Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận: Quyền nhân thân của cá nhân và phương thức bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.33 KB, 17 trang )

Câu 6: Quyền nhân thân của cá nhân và phương thức bảo vệ quyền nhân
thân của cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2005.

MỤC LỤC

I.

Lời nói đầu
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, vấn đề về
quyền nhân thân được chú trọng bảo vệ. Các quyền về cá nhân được bảo vệ và
cụ thể trong Bộ luật Dân sự. Trong các quyền được nêu trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam thì quyền nhân thân là một trong những quyền rất quan trọng. Nhà
nước ban hành và quy định quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự là khẳng định
của Nhà nước đối với giá trị của quyền nhân thân. Tuy nhiên, xã hội ngày càng
phát triển, hội nhập quốc tế ngày một mở rộng, nhu cầu, đòi hỏi của con người
đối với xã hội cũng tăng dần, kéo theo đó là rất nhiều vấn đề mới phát sinh, đặc
biệt là quyền nhân thân của cá nhân lại dễ dàng bị xâm hại. Hiện nay, các quyền
nhân thân của cá nhân bị xâm phạm và không được bảo vệ không ngừng gia
tăng. Chính vì thế, việc cá nhân nhận biết được những giá trị nhân thân, đồng
thời tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân là vô cùng quan trọng.

II.

Nội dung
1. Cơ sở pháp lý
a. Hiến pháp
Ngay trong ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, thay mặt Chính phủ lâm thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa. Thông qua bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thừa nhận quyền con người, tư tưởng nhân quyền, dân quyền mà Bác
1




đã học hỏi trong những năm ra đi tìm đường cứu nước. Tư tưởng ấy được cho là
tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong lịch sử lập hiến, lập pháp.
Bản Hiến pháp năm 1946, một trong ba nguyên tắc cơ bản là quyền tự do
dân chủ của công dân. Những người dân bị một đất nước bị xâm lược, bị đô hộ,
đóng chiếm đã thực sự trở thành chủ của một đất nước tự do, dân chủ. Những
quyền nhân thân của cá nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong bản Hiến pháp:
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do xuất bản, quyền tự do tổ chức và hội họp,
quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và
quyền bất khả xâm phạm về thư tín.
Bản Hiến pháp năm 1959 ra đời khi đất nước có nhiều đổi mới. Bên cạnh
kế thừa các điều về quyền nhân thân trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã
chỉ ra các điểm mới như: điều 25: “ Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước
bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền
đó”. Và điều 28: “ Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật. Công dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do cư trú và đi lại”. Hiến pháp năm 1959
không phân biệt “ đi lại” trong nước hay nuowsv ngoài mà chỉ nói chung chung.
Nhà nước thống nhất, đất nước đi lên xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa,
Hiến pháp năm 1980 ra đời. Quyền nhân thân của cá nhân được bổ sung và phát
triển. Điều 70 Hiến pháp 1980: “ Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Điều 72 Hiến pháp 1980: “ Quyền
lợi của tác giả và người sáng chế, phát minh được đảm bảo”.
Tiếp theo là Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001; bên cạnh việc kế thừa
quyền nhân thân của Hiến pháp năm 1980, bản Hiến pháp này còn bổ sung
thêm: điều 57: “ Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật”. Điều 60: “ Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh,

sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn
học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ

2


quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp”. Và điều 61: “ Công dân có quyền
được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe”.
Và cuối cùng là bản Hiến pháp năm 2013, quyền nhân thân của cá nhân đã
được khẳng định tại điều 14: “ 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
b. Bộ luật Dân sự
Có thể cho rằng, Bộ luật Dân sự là văn bản pháp lý quy định một cách có
hệ thống về quyền nhân thân của cá nhân. Trong Bộ luật Dân sự 2005, vấn đề
quyền nhân thân của cá nhân được quy định một cách rõ ràng, dễ hiểu.
Bộ luật Dân sự năm 2005 được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 7 thông qua
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong
lịch sử pháp luật dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 dành riêng mục 2 của chương III

a.

để nói về quyền nhân thân ( điều 24 đến điều 51).
2. Quyền nhân thân của cá nhân
Khái niệm
Quyền nhân thân thuộc mục 2 chương III của Bộ luật dân sự 2005 ( BLDS
2005). Theo điều 24 BLDS 2005 về quyền nhân thân: “ Quyền nhân thân được
quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Trước
hết, “ quyền dân sự” là quyền của công dân trong lĩnh vực dân sự. Các chủ thể

có năng lực pháp luật khác nhau thì có các quyền dân sự khác nhau. Quyền dân
sự có thể hiểu là cách xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể nhất định được
hưởng, như: chủ thể thực hiện những hành vi nhất định để thỏa mãn quyền do
pháp luật quy định; chủ thể không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm;
chủ thể có quyền yêu cầu chủ thể khác tôn trọng quyền của mình, yêu cầu chủ
thể khác dừng hành vi làm ảnh hưởng đến lợi ích của mình.

b.

Đặc điểm
Ngoài những đặc điểm của quyền dân sự, quyền nhân thân còn tồn tại
những đặc điểm khác, như: quyền nhân thân chỉ gắn với con người; mọi cá nhân
3


đều có sự bìsnh đẳng về quyền nhân thân; quyền nhân thân không thể bị chuyển
giao, quyền nhân thân có đặc điểm là phi tài sản và không mất đi theo thời gian.
Đối với mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân, tức là mọi
người sinh ra đều có quyền nhân thân, không phân biệt già, trẻ, trai gái, tôn giáo,
dân tộc.
Luật Dân sự điều chỉnh hai đối tượng chính là quan hệ tài sản và quan hệ
nhân thân ( theo Điều 1 BLDS 2005). Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản,
chỉ tồn tại quyền nhân thân gắn với tài sản hay quyền nhân thân không gắn với
tài sản. Vì không phải là tài sản nên quyền nhân thân của cá nhân không được
định bằng tiền. Chính vì thế, quyền nhân thân của cá nhân mang đặc điểm là phi
tài sản.
Quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân nên không có hiện tượng cá
nhân này chuyển giao quyền nhân thân cho cá nhân khác. Có thể hiểu là quyền
nhân thân của cá nhân không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự, tặng
cho,.... Ví dụ: anh A không thể đổi họ tên mình cho anh B được. Tuy nhiên,

trong một số trường hợp, quyền nhân thân của cá nhân có thể được chuyển giao
như trong các bản hợp đồng của những người nổi tiếng khi ký hợp đồng sử dụng
hình ảnh trong mục đích thương mại thì quyền cá nhân về hình ảnh có thể được
chuyển giao.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, quyền nhân thân bao gồm:
-

Điều 26: Quyền đối với tên, họ;
Điều 27: Quyền thay đổi tên họ;
Điều 28: Quyền xác định dân tộc;
Điều 29: Quyền được khai sinh;
Điều 30: Quyền được khai tử;
Điều 31: Quyền của cá nhân đối với hình ảnh;
Điều 32: Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể;
Điều 33: Quyền hiến bộ phận cơ thể;
Điều 34: Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết;
Điều 35: Quyền nhận bộ phận cơ thể người;
Điều 36: Quyền xác định lại giới tính;
4


-

Điều 37: Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín;
Điều 38: Quyền bí mật đời tư;
Điều 39: Quyền kết hôn;
Điều 40: Quyền bình đẳng của vợ chồng;
Điều 41: Quyền được hưởng chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình;
Điều 42: Quyền ly hôn;
Điều 43: Quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con;

Điều 44: Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi;
Điều 45: Quyền đối với quốc tịch;
Điều 46: Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
Điều 47: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
Điều 48: Quyền tự do đi lại, tự do cư trú;
Điều 49: Quyền lao động;
Điều 50: Quyền tự do kinh doanh;
Điều 51: Quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
c. Phân loại
Căn cứ vào một số dấu hiệu, có thể phân loại quyền nhân thân như sau:
Một là, dựa vào căn cứ phát sinh, có thể hiểu là quyền nhân thân không gắn
với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Quyền nhân thân không gắn với
tài sản được công nhận đối với cá nhân mà không cần đi kèm với một điều kiện
nào, không phụ thuộc vào hoàn cảnh, xuất thân hay kinh tế của cá nhân đó. Còn
đối với quyền cá nhân gắn với tài sản chỉ được xác lập cùng với sự hình thành
của một số thứ, như: tác phẩm nghệ thuật, công tình khoa học. Các tài sản này là
do trực tiếp cá nhân đó sáng tạo ra và có thể đã công bố, đăng kí bản quyền.
Hai là, dựa vào cá nhân mang quyền, có thể hiểu là nhóm các quyền nhân
thân của cá nhân và nhóm các quyền nhân thân của các cá nhân khác. Các quyền
nhân thân của cá nhân bao gồm từ điều 26 đến điều 51 theo quy định của BLDS
2005.
Ba là, dựa vào đối tượng hướng đến, có thể chia làm năm nhóm:

-

Nhóm các quyền cá biệt hóa chủ thể: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ
tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình
ảnh; quyền xác định lại giới tính và quyền đối với quốc tịch.
5



-

Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân: quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được hiến bộ phận cơ thể; quyền

-

nhận bộ phận cơ thể người.
Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của cá nhân: quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền

-

lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân: quyền
kết hôn; quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các
thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhân, không nhận cha, mẹ, con;

-

quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi.
Nhóm các quyền đối với đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền tự do nghiên
cứu, sáng tạo.
Bốn là, dựa vào thời gian bảo hộ, có thể hiểu là quyền nhân thân được bảo
hộ vô thời hạn và quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn. Quyền nhân thân
được bảo hộ có thời hạn, như: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh;
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư;.... Quyền
nhân thân được bảo hộ có thời hạn, như: quyền thay đổi họ tên; quyền xác định

dân tộc; quyền được khia sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an toàn về tính

-

mạng, sức khỏe, thân thể; quyền xác định lại giới tính;....
Năm là, dựa vào đặc điểm hành vi xâm phạm, có thể hiểu là:
Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào chính cá nhân đó: quyền
được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe; quyền hiến bộ phận cơ thể;
quyền nhân bộ phận cơ thể người, quyền xác định lại giới tính; quyền thay đổi
họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền kết hôn;

-

quyền ly hôn;....
Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào cá nhân khác: quyền được

-

bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đối với họ tên.
Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm vào vật liên quan đến quyền: quyền bất

-

khả xâm phạm về chỗ ở; quyền đối với hình ảnh; quyền đối với quốc tịch.
Sáu là, dựa vào phương thức bảo vệ, có thể hiểu là:
Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu: quyền đối với họ tên; quyền xác
định lại dân tộc; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hôn; quyền ly hôn;....
6



-

Nhóm các quyền được bảo vệ khi không có yêu cầu: quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.

d.

Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân
Con người là một thực thể sinh học – xã hội, vừa là sản phẩm của tự nhiên,
vừa là sản phẩm của xã hội. Chính vì thế, con người được hưởng những quyền
lợi do bản chất đó đem lại: “ Quyền con người là những đặc lợi vốn có của tự
nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội nhất định”. ( Theo gov.vn)
Khác với các quyền dân sự khác chỉ liên quan đến một khía cạnh của cuộc
sống, quyền nhân thân phần lớn là liên quan đến cuộc sống của cá nhân, đặc biệt
là cuộc sống tinh thần. Hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân dù có bị pháp
luật xử lí, đền bù vật chất hay tinh thần thì đều ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
của cá nhân bị xâm phạm, hành vi xâm phạm quyền cá nhân về hình ảnh, như:
đăng video, đăng ảnh kèm theo các lời bình luận làm cho cá nhân bị chịu sức ép
từ phía dư luận; đỉnh điểm là khi các cá nhân đó tìm đến giải pháp cuối cùng là
cái chết, như: “ nữ sinh 15 tuổi ngụ tại Đồng nai đã uống thuốc diệt cỏ khi bị
bạn trai đăng video quay cảnh quan hệ tình dục lên trên trang mạng xã hội”
vov.vn)

( Theo

. Chính vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có ý nghĩa vô cùng

quan trọng.

Trước hết, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có tác dụng kịp thời ngăn
chặn các hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự
pháp lí xã hội và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền
nhân thân của cá nhân. Mặt khác, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân tạo điều
kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện, đảm bảo đời
sống tinh thần của cá nhân. Đồng thời, khi cá nhân cảm nhận được sự an toàn thì
tinh thần thoải mái, hăng say lao động sáng tạo, tin tưởng vào pháp luật, cơ
quan, bộ máy Nhà nước rồi từ đó cồng hiến hết mình, tận tâm, tận lực.
7


3.

Phương thức bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân
Từ sự quan trọng trong vấn đề bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân nên
việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, việc
bảo vệ này không phải cứ thực hiện một cách tùy tiện, theo ý thức của bản thân
để rồi vừa không bảo vệ được quyền nhân thân của cá nhân này mà đã xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khác. Vì vậy, pháp luật đã có
những quy định về phương pháp, cách thức bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân.
Theo điều 25 BLDS 2005 về bảo vệ quyền nhân thân: “ Khi quyền nhân
thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền: 1. Tự mình cải chính; 2.
Yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; 3. Yêu cầu người
vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi
thường thiệt hại”.
Thứ nhất, tự mình cải chính: trong trường hợp người có hành vi trái pháp
luật đưa ra những thông tin làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
cá nhân thì tự mình cải chính là biện pháp cho phép cá nhân có quyền nhân thân
bị xâm phạm có thời gian bảo vệ quyền nhân thân của mình, có thể đính chính

lại những thông tin sai lệch, không đúng với thực tế, hạn chế hậu quả về vật chất
và tinh thần có thể xảy ra.
Thứ hai, yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai: trong các
cơ quan Nhà nước thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền cao nhất; tuy nhiên, bảo
vệ quyền nhân thân thông qua yêu cầu của Tòa án cần rất nhiều thủ tục, quy
trình, trình tự, đòi hỏi cá nhân bị xâm phạm phải đưa ra bằng chứng chứng minh
quyền nhân thân của mình bị xâm phạm. Đây là biện pháp bảo vệ được cho là có
hiệu quả nhất khi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sử dụng các biện pháp
phù hợp buộc người đang có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi đó.

8


Thứ ba, yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại là biện pháp được sử dụng khi
người xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân khác mà làm thiệt hại về vật chất
và tinh thần cho họ. Nếu bản thân người vi phạm không bồi thường thì cá nhân
bị xâm phạm về quyền nhân thân có quyền yêu cầu Tòa án hay các cơ quan có
thẩm quyền buộc người vi phạm phải bồi thường.
Tóm lại, theo quy định của pháp luật dân sự thì mỗi cá nhân có quyền nhân
thân bị xâm phạm thì đều có thể sử dụng các biện pháp trên để bảo vệ chính bản
thân mình và những người xung quanh. Áp dụng một, hai hay tất cả là phụ thuộc
vào mỗi cá nhân, mỗi trường hợp, hoàn cảnh cụ thể. Nhưng không vì thế mà lựa
chọn bừa, lựa chọn hết một cách tùy ý, ngẫu nhiên; lựa chọn biện pháp phù hợp
nhất vẫn là mang lại hiệu quả cao nhất.
Mặc dù quyền nhân thân đã được tôn trọng và bảo vệ, nhưng những hành
vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân vẫn diễn ra dưới nhiều
hình thức, cách thức với các mức độ khác nhau. Để bảo vệ quyền nhân thân của
cá nhân một cách có hiệu quả, cá nhân không chỉ áp dụng các phương pháp như

trên mà có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ khác theo luật Hình sự.
4.

Thực tiễn áp dụng quyền nhân thân của cá nhân
Theo điều 31 Bộ luật Dân sự ( BLDS) 2005 về quyền của cá nhân đối với
hình ảnh: “ 1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. 2. Việc sử dụng
hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã
chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ,
vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người địa diện của người đó đồng ý, trừ
trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy
định khác. 3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”.
Đối với khái niệm “ hình ảnh”, căn cứ vào điều 31 BLDS 2005 thì có thể
hiểu “ hình ảnh” của cá nhân là bao gồm mọi hình thức nghệ thuật ghi lại hình
dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra có thể bao
9


gồm bức tượng của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh cá nhân do ghi hình ( quay
video). Hình ảnh của cá nhân là thuộc về lĩnh vực riêng tư của mỗi người, đó có
thể là bức ảnh chụp chung với gia đình trong buổi họp mặt, bức ảnh “ tự sướng”
cùng bạn bè... Tuy nhiên, khi một ai muốn sử dụng những hình ảnh đó, nhất là
sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh, thương mại thì phải hỏi và có sự
đồng ý của “ người chủ” của hình ảnh đó. Bởi vì về nguyên tắc, mọi cá nhân đều
có quyền đối với hình ảnh của mình và có quyền cho hay không cho người khác
sử dụng hình ảnh của mình.
Quyền của cá nhân về hình ảnh có thể là quyền của cá nhân đối với diện
mạo bên ngoài của mình như hình dáng, khuôn mặt, cử chỉ, điệu bộ... Ngay cả
hình ảnh chụp một người từ phía sau vẫn có thể là quyền của cá nhân đối với
hình ảnh nếu thông qua các dấu hiệu mà vẫn nhận ra người đó. Hoặc như, quyền

của cá nhân đối với hình ảnh có thể được tạo bởi sự công nhận của công chúng
và gắn liền với hình ảnh của cá nhân.
Có thể thấy, các yếu tố của hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với
-

hình ảnh theo điều 31 BLDS 2005 đó là:
Sử dụng hình ảnh cá nhân mà không được sự đồng ý của người đó.
Sử dụng hình ảnh của cá nhân trong trường hợp cá nhân đó chết hoặc mất năng
lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi mà không có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ,

-

-

chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó.
Sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người đó.
Sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm bí mật đời tư của người đó.
Nếu xét trong một số trường hợp thì hình ảnh của cá nhân cũng là một yếu
tố gắn liền với danh dự, nhân phẩm, uy tín và bí mật đời tư của cá nhân. Hình
ảnh của mỗi cá nhân cũng được coi là một trong những yếu tố để nhận diện, xác
định danh dự, nhân phẩm, uy tín của mỗi người. Sự liên hệ đó thể hiện ở chỗ:
hình ảnh của cá nhân có thể làm tăng giá trị của cá nhân đó nhưng cũng có thể
làm giảm sút, ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân đó.
Có thể nói hình ảnh phản ánh khá chân thực đời sống của mỗi con người.
Tuy nhiên, nếu đi kèm với những hình ảnh ấy là những dòng chữ mang tính chất
10


“ giật gân” với lời lẽ không đúng mực thì sẽ làm ảnh hưởng xấu tới danh dự,

nhân phẩm, uy tín của cá nhân đó. Ví dụ về một nữ sinh Đà Nẵng đã tìm đến cái
chết bằng thuốc ngủ sau khi ảnh trên facebook của mình bị gắn với “ cái mác”:
dựng chuyện, chảnh chọe, kênh kiệu với bạn bè. Thật may mắn khi nữ sinh đó
được gia đình cứu sống kịp thời. Theo khoản 3 điều 31 BLDS 2005: “ Nghiêm
cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người có hình ảnh”. Khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm sẽ
gây ra hậu quả nghiêm trọng, không chỉ là giá trị vật chất, tinh thần mà còn tính
đến những người có liên quan đến chủ nhân của hình ảnh đó. Việc sử dụng hình
ảnh của cá nhân dù hợp pháp, có sự đồng ý của cá nhân nhưng nếu xâm phạm
tới danh dự, nhân phẩm, uy tín thì cũng có thể coi là vi phạm pháp luật.
Đối với một số trường hợp hình ảnh của cá nhân là hình ảnh riêng tư, nếu
bị xâm phạm thì sẽ liên quan đến bí mật đời tư của chủ thể đó hoặc là những
hình ảnh của cá nhân được giấu kín và được phát luật bảo vệ hay như cá nhân
không muốn tiết lộ, công khai hình ảnh mà khi bị xâm phạm nó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của cá nhân đó. Trên thực tế hiện nay có nhiều hành vi sử
dụng hình ảnh của cá nhân đã xâm phạm đến bí mật đời tư, như: hành vi quay
phim, chụp ảnh, công bố những hình ảnh, video về đời sống riêng tư của một
người mà chưa được sự đồng ý của người được quay phim, chụp ảnh hay hành
vi công bố những hình ảnh trong quá khứ về một mối quan hệ mà cá nhân có
hình ảnh đó muốn giữ kín, không muốn công khai thì đó là hành vi xâm phạm
quyền bí mật đời tư: ngày 18 tháng 11 năm 2014, trang chuyên đề Thể thao của
báo Thanh niên điện tử ( thethao.thanhnien.com.vn) đăng tải bài viết “ Phòng tư
pháp huyện Đô Lương đã kiểm tra hồ sơ của Công Phượng” của tác giả Khánh
Hoan với hình chụp Công Phượng cùng với giấy khai sinh của anh. Trong nhiều
bài viết, phóng sự khác cũng khai thác đề tài tương tự, đặc biệt là chương trình
Chuyển động 24h của Đài Truyền hình Việt Nam ( VTV), các thông tin cá nhân
khác của Công Phượng cũng bị khai thác một cách triệt để bất chấp một thực tế
là quyền riêng tư của cầu thủ này đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng.
Bản thân cơ quan tư pháp địa phương ở huyện Đô Lương ( Nghệ An) cũng vi
11



phạm quyền bí mật đời tư khi tự ý đăng ảnh giấy khai sinh của cầu thủ Nguyễn
Công Phượng cho giới báo chí.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân mà không có sự đồng ý của cá nhân là
vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, điều này cũng bị giới hạn trong một số trường
hợp:
Thứ nhất, về giới hạn quyền cá nhân đối với hình ảnh trong mối quan hệ
với quyền được thông tin.
Theo điều 25 Hiến pháp 2013 có quy định: “ Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định”. “ Trong hoạt động báo chí, quyền tự
do hoạt động báo chí cũng rất dễ xung đột của cá nhân đối với quyền của cá
nhân đối với hình ảnh. Hai quyền này có giá trị ngang nhau, tuy nhiên, quyền
của cá nhân đối với hình ảnh bị hạn chế bởi quyền tự do hoạt động báo chí. Theo
khoản 3 điều 5 nghị định 51/2002/NĐ – CP ngày 26/04/2002 của Chính Phủ quy
định báo chí: “ Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích
rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó ( trừ ảnh thông
tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ
thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai
của Tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án). Để đảm
bảo được quyền thông tin trong lĩnh vực báo chí, quyền hình ảnh chủa cá nhân
bị giới hạn nhưng sự giới hạn này là nhằm tôn trọng quyền được biết thông tin
của người dân trong sự cân đối với quyền bí mật đời tư của cá nhân, và chỉ trong
một chừng mực nhất định phục vụ cho lợi ích hợp pháp của toàn thể cộng đồng,
còn nhất thiết là phải bảo vệ chặt chẽ quyền đối với hình ảnh của cá nhân”.
dhluathn.com)

( Theo


. Ví dụ, khi đăng ảnh tội phạm đang bị truy nã trên trang báo thì hành

động này không phải là xâm phạm quyền cá nhân về hình ảnh mà hành động này
được pháp luật cho phép, các cơ quan có thẩm quyền muốn thông báo cho mọi
người biết đây là tội phạm nguy hiểm, để mọi người tự bảo vệ bản thân, thông
báo với cơ quan chức năng về tội phạm.

12


Thứ hai, về giới hạn của cá nhân đối với hình ảnh trong trường hợp xung
đột với quyền lợi chung, quyền của bên thứ ba, hoặc trong trường hợp cá nhân
từ bỏ quyền đối với hình ảnh của mình.
Đối với trường hợp xung đột với quyền lợi chung: có thể hiểu trong trường
hợp này, hình ảnh được sử dụng không chỉ có hình ảnh của cá nhân mà còn là
bức hình chụp cảnh, sự kiện. Nếu như bức hình lấy hình ảnh cá nhân làm trọng
tâm thì vấn đề xâm phạm quyền cá nhân về hình ảnh sẽ được đưa ra tranh cãi,
nhưng nếu bức hình lấy cảnh, sự kiện làm mục đích chính thì đó lại là một khía
cạnh khác.
Đối với trường hợp xung đột với người thứ ba: theo khoản 1 điều 31 BLDS
2005: “ 1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình”, ở đây có thể hiểu là cá
nhân được phép định đoạt những gì mình muốn đối với hình ảnh của mình. Đối
với những bức hình chụp nhiều người, như: ảnh chụp với bạn bè, người thân
trong gia đình hay chăng là chụp ảnh với người nổi tiếng,... nếu bạn muốn sử
dụng những hình ảnh này thì cũng phải được sự đồng ý của tất cả những ai có
mặt trong bức ảnh. Tuy nhiên, một khi đã đồng ý chụp ảnh với nhau thì chúng ta
“ hiểu ngầm” là đối phương có quyền sử dụng hình ảnh.
Đối với trường hợp cá nhân từ bỏ quyền đối với hình ảnh của mình: tức là
một khi cá nhân đã từ bỏ quyền đối với hình ảnh của mình thì hình ảnh đó được
coi là “ vô chủ”, vì vậy, khi một người khác sử dụng hình ảnh đó thì không bị

-

coi là xâm phạm quyền cá nhân về hình ảnh.
Một số vụ việc về xâm phạm quyền cá nhân về hình ảnh:

Tháng 01 năm 2003, cô Phan Thị Như Quỳnh gửi đơn khiếu nại Tổng
cục Du lịch Việt Nam và tác giả Vũ Quốc Khánh vì sử dụng bức ảnh “
Nụ cười Việt Nam” có ảnh của cô mà không xin phép. Bức ảnh này
được nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Quốc Khánh chụp năm 1994, đến năm 2000
được Tổng cục Du lịch Việt Nam chọn làm biểu tượng “ Việt Nam!


Điểm đến của thiên niên kỉ mới!”.
Đầu năm 2004, gia đình bé Minh Khôi kiện công ty Biti’s, đòi bồi
thường thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh
Khôi in trên bìa lịch, tập quảng cáo. Tháng 09 năm 2004, TAND quận 6
( TP. HCM) buộc Biti’s phải xin lỗi công khai gia đình bé Minh Khôi,
13


chấm dứt vô điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé Khôi và


bồi thường gần ba triệu đồng.
Tháng 10 năm 2007, người mẫu Nguyễn Kim Tiên đã khởi kiện công ty
Organon, đòi công ty này bồi thường 20.000 USD và xin lỗi trên ba tờ
báo vì đã sử dụng hình ảnh của cô để quảng cáo thuốc tránh thai mà
chưa có sự đồng ý của Kim Tiên.

Lúc này, hành vi xâm phạm hình ảnh của cá nhân không còn trong phạm vi

dân sự nữa mà đã có thể chuyển sang phạm vi hình sự bởi tội danh làm nhục
người khác, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy. Theo điều 121 BLHS quy định về
tội làm nhục người khác: “ 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm,
danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai
năm hoặc phạt tù từ ba thàng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm: a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Đối với người thi
hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho
mình. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” Theo điều 253 BLHS
quy định về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy: “ 1. Người nào làm ra, sao
chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh,
ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có tính chất đồi trụy, cũng như có
hành vi khác truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Vật phạm
pháp có số lượng lớn; b) Phổ biến cho nhiều người; c) Đã bị xử phạt hành chính
về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp có số lượng lớn; c) Đối
với người chưa thành niên; d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Tái phạm nghiêm
trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm: a) Vật phạm pháp có số lượng lớn đặc biệt lớn; b) Gây
14


hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 4. Người phạm tội còn có thể
bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.”
Không thể chối bỏ khi vẫn có nhiều cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm
tới hình ảnh của người khác mà vẫn chưa bị pháp luật xử lí. Điều này gây ra tâm

lí từ bỏ việc tố cáo, khiếu nại, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra,
xử lí mà phần lớn các bên chủ yếu tự hòa giải và thỏa thuận giải quyết. Cùng với
việc am hiểu pháp luật, tự chúng ta cũng có thể tự bảo vệ chính bản thân mình.
Những người xâm phạm quyền hình ảnh của người khác dù cố ý hay vô ý thì
người bị xâm phạm có quyền yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi vi
phạm. Đó không chỉ là bồi thường về tinh thần mà cả về vật chất, như: chi phí
khắc phục thiệt hại, tiền bồi thường về tổn thất tinh thần. Nếu việc xâm phạm
gây ảnh hưởng đến sức khỏe, thiệt hại tính mạng, sinh bệnh thì có thể bị phạt tối
đa 10 tháng lương tối thiểu.
III.

Bộ luật Dân sự sửa đổi, kiến nghị
Quyền nhân thân là một trong những quyền thiêng liêng của mỗi cá nhân,
con người, nhất là trong xã hội ngày càng tiến bộ thì quyền nhân thân lại càng
được cụ thể hóa và được pháp luật bảo vệ nhiều hơn. Bộ luật Dân sự 2005 đã thể
hiện quyền nhân thân một cách khá đầy đủ, rõ nét. Qua đó, đã cho thấy sự quan
tâm, chú ý của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề quyền nhân thân của cá nhân.
Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển kèm theo những diễn biến phức tạp,
chính vì thế, các quy định về quyền nhân thân cũng cần được sửa đổi, bổ sung
sao cho kịp thời, phù hợp với thực tiễn xã hội.
Theo dự thảo bộ luật dân sự, điều 25 của BLDS, không chỉ người nhân thân
bị xâm phạm có quyền yêu cầu bảo vệ mà cả người giám hộ của những cá nhân
cũng có quyền yêu cầu bảo vệ và yêu cầu này được sử dụng khi quyền nhân thân
bị xâm phạm đã chết, bị mất tích.
Theo khoản 3 điều 32 BLDS 2005 quy định về quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khẻ, thân thể: “ 3. ...; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa
đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người trên
thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế”. Quy định này đã đáp ứng
15



nhu cầu cấp thiết trong việc cứu chữa người bệnh. Tuy nhiên, đối với tình hình
hiện nay thì cần phải xem lại “ người đứng đầu cơ sở y tế”? Họ có hẳn là những
người có trình độ chuyên môn, nắm chắc tình hình của người bệnh? Chính vì
vậy, dự thảo Bộ luật Dân sự đã bổ sung thêm vào khoản 3 của điều luật này: “”.
Phần bổ sung này đã phần nào hạn chế những sai lầm trong việc cứu chữa người
của các cơ sở y tế khi đưa ra những quyết định liên quan đến mạng sống của
người khác.
Đối với quy định về quyền xác định lại giới tính được quy định tại điều 36
BLDS 2005. Tuy nhiên, trong dự thảo Bộ luật Dân sự thì có thêm điều 37 về
quyền chuyển đổi giới tính. Việc xác định lại giới tính là rất cần thiết và là
quyền nhân thân vốn có của mỗi cá nhân “ trường hợp giới tính của người đó bị
khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y
học nhằm xác định rõ về giới tính” ( Theo Bộ luật Dân sự 2005). Còn chuyển đổi giới tính là
khi cá nhân có giới tính bình thường nhưng lại muốn thay đổi vì mục đích nào
đó. Với em thì chỉ nên dừng lại ở việc xác định lại giới tính nếu giới tính của họ
-

bị khuyết tật bẩm sinh hay chưa định hình chính xác, bởi lẽ:
Việc thay đổi giới tính trong nhiều trường hợp chỉ là vì mục đích cá nhân, đồng
thời khi thay đổi giới tính lại kéo theo rất nhiều vấn đề phức tạp như phải thay

-

đổi lại phần giới tính trong các giấy tờ liên quan.
Do điều kiện và tâm lý xã hội ở nước ta: không hề thiếu những cái nhìn tò mò,
lời bàn tán xung quanh việc nhìn thấy một người chuyển đổi giới tính. Trong gia
đình mà có người đi chuyển đổi giới tính thì sao? Cách xưng hô, tên gọi? Hơn
nữa, không phải ai cũng đủ kinh tế để duy trì sự thay đổi này từ bây giời cho đến
hết cuộc đời bởi vì người chuyển đổi giới tính phải thường xuyên tiêm các chất

nội tiết tố vào người để duy trì diện mạo mới của mình.
Đối với quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết được quy định
trong BLDS 2005 và điều 25 trong Bộ luật Dân sự sửa đổi, bổ sung. Người xưa
vẫn luôn tôn trọng sự toàn vẹn của cơ thể khi sang thế giới bên kia chính vì thế
dù người đã mất “ toàn tâm toàn ý” đồng ý hiến xác nhưng người thân của
những người này chưa chắc đã đồng ý. Những người được sự ủy quyền của
người đã mất không thể kiện ra tòa để người thân của người kia giao cơ thể của
16


người đã mất vì hành động này không phù hợp với tình cảm và đạo lý con
người. Vì vậy, việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết không những phải được
sự đồng ý của người mất mà cần phải có sự đồng ý của người thân.
IV.

Kết luận
Nước ta đây trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, vấn đề quyền nhân
thân nói riêng, quyền con người, quyền công dân nói chung được đặt lên hàng
đầu. Bảo vệ quyền nhân thân là bảo vệ một trong số các quyền cơ bản của con
người Do đó, con người cần phải được tôn trọng, quyền nhân thân của cá nhân
càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng. Bản thân chúng ta có thể quan
niệm rằng quyền nhân thân của cá nhân là vốn có của mỗi người từ khi sinh ra,
lớn lên.
Thông qua các bản Hiến pháp của từng thời kì cùng với Bộ luật Dân sự
hiện hành hay là Bộ luật Dân sự sửa đổi đã khẳng định sự quan tâm, nhận thức
đúng đắn của Đảng và Nhà nước về quyền con người hiện nay. Trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, mở rộng giao lưu giữa các nước trên thế giới thì Việt Nam
cũng phải luôn cảnh giác trước “ diễn biến hòa bình”, các thế lực chống phá
luôn cho rằng Việt Nam vi phạm quyền nhân thân của con người. Đó là lời
xuyên tạc, vu cáo cho Đảng và Nhà nước. Quyền nhân thân được quy định trong

BLDS đã chứng minh được Việt Nam luôn đảm bảo nhân quyền cho mọi người
và đặc biệt hơn là khẳng định thêm nhân quyền luôn được nhà nước ta tôn trọng
và bảo vệ.

17



×