cơ sở để hoàn thiện chương trình quan trắc môi trường và các kế hoạch, quy định
về quản lý tài nguyên, môi trường liên quan và một số báo cáo khác [76]. Trong nền
kinh tế phát triển như Việt Nam hiện nay, các nghiên cứu đánh giá về SCMT hiện có
chưa đáp ứng yêu cầu BVMT với phát triển kinh tế. Đã đến lúc, đánh giá SCMT cần
được nghiên cứu áp dụng rộng rãi hơn nữa nhằm sử dụng hiệu quả hơn các cơ sở dữ liệu
môi trường thu thập được trong những năm qua, hoàn thiện các chương trình quan trắc
môi trường trên cơ sở các thông tin quan trọng được xác định, tập trung vào những vấn

15/158



đề ưu tiên, có nguy cơ gây rủi ro cao, tạo cơ sở khoa học tin cậy cho các đề xuất quản lý
RRMT [76].

Quy trình chung trong đánh giá rủi ro môi trường
Cả ba loại HRA, EcoRA, IRA đều có chung một phương pháp luận đánh giá nhưng khác
nhau về chi tiết theo yêu cầu riêng của từng mục tiêu đánh giá. Các nước khác nhau có
những phương pháp và quy trình đánh giá khác nhau nhưng đều gồm những bước như
trong hình 1.4 [47]

Quy trình đánh giá rủi ro môi trường tổng quát

Xác định mối nguy hại
Khái niệm
Xác định mối nguy hại là phân tích khoa học nhằm xác định mối quan hệ nhân – quả
giữa tác nhân – hóa chất gây nguy hại hoặc có tác động xấu đến sức khỏe con người và
môi trường hay không? Bước này nhằm trả lời câu hỏi: “Có tồn tại hay không các tác
nhân gây nguy hại trong khu vực quan tâm?”.
Xác định mối nguy hại giúp đưa ra nhận định tính ban đầu về rủi ro về mặt tác động đến
sức khỏe. Mục đích là thu thập tất cả các thông tin phù hợp nhằm xác định sự hiện diện
các mối nguy hại đối với sức khỏe con người trong môi trường.
Các bước tiếp theo của đánh giá rủi ro tùy thuộc vào các phát hiện trong giai đoạn xác
định mối nguy hại.
Nội dung xác định mối nguy hại
Những nội dung chính của công việc nhận diện mối nguy hại bao gồm:
• Nhận diện các nguy hại: các tác nhân cơ học, vật lý, hóa học … hay là sự kết
hợp các tác nhân trên.
• Liệt kê các hóa chất đưa vào đánh giá rủi ro và lý do lựa chọn.

16/158



• Đánh giá các đặc trưng vật lý, hóa học, độc học của các hóa chất.
• Chất lượng dữ liệu được xem xét và thống kê được đánh giá.
• Xác định các quần thể phụ như địa điểm phục hồi hóa chất – công nhân, khách
tham quan, dân cư xung quanh, nhân viên văn phòng.
• Lựa chọn các chủ điểm nhạy cảm nhất.
Để thuận tiện cho công việc mô tả địa điểm, có thể tiến hành phân tích thành phần cấu
trúc của địa điểm được đánh giá và lập ra khung làm việc như bảng 1.1
Ma trận địa điểm – nguy hại [47]
Thành phần
Mối nguy hại
Cháy

Nổ Hóa chất Vật rơi

Thành phần 1
Thành phần 2
…………….
Thành phần n
Đánh giá phơi nhiễm
Đánh giá phơi nhiễm cung cấp thông tin về lượng phát thải ra môi trường, đường truyền
và các tuyến tiếp xúc của tác nhân phơi nhiễm để thâm nhập vào vật tiếp nhận. Đánh
giá phơi nhiễm là quá trình đánh giá định lượng hay định tính sự thâm nhập của một
tác nhân nguy hại vào vật nhận (con người hoặc môi trường) thông qua sự tiếp xúc với
môi giới môi trường (nước, không khí, đất). Sự đánh giá được thực hiện thông qua các
thông số đầu vào về cường độ, tính liên tục, độ dài thời gian tiếp xúc và tuyến tiếp xúc.
Đánh giá phơi nhiễm bao gồm mô tả tính chất và quy mô của các quần thể khác nhau bị
phơi nhiễm đối với một hóa chất, độ lớn và thời gian phơi nhiễm của quần thể đó. Các
bước đánh giá phơi nhiễm gồm mô tả đặc trưng phơi nhiễm; xác định đường truyền phơi

nhiễm; định lượng phơi nhiễm.

17/158


Đánh giá độ độc hay phân tích liều–phản ứng [47]

Mối liên hệ giữa RfD, NOAEL và LOAEL đối với hóa chất độc hại

Đánh giá liều–phản ứng bao gồm sự mô tả quan hệ định lượng giữa lượng phơi nhiễm
đối với một hóa chất và mức ngộ độc hay bệnh tật.
Mô tả đặc tính rủi ro [95]
Mô tả đặc tính rủi ro là bước cuối cùng xác định phạm vi các tác động bất lợi đến nguồn
tiếp nhận dưới điều kiện phơi nhiễm. Các đặc tính rủi ro được tóm tắt và tổng hợp phơi
nhiễm và đánh giá độc tính để định tính và định lượng các mức độ rủi ro và xem xét
thêm các vấn đề không chắc chắn trong đánh giá rủi ro. Kết quả phơi nhiễm trong vấn
đề rủi ro lớn nhất có thể được xác định trong tiến trình này. Các đặc tính rủi ro thích hợp
từ các mối nguy hại liên quan đến các vấn đề ONMT cho phép quản lý rủi ro và quyết
định đúng hơn để thực hiện tốt hơn. Nó là sự biểu hiện của nguy cơ đối với từng cá thể,
các cộng đồng hay từng đối tượng bị tác động khác trên cơ sở lượng hóa, qua đó ta được
các giá trị định lượng cao hơn mức trung bình.
Mô tả đặc tính rủi ro định lượng (QRA)
Trường hợp xét đặc tính rủi ro từ chất ung thư và không gây ung thư thì nhiệm vụ là
ước lượng rủi ro (tính toán lượng rủi ro từ chất gây ung thư và chất không gây ung thư
trên cả ba tuyến phơi nhiễm) và phân tích kết quả để đưa ra những quyết định đúng đắn.
Tính toán rủi ro đối với mức phơi nhiễm trung bình và lớn nhất.
Đối với phơi nhiễm lâu dài: sử dụng nồng độ trung bình để tính rủi ro đại diện cho việc
ước lượng từ nhiều điểm phơi nhiễm. Đối với phơi nhiễm tức thời: sử dụng nồng độ lớn
nhất để tính toán sẽ hiệu quả hơn.


18/158


• Tính toán rủi ro từ chất gây ung thư: R = CDI x SF (1.3).
Trong đó:
• R: Rủi ro từ chất gây ung thư
• CDI: Liều lượng hóa chất vào cơ thể liên tục mỗi ngày (mg/kg.ngày).
• SF: Hệ số dốc đường cong liều lượng – phản ứng (kg.ngày/mg).
Đặc tính rủi ro ung thư cần phải tính toán cho riêng từng hóa chất phù hợp với tuyến và
con đường phơi nhiễm. Việc tính toán lặp lại cho mỗi hoàn cảnh và mỗi cộng đồng phơi
nhiễm. Mỗi tuyến phơi nhiễm có giá trị SF riêng. Để tính tổng rủi ro từ các chất gây ung
thư ta cộng dồn tất cả các rủi ro ung thư của mỗi chất ứng với mỗi tuyến phơi nhiễm.
• Tính toán rủi ro từ chất không gây ung thư:

(1.4)
Trong đó:
• CDI: Liều lượng hóa chất vào cơ thể liên tục mỗi ngày (mg/(kg.ngày)).
• RfD: Liều lượng tham chiếu (mg/(kg.ngày))
• HI: Chỉ số độc hại. Nếu HI<1: không có ảnh hưởng; nếu HI>1: chất không gây
ung thư đang xét có khả năng ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe khi phơi nhiễm.
Chỉ số độc được tính riêng cho từng hóa chất. Trong trường hợp phơi nhiễm với nhiều
chất thì chỉ số độc của tuyến phơi nhiễm đó bằng tổng các chỉ số độc của mỗi chất.
Nhưng nếu các chất đó không gây ra cùng một loại tác động thì việc xét chỉ số độc tổng
cộng là không có tác dụng.
Mô tả các rủi ro bán định lượng (rủi ro yếu, trung bình hoặc cao)
Phương pháp hệ số rủi ro là phương pháp phổ biến để mô tả đặc tính rủi ro bán định
lượng. Hệ số rủi ro (RQ) được tính toán bằng tỷ số giữa nồng độ môi trường xác định
bằng đo đạc (MEC) hoặc tính toán dự báo (PEC) với nồng độ dự báo ngưỡng là nồng độ
không gây tác động (PNEC) lên đối tượng. PNEC được xác định từ các tiêu chuẩn, quy
định liên quan.

• Đối với đánh giá rủi ro môi trường và sinh thái:

(1.5)

19/158


• Đối với đánh giá rủi ro sức khỏe:

(1.6)
Khi: RQ < 1: Rủi ro thấp; RQ ≥ 1: Rủi ro cao
Trong đánh giá rủi ro môi trường, đặc biệt là rủi ro sinh thái thường sử dụng các cấp độ
đánh giá chi tiết hơn:
RQ từ 0,01 đến 0,1: rủi ro thấp;
RQ từ 0,1 đến 1: rủi ro trung bình;
RQ ≥1: rủi ro cao.

Giới hạn của đánh giá rủi ro môi trường [47], [95]
Nghiên cứu tác động của các hóa chất trên vi sinh vật, thực vật, động vật và con người
thường không đạt kết quả như mong muốn bởi các yếu tố:
• Sự biến thiên trong sức chịu đựng của các cá thể và loài đối với các tác động
của các chất ô nhiễm.
• Các điều kiện môi trường và các tiến trình tác động lên tính chất của các chất ô
nhiễm như là sự chia cắt, chuyển đổi, suy thoái, nhiệt độ, pH, chất hữu cơ…
• Sự không chắc chắn trong sự ngoại suy dữ liệu nghiên cứu giữa các loài hoặc
trong cùng loài.
• Các lỗ hổng thông tin lớn về cơ chế và các tiến trình tác động đến các chức
năng và cơ quan trong cơ thể, chúng tương tác như thế nào và chúng có thể bị
tác động bởi ô nhiễm như thế nào?
• Sự hiểu biết của chúng ta về các tương tác giữa các cá thể người bị tác động,

các thực vật, động vật bị tác động trong một quần thể, giữa các quần thể trong
một quần xã và giữa các quần xã trong một khu vực và các hệ sinh thái còn giới
hạn.
Điều tốt nhất là ta có thể xác định các thông tin cơ bản về các rủi ro gây ra tại một địa
điểm là sự hiện diện chất ô nhiễm trong khu vực và khả năng tác động, kiểu tác động
của các chất ô nhiễm đến môi trường và con người. Với cách thu thập thông tin, khả
năng đo đạc, quan trắc; vấn đề xác định các chất ô nhiễm được tăng cường và cải thiện
hay khả năng dự đoán của chúng ta được nâng cao cùng với các biện pháp quản lý thích
hợp thì mức độ nguy hại của rủi ro có thể giảm xuống.

20/158


Tổng quan, tình hình chế biến và sử dụng khí dầu mỏ hóa
lỏng (LPG)
Tổng quan về khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG)
Khái niệm chung về LPG
Khí dầu mỏ hóa lỏng (Liquefied Petroleum Gas-LPG), gọi tắt là khí hoá lỏng, thường
được gọi là gas, là khí hoặc hỗn hợp khí có thành phần hóa học chủ yếu là hydrocarbon
no dạng parafin, công thức tổng quát là: CnH2n+2 như: propane (C3H8), butane (C4H10)
... Ngoài ra, có khả năng xuất hiện vết của ethane (C2H6), pentane (C5H12) ethylene
(C2H4), butadiene 1,3 (C4H6)…nhưng không đạt tỷ lệ đo được. LPG cũng có thể có
hydrocarbon dạng olefin hay không olefin, phụ thuộc vào phương pháp chế biến. Tùy
điều kiện chế biến và yêu cầu sử dụng, thành phần của propane và butane trong hỗn
hợp sẽ khác nhau. LPG có thể là propane thương phẩm hay butane thương phẩm hoặc
hỗn hợp propane và butane với tỷ lệ propane/butane khác nhau, tuỳ thuộc yêu cầu khách
hàng [36]. Trong luận án, LGP được hiểu là LPG thương mại gồm propane (C3)hoặc
butane (C4 ) hoặc hỗn hợp propane – butane với tỷ lệ 50%:50% theo thể tích [89].
Tiêu chuẩn chất lượng của LPG thương phẩm được giới thiệu trong bảng 1.2
Tiêu chuẩn Việt Nam về LPG thương phẩm [36]

STT Chỉ tiêu

Đơn vị

Quy định

1

Hàm lượng lưu huỳnh tối đa

ppm

140

2

Nhiệt trị

kcal/kg

10.980

3

Tỷ trọng tại 15,6oC

4

Nhiệt độ bốc hơi 95% thể tích ở 760
mmHg


o

2,2

5

Thành phần: PropaneButane

% thể tích% thể
tích

43 – 6357 –
37

0,53 – 0,56
C

Công thức hoá học, khối lượng phân tử, khối lượng riêng
Công thức hoá học, khối lượng phân tử, khối lượng riêng (KLR) của propane – butane
được giới thiệu trong bảng 1.3

21/158


Công thức hoá học và ký hiệu của propane – butane [36]
Môi chất

Công thức
hóa học


Khối lượng
phân t ử

KLR của lỏng ở 15
oC (kg/m3)

KLR của hơi ở 15
oC (kg/m3)

Propane
(C3H8)

CH3-CH2CH3

44,09

510

1,86

n-Butane
(C4H10)

CH3-CH2CH2-CH3

58,12

575


2,6

Trạng thái tồn tại và quan hệ áp suất-nhiệt độ-thành phần
Trong thiết bị, LPG được tồn trữ ở trạng thái lỏng bão hòa. Ở điều kiện khí quyển, LPG
tồn tại ở trạng thái hơi. Quan hệ giữa áp suất bão hòa, thành phần và nhiệt độ của LPG
được xác định bằng phương trình trạng thái của khí thực hoặc sử dụng bảng hay đồ thị.
Hiện có nhiều phương trình trạng thái của khí thực nhưng phương trình thường được sử
dụng là phương trình của Van Der Waals [79]:

(1.7)
Đối với LPG, a và b có giá trị như sau:
• Butane: a =13,86 [bar.(m3/kmol)2]; b = 0,1162 [m3/kmol];
• Propane: a =9,349 [bar.(m3/kmol)2]; b = 0,0901[m3/kmol].
Tính cháy, nổ
Đặc trưng nguy hiểm cháy, nổ là nhiệt độ tự bốc cháy và khoảng cháy, nổ. Giới hạn và
thông số cháy, nổ của LPG trong không khí được cho trong bảng 1.4
Bảng 1. 4: Bảng thông số cháy, nổ của LPG [36]
Bảng thông số cháy, nổ của LPG [36]
Môi chất

Nhiệtđộ bay hơi ở áp suất khí Nhiệt độ tự
quyển (0C)
cháy (0C)

Giới hạn
cháy(% thể
tích)
dưới

trên


22/158


Nhiệt trị(kcal/
kg)

Nhiệt độ ngọn lửa khi cháy
trong không khí (0C)

Propane

- 42

400?580

2,2 10 11.900 1.930

Butane

- 0,5

410?550

1,8 9

11.800 1.900

Quan hệ giữa áp suất tương đối, nhiệt độ bão hòa và thành phần của LPG được giới
thiệu trên hình 2 [157].


Đồ thị biểu diễn quan hệ giữa áp suất tương đối, nhiệt độ bão hòa và thành phần LPG

Tính dãn nở
LPG có hệ số dãn nở thể tích rất lớn, 1 đơn vị thể tích LPG lỏng tạo ra khoảng 250 đơn
vị thể tích LPG hơi [89]. Bảng tính chất nhiệt-vật lý và đồ thị lg p-h của propane, butane
được giới thiệu trong phần phụ lục [39]. Hệ số dãn nở thể tích của LPG lớn là thuận lợi
để sử dụng nhưng cũng làm gia tăng tác hại nếu xảy ra sự cố vì phạm vi ảnh hưởng của
sự cố sẽ tăng cao.

23/158


×