Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TUẤN THIỆN

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TUẤN THIỆN

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Dũng



HÀ NỘI - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi và tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về sự trung thực khoa học trong luận văn này.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tuấn Thiện

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU


1

Chương 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM

9

TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

1.1.

Một số vấn đề về trẻ em và các tội xâm phạm tình dục trẻ em

9

1.1.1. Khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam

9

1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em

11

1.1.3. Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em

13

1.2.

24


Quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về các tội xâm
phạm tình dục trẻ em

1.2.1. Loại hành vi thứ nhất: hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân

25

1.2.2. Loại hành vi thứ hai: hành vi giao cấu được thực hiện bằng

30

thủ đoạn cưỡng ép trẻ em buộc họ phải miễn cưỡng chấp nhận
sự giao cấu
1.2.3. Loại hành vi xâm hại tình dục có sự thuận tình của nạn nhân

33

1.3.

36

Kinh nghiệm lập pháp một số nước đối với các tội xâm phạm
tình dục trẻ em

1.3.1. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Thụy Điển về các tội xâm

36

hại tình dục trẻ em

1.3.2. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Liên bang Nga về các tội

38

xâm hại tình dục trẻ em
1.3.3. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Trung Quốc về các tội

39

xâm hại tình dục trẻ em
1.3.4. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của Cộng hòa liên bang Đức
về các tội xâm hại tình dục trẻ em

4

39


Chương 2: THỰC TIỄN CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÕNG CHỐNG

43

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

Đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội có ảnh hưởng

43


đến tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
2.1.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội

43

2.1.2. Đặc điểm tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên

44

địa bàn Hà Nội
2.2.

Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc giải quyết các

49

vụ án phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em và nguyên nhân
2.2.1. Về việc tiếp nhận, thẩm tra, xác minh tin báo về tội phạm

49

xâm hại trẻ em
2.2.2. Về việc xác định tuổi của nạn nhân

51

2.2.3. Vấn đề về chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em

54


Chương 3:

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI

59

XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU TRA,
TRUY TỐ, XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
TRẺ EM

3.1.

Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm tình

59

dục trẻ em
3.2.

Đề xuất hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các

62

tội xâm phạm tình dục trẻ em
3.2.1. Về định khung hình phạt trong trường hợp nạn nhân chưa đủ

62


13 tuổi trong tội hiếp dâm trẻ em
3.2.2. Về việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với

63

việc nhận thức nạn nhân là trẻ em trong các tội xâm phạm
tình dục trẻ em
3.2.3. Về đặc điểm giới tính của chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em,
tội cưỡng dâm trẻ em

5

65


3.2.4. Quy định lại độ tuổi trẻ em là nạn nhân của tội phạm

67

3.2.5. Cần bổ sung tội "quấy rối tình dục" trong Bộ luật Hình sự

69

3.3.

70

Giải pháp hoàn thiện một số thuật ngữ pháp lý liên quan đến
các tội xâm phạm tình dục trẻ em


3.4.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử

77

đối với các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

6


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng số liệu xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm

45


bảng
2.1

phạm tình dục trẻ em tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2009 đến 6 tháng đầu năm 2015
2.2

Thống kê số vụ án xâm hại tình dục là trẻ em được đưa ra
xét xử từ năm 2009 đến năm 2014 tại Hà Nội

7

46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm…." [36]. Như vậy, bên cạnh quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe thì
danh dự và nhân phẩm, trong đó có quyền tự do tình dục của con người nói
chung và trẻ em nói riêng là một quyền Hiến định. Nhất là đối với trẻ em, vì
họ là đối tượng còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo
vệ đặc biệt.
Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt chăm lo bảo vệ các quyền này của người dân, trừng trị nghiêm khắc
những hành vi xâm phạm tình dục nói chung và xâm hại tình dục trẻ em.
Nhiều bản án nghiêm khắc, trong đó có cả hình phạt tử hình giành cho người
phạm tội thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc đấu tranh không
khoan nhượng đối với loại hành vi này, là bài học đắt giá đối với người phạm

tội và là tiếng chuông cảnh tỉnh, răn đe chung đối với mọi người.
Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, nhất là khi chúng ta thực
hiện chính sách mở cửa, hội nhập, trên phạm vi toàn quốc, các tội phạm xâm
hại trẻ em ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp và luôn có chiều hướng gia
tăng mà nổi cộm là hiếp dâm trẻ em, tội giao cấu trẻ em, tội dâm ô với trẻ em
và mua dâm người chưa thành niên. Xét về khía cạnh tội phạm học, thì loại
hành vi xâm hại tình dục trẻ em trong thời kỳ này mang những đặc trưng
riêng của thời kỳ mở cửa, duy trì kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và thời
đại công nghệ thông tin.
Tình hình tội phạm này trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, nhất là từ khi mở
rộng địa giới hành chính cũng đang có chiều hướng diễn biến hết sức phức tạp
và mang đầy đủ những đặc trưng mới như đã nêu ở trên của loại tội phạm

8


này. Theo thống kê chưa đầy đủ, mỗi năm, các cơ quan tố tụng hình sự của
Hà Nội tiến hành điều tra, truy tố, xét xử khoảng 7.092 vụ án hình sự, trong
đó số vụ án xâm hại tình dục mà nạn nhân là trẻ em chiếm 2,5%.
Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tới danh dự, nhân
phẩm và sức khỏe của trẻ em của các tội xâm phạm tình dục trẻ em và mức
độ, diễn biến ngày càng phức tạp của các loại tội phạm này trên phạm vi
toàn quốc nói chung cũng như trên phạm vi thành phố Hà Nội nói riêng, các
cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong việc phát hiện điều tra,
truy tố và xét xử người phạm tội. Theo số liệu thống kê trong khoảng thời
gian sáu năm từ năm 2009 đến tháng 6 năm 2015, tổng số các vụ án xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội là 277 vụ/ 322 bị cáo bị
đưa ra xét xử.
Tuy nhiên, thực tiễn đấu tranh phòng chống đối với các tội xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn toàn quốc nói chung cũng như trên địa bàn thành

phố Hà Nội nói riêng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, còn tồn tại một số hạn
chế, thiếu sót. Qua tổng kết 14 năm thi hành Bộ luật Hình sự cho thấy những
hạn chế, vướng mắc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có bất cập
trong quy định của Bộ luật Hình sự. Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định
các hành vi phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em gồm: Tội hiếp dâm trẻ em, tội
cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em... Thực tế chỉ ra rằng, một số dấu
hiệu cấu thành của một số cấu thành tội phạm, cũng như các tình tiết tăng
nặng định khung so với thực tiễn hành vi vi phạm còn chưa phù hợp điều đó
dẫn đến sự hiệu quả trong xử lý các tội xâm phạm tình dục trẻ em chưa thực
sự đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, qua
nghiên cứu tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên phạm vi toàn
quốc, trong sự so sánh với tình hình tội xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn
thành phố Hà Nội cho thấy, trong thời gian qua, loại tội phạm này xảy ra trên
địa bàn thành phố Hà Nội cũng có những điểm đặc thù.

9


Do đó đặt ra một yêu cầu cần phải nghiên cứu về tình hình loại tội
phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội để có những đề xuất kiến nghị hoàn
thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về nhóm tội phạm này.
Từ những phân tích trên đây, tác giả quyết định chọn đề tài "Các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về
tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên, tội phạm xâm hại trẻ em cụ thể như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Phòng ngừa tội phạm xâm hại
trẻ em ở Việt Nam theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Trần
Phương Đạt làm chủ nhiệm, năm 2004.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em ở các tỉnh thành phố phía Nam, thực trạng và giải pháp phòng ngừa đấu
tranh, Vũ Đức Trung làm chủ nhiệm, năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ: Tội hiếp dâm trẻ em và đấu tranh phòng chống tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Định, Đặng Xuân Nam, năm 1999.
- Luận văn thạc sĩ: Thực trạng và các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở
nước ta hiện nay, của Đặng Thị Thanh, năm 2001.
- Luận văn thạc sĩ: Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trẻ em trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, của Dương Thị Quỳnh Mận, năm 2006.
- Luận văn thạc sĩ: Phòng ngừa tội phạm hiếp dâm trẻ em trên địa bàn
thành phố Hà Nội, của Bùi Thị Thanh Loan, năm 2011.
- Luận văn thạc sỹ: Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật
Hình sự hiện hành, của Trần Thùy Chi, năm 2011.
- Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp
dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, của Dương Tuyết Miên, Tạp chí Luật
học, số Đặc san về bình đẳng giới, năm 2005.

10


- Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về một số tội
xâm phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
1999, của Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học, số 1/2010.
- Trẻ em hiếp dâm trẻ em, trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và sự
không hợp lý trong quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự, của Trần
Quang Thái, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17/2011.
- Về các tội phạm nhân phẩm, danh dự của con người, của Đỗ Đức
Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8(169), tháng 4/2010.
- Cần sửa đổi các Điều 115 và Điều 116 Bộ luật Hình sự hiện hành,

của Trần Quốc Văn, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2011.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến tội phạm xâm hại tình dục trẻ
em, tuy nhiên những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những biện
pháp, phương hướng phòng ngừa, hạn chế một hoặc một số tội xâm phạm trẻ
em dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức độ luận văn Thạc sĩ luật học về những
đặc thù của các tội xâm phạm tình dục trẻ em, đặc biệt trên địa bàn thành phố
Hà Nội để từ đó đưa ra các đề xuất sửa đổi Bộ luật Hình sự cũng như hoàn
thiện các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà
Nội nói riêng cũng như các đô thị nói chung. Như vậy, với tình hình nghiên
cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc lựa chọn đề tài " Các
tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ luật học là
hợp lý và cần thiết vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành là các tội xâm phạm tình dục trẻ em tập trung chủ yếu là tội hiếp dâm trẻ

11


em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em, tội dâm ô với trẻ em và tội
mua dâm người chưa thành niên (tình tiết tăng nặng mua dâm trẻ em) trong
Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 góp phần làm rõ các
quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành và phân tích tình hình các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội, như phân tích các thông
số về vụ phạm tội, người phạm tội, mức độ thiệt hại, các đặc điểm nhân thân
người phạm tội cũng như hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm

trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em, tội dâm ô với trẻ em và
tội mua dâm người chưa thành niên (tình tiết tăng nặng mua dâm trẻ em) giải
pháp phòng ngừa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Trên cơ sở các số liệu thống kê của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án trong giai đoạn từ năm 2010-2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng
như nghiên cứu tham khảo một số vụ án thực tế nhằm phác họa được thực
trạng tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong thời gian vừa qua. Từ
đó rút ra đặc điểm của loại tội này trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành
và các văn bản hướng dẫn thi hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Qua
đó phát hiện những bất cập, thiếu sót cần sửa đổi, bổ sung.
- Hệ thống hóa các quan điểm khoa học và làm rõ dấu hiệu pháp lý
của tội hiếp dâm trẻ em, phân biệt tội hiếp dâm trẻ em với các tội cưỡng dâm
trẻ em, tội dâm ô đối với trẻ em, tội giao cấu với trẻ em.
- Nhận xét đánh giá một số các quy định của pháp luật hình sự hiện
hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, đồng thời đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em và
giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm này
trên địa bàn thành phố Hà Nội.

12


4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể

hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
Nghị quyết số 08/ NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh quy định
pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, kết hợp với
việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhóm tội phạm này
trên địa bàn thành phố Hà Nội, phân tích các nguyên nhân, những tồn tại, hạn
chế và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự
hiện hành về nhóm hành vi xâm phạm tình dục trẻ em.
Ngoài ra, luận văn cũng có tham khảo quy định phá luật hình sự của
một số nước trên thế giới.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về địa điểm: Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: trong khoảng thời gian 5 năm (2010 - 2014).

13


6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở

cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, trên
địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý
luận và thực tiễn có liên quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Xây dựng được bức tranh tổng thể về tình hình tội phạm xâm hại
tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm gần đây;
- Phân tích và rút ra được những đặc điểm của loại tội phạm này trên
địa bàn thành phố Hà Nội;
- Hệ thống hóa các quy định của pháp luật làm rõ đặc điểm pháp lý
của các tội xâm phạm tình dục trẻ em;
- Phân tích những hạn chế của các quy định của pháp luật hiện hành
có liên quan;
- Tập trung nghiên cứu về phương hướng phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm xâm hại tình dục trẻ em ở những góc độ khác nhau;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự một số nước điển
hình như Pháp, Liên bang Nga, Trung Quốc... về các tội xâm hại tình dục trẻ
em so sánh với pháp luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các vụ án liên quan đến xâm hại
tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian 5 năm gần đây, từ đó
đề ra một số giải pháp góp phần bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng
như giải pháp đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm này.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu

14


cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng,

đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp
luật hiện hành để góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội
phạm, từ đó tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân nói chung và trẻ em nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số nội dung cơ bản về các tội xâm phạm tình dục trẻ
em trong pháp luật Hình sự.
Chương 2: Thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục
trẻ em và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử
các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

15


Chương 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRẺ EM VÀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
TRẺ EM

1.1.1. Khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam
Thuật ngữ "trẻ em" được quy định ở mỗi quốc gia không giống nhau
tùy thuộc vào những đặc điểm riêng về sự phát triển sinh học, cũng như quan
điểm về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục đối với trẻ em của mỗi nước. Từ điển

tiếng Việt không đưa ra định nghĩa về "trẻ em" mà chỉ mô tả trẻ em giống với trẻ
con là "trẻ nhỏ nói chung" [57, tr. 1664], trong từ điều bách khoa Wikipedia
định nghĩa trẻ em là một con người ở giữa giai đoạn từ khi sinh và tuổi dậy
thì. Trong pháp luật Việt Nam cụ thể là Bộ luật Hình sự Việt Nam không đưa
ra định nghĩa về trẻ em một cách cụ thể mà mô tả ngày trong các điều luật về
tuổi của trẻ em, ví dụ Điều 112 - Tội hiếp dâm trẻ em quy định "người nào
hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm" hay Điều 114 - Tội cưỡng dâm trẻ em "người
nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt
tù từ năm năm đến mười lăm năm". Tuy nhiên trong Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em Việt Nam qui định: "Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi". Như vậy khái niệm "trẻ em" trong khoa học pháp lý không đồng nhất
với khái niệm trẻ em trong đời sống, đồng thời khái niệm "trẻ em" cũng
không đồng nhất với khái niệm "người chưa thành niên", trẻ em là người chưa
thành niên, nhưng người chưa thành niên có thể không phải là trẻ em. Khi
nghiên cứu vấn đề này chúng ta cần phân biệt rõ người chưa thành niên và trẻ
em khác nhau như thế nào. Điều 68 - Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi năm
2009 quy định "người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười

16


tám tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
chương này….". Như vậy, độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi
còn trẻ em là dưới 16 tuổi. Hai khái niệm này có sự giao thoa nhau, trong đó
khái niệm "người chưa thành niên" rộng hơn khái niệm "trẻ em"
Trong hệ thống pháp luật quốc tế liên quan đến trẻ em, đã có nhiều văn
bản quy định về quyền của trẻ em; trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
trẻ em như: Tuyên bố Giơnevơ 1924; Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ
em 1959; Tuyên bố của Liên hợp quốc về sự sống còn, bảo vệ và phát triển

của trẻ em; Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục
đích thương mại; Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989 v.v...
Liên quan đến khái niệm trẻ em, Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em năm 1989 mà Việt Nam đã phê chuẩn quy định: "Trẻ em có
nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em
đó qui định tuổi thành niên sớm hơn" [19]. Như vậy, để xác định một người
có phải là trẻ em hay không còn phụ thuộc vào luật áp dụng của từng quốc gia
quy định về độ tuổi trẻ em. Có thể nói, mỗi quốc gia có luật áp dụng khác
nhau đều có những quy định về độ tuổi xác định là trẻ em khác nhau.
Nói chung, trẻ em là người chưa phát triển về thể chất, tinh thần, hoặc
là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ. Họ là những người
đang trong quá trình trưởng thành nên chưa nhận thức đầy đủ về những khái
niệm thông thường trong cuộc sống hàng ngày, cũng như họ chưa có đầy đủ
khả năng thực hiện và khả năng tự gánh chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Do trẻ em là người đang nằm trong quá trình phát triển ở giai đoạn
đầu của người chưa thành niên, họ chưa có đầy đủ khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi của mình trong mọi ứng xử và tình huống của cuộc
sống. Chính vì vậy, trẻ em là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ khi tham
gia các quan hệ pháp luật. Tùy theo mỗi ngành luật mà năng lực trách nhiệm
của trẻ em cũng được quy định khác nhau. Pháp luật dân sự Việt Nam quy

17


định người chưa đủ sáu tuổi không có hành vi dân sự. Giao dịch dân sự của
người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
hiện; người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có
quy định khác. Pháp luật hình sự quy định trẻ em chưa đủ 14 tuổi do thể chất

và trí tuệ chưa phát triển, chưa nhận thức và làm chủ được hết hành vi của
mình, vì vậy, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tóm lại, khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam được coi là
người chưa đủ 16 tuổi, là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tùy thuộc vào
quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em có
khác nhau, nhưng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của trẻ em từ mọi
hành vi xâm phạm.
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Nghiên cứu về khái niệm các tội xâm phạm tình dục trẻ em góp phần
tìm hiểu bản chất, những vấn đề cốt lõi của các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Từ đó, việc tìm hiểu các dấu hiệu pháp lý và đặc trưng của từng tội xâm phạm
tình dục trẻ em có thể dễ dàng hơn và chuẩn xác hơn.
Từ khái niệm trẻ em đã được phân tích ở trên cho phép cũng ta có thể
tìm hiểu một cách thuận lợi hơn về nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em,
đó chính là những người từ dưới 16 tuổi bị người phạm tội có hành vi xâm hại
tình dục.
Tình dục là một nhu cầu tự nhiên của con người về quan hệ tính giao.
Điều này có nghĩa tình dục xuất phát từ nhu cầu mang tính chất bản năng của
con người, bằng cách xác định có quan hệ tính giao (gồm hành vi giao cấu và

18


hành vi tình dục nhưng không phải là giao cấu) giữa những đối tượng khác nhau
(có thể là tình dục dị tính và tình dục đồng tính). Tình dục có thể được hiểu là:
Hành vi tìm kiếm khoái cảm hoặc để sinh sản, có nội hàm
rộng, không chỉ có nghĩa là giao hợp giữa người nam và người nữ

mà còn bao gồm cả nhiều hành vi khác nhằm đem lại khoái cảm,
bằng tay hay bằng miệng, ở vùng cơ quan sinh dục hay ở những bộ
phận khác của cơ thể. Cũng vẫn là tình dục khi thực hành tìm kiếm
khoái cảm với bạn tình khác giới hay cùng giới, với một hay nhiều
hơn một người, tự mình gây khoái cảm (thủ dâm) hay gây khoái
cảm cho nhau, mơ tưởng đến chuyện tình dục hay sử dụng dụng cụ
chuyên dụng [11].
Xâm phạm tình dục trẻ em là xâm phạm, động chạm đến quyền tự do,
đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao; xâm phạm
đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em. Điều này được thể
hiện bằng việc đối tượng phạm tội có mong muốn và thực hiện các quan hệ
tính giao với trẻ em như hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô với trẻ em...
Theo quan niệm của pháp luật hình sự hiện hành, các hành vi phạm tội
được thực hiện nhằm thỏa mãn những ham muốn tình dục, những dục vọng của
cá nhân xâm phạm đến tình dục của trẻ em. Hành vi được biểu hiện ra bên
ngoài dưới hình thức hành động, bằng cách sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn
khác để uy hiếp tinh thần, làm tê liệt khả năng phản kháng hoặc tự vệ hoặc lợi
dụng sự non nớt về nhận thức của nạn nhân để đạt được hành vi tình dục.
Hậu quả tác hại của tội phạm là những mất mát rất lớn về tinh thần,
sức khỏe của nạn nhân, tác động tiêu cực đến đời sống bình thường của nạn
nhân và gia đình họ.
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được
tính nguy hiểm trong hành vi của mình và thấy trước hậu quả khi thực hiện
hành vi và mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

19


Chủ thể thực hiện tội phạm ngoài các điều kiện chung của chủ thể, tùy
từng loại tội mà chủ thể có thể là người từ đủ 14 tuổi trở lên hoặc là người đã

thành niên (đủ 18 tuổi trở lên).
Do vậy, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
theo luật định thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh
lý của trẻ em (người dưới 16 tuổi).
1.1.3. Lịch sử lập pháp hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.3.1. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự phong kiến
Trong thời kỳ phong kiến, pháp luật Việt Nam ít nhiều cũng đã quan
tâm đến việc bảo vệ trẻ em trước tội xâm phạm tình dục và cũng đã có những
hình phạt trừng trị nghiêm khắc kẻ phạm tội.
Dưới thời vua Lê Thánh tông (1428-1788), nước ta có bộ luật thành
văn đầu tiên là Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê). Bộ luật này đã có
những quy định bảo vệ trẻ em khỏi sự xâm hại tình dục, Điều 404 quy định
"Gian dâm với con gái nhỏ từ 12 tuổi trở xuống dù người con gái thuận tình
cũng xử như tội hiếp dâm". Và tội hiếp dâm có khung hình phạt là "Hiếp dâm
thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tạ. Nếu làm người đàn bà chết thì điền
sản kẻ phạm tội phải trả cho người chết".
Đến thời nhà Nguyễn (1815- 1945) vua Gia Long lên ngôi năm 1802,
năm 1815 ông ban hành bộ luật Gia Long còn gọi là Hoàng Việt luật lệ.
Trong đó có những quy định trong việc trừng trị nghiêm khắc đối với hành vi
xâm phạm tình dục trẻ em. Điều 330: "Cưỡng gian bé gái dưới 10 tuổi thì bị
chém ngay còn cưỡng gian bé gái trên 10 tuổi dưới 12 tuổi nếu việc cưỡng
gian đã thành thì bị phạt treo cổ, nếu việc cưỡng gian không thành thì phạt
trăm lượng, lưu ba ngàn dặm". Như vậy, các bộ luật thời phong kiến quy định
tuổi được phép quan hệ tình dục đối với nữ giới là trên 12 tuổi, trong chế độ

20



phong kiến "Trọng nam khinh nữ" thì có thể thấy đây là một điều luật rất tiến
bộ nhằm bảo vệ sức khỏe và sự phát triển bình thường của người phụ nữ.
Khi thực dân pháp xâm lược nước ta đất nước chia cắt làm ba miền:
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, mỗi miền sử dụng những quy định pháp luật khác
nhau. Ở Bắc Kỳ ngày 02/12/1921 quan toàn quyền Sarraut ban hành nghị định
áp dụng luật hình sự tại Bắc Kỳ bao gồm 328 điều, trong đó từ Điều 198 đến
Điều 205 có quy định và trừng trị các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Ở Trung
Kỳ, ngày 03/07/1933 vua bù nhìn Bảo Đại ban hành bộ Hoàng Việt tính luật
trên cơ sở kế thừa bộ Hoàng Việt luật lệ gồm 328 điều. Tại chương phạm gian
gồm 9 điều từ Điều 300 đến Điều 308 quy định tội xâm phạm tình dục. Điều 303
có quy định "phạm gian với con gái chưa đủ 15 tuổi sẽ bị phạt giam trong
ngục từ 5 đến 10 năm".
1.1.3.2. Các tội xâm phạm tình dục trẻ em giai đoạn trước năm 1985
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thời kì này chính quyền non
trẻ mới ra đời gặp rất nhiều khó khăn: nền kinh tế- xã hội lạc hậu bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, tình hình tài chính cạn kiệt, tình hình rối ren thù trong
giặc ngoài…nên nhà nước ta chưa thể đủ điều kiện để xây dựng được một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh. Do tình thế hết sức khẩn trương, xã hội rất cần có
pháp luật, mà lại không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng trong đó có
những quy định về tội phạm hiếp dâm nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng
nên ngày 10/10/1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL quy định cho
tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình An nam", Bộ "Hoàng
Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với điều kiện "không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa".
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các tòa án vẫn xử theo Luật
hình cũ được tạm thời giữ lại. Tuy nhiên, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên

21



Phủ (năm 1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội, miền Nam còn tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên các
điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Bắc có sự thay đổi
mạnh mẽ, các luật lệ của chế độ cũ không còn phù hợp. Do đó, để phù hợp
với tình hình mới từ năm 1955, toàn bộ các luật cũ không còn được áp dụng
nữa và các tòa án bắt đầu xử theo án lệ, theo đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước. Cho tới thời điểm này Nhà nước ta vẫn chưa ban hành một văn
bản pháp luật hình sự mới quy định về các tội xâm phạm tình dục trẻ em một
cách hoàn chỉnh, mà vẫn sử dụng các văn bản trước kia do chế độ cũ để lại
phù hợp với đường lối cách mạng trong thời kỳ mới.
Trước tình hình quy định về các tội xâm phạm tình dục nói chung
trong đó có tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng và thực trạng gia tăng các
tội phạm này, ngày 15/6/1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024
hướng dẫn xử lý tội phạm hiếp dâm nhằm khắc phục khuynh hướng coi nhẹ
tính chất nghiêm trọng của tội này nhất là khuynh hướng coi nhẹ tội hiếp dâm
mà nạn nhân là trẻ em. Đây có thể coi là văn bản đầu tiên của Nhà nước ta
quy định riêng về các tội xâm phạm tình dục trẻ em, mà cụ thể là tội hiếp dâm
trẻ em. Văn bản này là cơ sở để các Tòa án căn cứ để đấu tranh xử lý đối với
các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Để các quy định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời
giúp cho việc xét xử trên thực tiễn được dễ dàng và thuận lợi, năm 1967, trên
cơ sở kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã thông
qua bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967 hướng dẫn đường lối xét xử tội
hiếp dâm trẻ em và các tội phạm khác xâm phạm về mặt tình dục.
Dưới sự hướng dẫn của văn bản trên, các cơ quan áp dụng pháp luật
có thể căn cứ để xử lý đúng người, đúng tội đối với những người phạm tội
xâm phạm tình dục trẻ em cụ thể:
- Bản tổng kết này đề cập một cách toàn diện đến 4 hình thức phạm

tội: hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em), cưỡng dâm (trong đó có cưỡng

22


dâm trẻ em), giao cấu với người dưới 16 tuổi, và dâm ô (trong đó có dâm ô
với trẻ em). Như vậy, hiếp dâm trẻ em được ghi nhận là thuộc nhóm tội xâm
phạm tình dục trẻ em và là một hình thức phạm tội hiếp dâm.
- Các đặc điểm riêng của hành vi hiếp dâm trẻ em cũng được nhấn
mạnh ngay trong phần khái niệm của tội hiếp dâm.
- Bản tổng kết cũng đưa ra hướng dẫn về cách định tội danh, phân biệt
hiếp dâm trẻ em với trường hợp giao cấu với người dưới 16 tuổi. Cụ thể là:
Các hành vi giao cấu với các em dưới 13 tuổi tròn nói
chung, không kể các em có sự thỏa thuận hay không thỏa thuận đề
phải coi là hiếp dâm vì trí óc non nớt của các em, phải coi các em ở
trong tình trạng không thể tự vệ và biểu lộ ý chí đúng đắn. Riêng
đối với các em từ 13 tuổi tròn đến 14 tuổi tròn, trong một số trường
hợp cá biệt, có em đã dậy thì, thì có thể thực sự thuận tình giao cấu.
Cho nên, khi có sự thuận tình giao cấu với các em đó, cần căn cứ
vào mọi tình tiết của vụ án (như tính tình, thân hình, thái độ các em)
để nhận định xem có tội hiếp dâm trẻ em hay là tội giao cấu với
người dưới 16 tuổi… [40].
- Bản tổng kết 329-HS2 chỉ ra đường lối xử lý đối với hành vi xâm
phạm tình dục trẻ em nói chung cũng như hành vi hiếp dâm trẻ em nói riêng
là theo hướng xử nặng. Bản tổng kết chỉ rõ những trường hợp cần xử nặng,
những trường hợp cần xử nhẹ hơn so với trường hợp bình thường. Cụ thể: xử
nặng đối với những hành vi hiếp dâm người dưới 18 tuổi, hiếp dâm người thân
về trực hệ, hiếp dâm nhiều người, hiếp dâm vì động cơ đê hèn…và xử nhẹ
hơn đối với những trường hợp phạm tội chưa đạt, tác hại còn hạn chế, bị cáo
còn ít tuổi, có tình tiết về nhân thân bị can như có cống hiến, thái độ hối cải…

Trong khi chờ pháp luật có quy định đầy đủ và toàn diện hơn thì bản
tổng kết này có ý nghĩa rất lớn, nó "…tổng kết kinh nghiệm những năm qua, rút
ra và chỉ thêm một số điểm để hướng dẫn công tác xét xử một số loại tội phạm

23


về mặt tình dục được tốt hơn, đồng thời sơ bộ dùng làm cơ sở cho công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật góp phần đấu tranh ngăn ngừa tội phạm" [40].
Bản tổng kết 329-HS2 ngày 11/5/1967 này đã được sử dụng cho đến khi Bộ
luật Hình sự 1985 ra đời và có hiệu lực.
Ngoài ra, trong thời kì trước hiệu lực của Bộ luật Hình sự năm 1985,
tại miền Nam cũng ban hành một số các quy định của pháp luật hình sự trong đó
có đề cập đến hành vi hiếp dâm vị thành niên nói chung và trẻ em nói riêng.
Tiêu biểu nhất là Bộ Hình luật ngày 20/12/1972 do chính quyền Sài
Gòn ban hành. Bộ Hình luật này có nhiều điều khoản quy định việc trừng trị
các tội xâm phạm tình dục, đặc biệt là quy định về các tội xâm phạm tình dục
trẻ em. Các điều 355, 356 Bộ Hình luật quy định kẻ hiếp dâm vị thành niên
dưới 15 tuổi sẽ bị phạt khổ sai hữu hạn.
Ngay sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng thì Hội đồng Chính phủ
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng ban hành Sắc luật 03/SL ngày
15/3/1976 quy định các tội phạm và hình phạt làm cơ sở pháp lý để xử lý các
hành vi xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, tài sản công cộng, thân thể
và các quyền lợi khác của công dân…Trong đó, Điều 5 về tội xâm phạm đến
thân thể và nhân phẩm của công dân có quy định ở điểm c như sau: "…hiếp
dâm vị thành niên thì bị phạt từ từ 5 năm đến 7 năm, trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng thì phạt tù từ 20 năm, chung thân hoặc bị xử tử hình" [10]. Đây
là mức hình phạt rất nghiêm khắc đối với hành vi phạm tội hiếp dâm vị thành
niên nói chung và hiếp dâm trẻ em nói riêng.
Tiếp theo đó, để thực hiện Nghị quyết 76/CP của Hội đồng chính phủ

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 6/7/1977, Tòa án nhân dân
tối cao đã ra Chỉ thị số 54/TANDTC hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống
nhất trong cả nước trong đó nói rõ việc áp dụng Điều 5 Sắc luật 03/SL. Từ
đây, Sắc luật 03/SL được sử dụng cho đến khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra
đời và có hiệu lực.

24


Như vậy:
- Về mặt hình thức: Nhìn chung, pháp luật trong giai đoạn này còn
thiếu nhiều, chủ yếu xét xử theo án lệ thông qua công tác tổng kết và hướng
dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Nói cách khác, trước khi Bộ luật Hình sự ra
đời thì quy định về tội hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em) mới chỉ có trên
văn bản dưới luật. Do đó, giá trị pháp lý của các văn bản này chưa cao, quy
định còn chưa cụ thể, rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, gặp
nhiều vướng mắc trong quá trình xét xử, làm ảnh hưởng đến chất lượng xét
xử cũng như hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm này. Mặt khác, mặc
dù trong phần nói về khái niệm của tội hiếp dâm, Bản tổng kết 329-HS2 ngày
11/5/1967 cũng đã đề cập đôi chút đến hành vi giao cấu với các em dưới 13
tuổi tròn, và từ 13 tuổi tròn đến 14 tuổi tròn nhưng tội hiếp dâm trẻ em vẫn
chưa được quy định riêng thành một tội danh độc lập, hình phạt đối với tội
hiếp dâm trẻ em cũng không quy định thành một khung cụ thể mà phải xác
định dựa vào các tình tiết quy định tại Khoản 2 phần B - quy định về hình
phạt của tội hiếp dâm.
- Về mặt nội dung: Hành vi hiếp dâm trẻ em đã được chú trọng về tính
chất, mức độ nguy hiểm và đường lối xử lý so với các tội phạm khác cũng
như so với hành vi hiếp dâm các đối tượng khác. Bản tổng kết 329-HS2 có
đoạn: "…trong tình hình chiến sự hiện nay…loại tội phạm này càng nguy
hiểm nhiều cho việc bảo vệ trật tự trị an…Đặc biệt đối với hành vi hiếp dâm

trẻ em…chúng ta cần thấy tính chất vô nhân đạo của nó và coi đó là những
hành vi hết sức nguy hiểm trong chế độ chúng ta…" [40]. Hoặc như trong
thông báo về Hội nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 25/3/1963 bàn về
phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 1963 của ngành tòa án nhân dân, điểm
3 có nói: "Đấu tranh chống tệ nạn xã hội đặc biệt phải nghiêm trị tội giết
người, tội hiếp dâm trẻ em".
Với những đặc điểm về hình thức và nội dung như trên thì một nhu
cầu được đặt ra là phải có một văn bản tổng hợp toàn diện, thống nhất các văn

25


×