Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.67 KB, 28 trang )

ỦY BAN DÂN TỘC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐỀ ÁN
GIẢM THIỂU TÌNH TRẠNG TẢO HÔN
VÀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG TRONG
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

Ơ

Hà Nội, tháng 12 năm 2014


MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
1. “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số
trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. “Dân tộc đa số” là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả
nước, theo điều tra dân số quốc gia.
3. “Vùng dân tộc thiểu số” là địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh
sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
4. “Dân tộc thiểu số rất ít người” là dân tộc có số dân dưới 10.000 người1.
5. Kết hôn2 là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy
định của Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
6. Kết hôn trái pháp luật3 là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết
hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
7. Tập quán về hôn nhân và gia đình4 là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng
về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi,


lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền
hoặc cộng đồng.
8. Tảo hôn5 là tình trạng lấy vợ, lấy chồng khi một bên (nam hoặc nữ) hoặc
cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật: Nam từ đủ 20 tuổi
trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên6.
9. Những người cùng dòng máu về trực hệ 7 là những người có quan hệ
huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau.
10. Những người có họ trong phạm vi ba đời8 là những người cùng một gốc
sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác
mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con
cậu, con dì là đời thứ ba.
11. Kết hôn nhân cận huyết thống là kết hôn giữa nam và nữ có cùng dòng
máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời 9. Đây là điều cấm
được pháp luật quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và 2014.
12. Người thân thích10 là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có
cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.
1

1,2,3,4: Quy định tại Khoản 2,3,4,5 Điều 4 của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2014 của Chính phủ.
Khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
3
Khoản 6 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
4
Khoản 4 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
5
Khoản 4, Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2000; Khoản 8 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
6
Khoản 1, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình 2000; Điểm a, Khoản 1, Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
7
Khoản 17 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

8
Khoản 18 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
9
Khoản 12, 13 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2000; Khoản 17 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
10
Khoản 19 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
2

2


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của Đề án

Nước ta có 53 dân tộc thiểu số với trên 12 triệu người chiếm tỷ lệ
khoảng 14,27% dân số quốc gia 11. Các dân tộc thiểu số sinh sống theo cộng
đồng tại các thôn, bản, buôn, làng, phum, sóc... thuộc 5.453 xã, 463 huyện,
56/63 tỉnh, thành phố của cả nước12.
Thực trạng thực hiện Luật hôn nhân và gia đình trong nhiều năm qua cho
thấy tình trạng kết hôn sớm (tảo hôn) và hôn nhân cận huyết thống diễn ra
khá phổ biến trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các vùng Trung
du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, Tây
Nguyên. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được thực
hiện theo phong tục, tập quán. Những hủ tục như cướp vợ, hứa hôn, cưỡng ép
hôn mang tính gả bán, tục “nối dây”, tâm lý sớm có con đàn cháu đống, có
người nối dõi, kết hôn sớm để gia đình có thêm người làm nương rẫy, quan
niệm kết hôn trong họ tộc để lưu giữ tài sản trong gia đình không mang của
cải sang họ khác... là nguyên nhân làm gia tăng tình trạng kết hôn sớm, tảo
hôn, hôn nhân cận huyết thống và chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, sự nghèo đói, thất

học, không có việc làm, nhu cầu có thêm người lao động trong gia đình, thiếu
hiểu biết pháp luật, hướng dẫn và thực thi pháp luật về Luật hôn nhân và gia
đình chưa được chú trọng đúng mức; một số nơi vai trò, trách nhiệm của cấp
ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và gia đình trong việc
thực hiện các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình... cũng là những
nguyên nhân tác động, ảnh hưởng làm gia tăng tình trạng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Kết hôn sớm làm mất đi cơ hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội cải thiện
điều kiện sống và chăm sóc sức khỏe của người trẻ tuổi, bà mẹ và trẻ em, đặc
biệt kết hôn cận huyết thống ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số,
suy giảm giống nòi và chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực
cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng dân tộc và miền núi và sự
nghiệp phát triển bền vững của đất nước.
11
12

Số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Báo cáo của Hội đồng Dân tộc Quốc hội năm 2013

3


Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, trong Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện chiến lược công tác dân tộc, Thủ tướng Chính phủ đã
giao cho Ủy ban Dân tộc xây dựng Đề án để triển khai đồng bộ các giải pháp
nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống
trong đồng bào dân tộc thiểu số.
2. Căn cứ xây dựng Đề án
a) Căn cứ pháp lý
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và năm 2014;

- Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm 2002 của Chính phủ
quy định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số;
- Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 của Chính
phủ về công tác dân tộc;

- Nghị định số 84/2012/NĐ-CP ngày 12/10/2012 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc;
- Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 12 tháng 3 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020;
- Quyết định số 2356/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân
tộc đến năm 2020;

2.2. Căn cứ thực tiễn
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống nhìn chung đã giảm trên quy mô toàn
quốc những vẫn còn cao diễn ra khá phổ biến ở khu vực miền núi, vùng cao nơi
có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
a) Về tảo hôn
Vùng miền núi phía Bắc (đặc biệt là Tây Bắc) và Tây Nguyên nơi có nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống có tỷ lệ tảo hôn cao gấp hơn 2 lần so với
vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ (miền núi phía Bắc 18,9%, Tây
Nguyên 15,8%, đồng bằng sông Hồng 7,9% và Đông Nam bộ 8,1%). Các tỉnh
Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Cạn,
Kon Tum, Gia Lai có tỷ lệ tảo hôn cao nhất trong cả nước, trong đó tỉnh Lai
Châu có tỷ lệ tảo hôn cao nhất13 có gần 1/5 dân số nam từ 15-19 tuổi (khoảng
13

Theo số liệu điều tra của Chi cục Dân số và KHHGĐ, từ năm 2004 -2011, tỉnh Lai Châu có trên 1600 người tảo
hôn, trong đó tập trung chủ yếu ở một số dân tộc Thái, Mông, Dao, Mảng, Cống, La hủ… ở các dân tộc Mảng,


4


18,65%) tuổi và 1/3 dân số nữ từ 15-18 tuổi (khoảng 33,8%) trong tỉnh đã từng
kết hôn tảo hôn. Tại tỉnh Sơn La, nhiều xã, tỷ lệ tảo hôn lên tới trên 50%, như tại
xã Lóng Luông, huyện Mộc Châu có tới 52% cặp vợ chồng kết hôn ở lứa tuổi 12
- 17 tuổi; xã Vân Hồ, tỷ lệ tảo hôn là 68%; xã có tỷ lệ tảo hôn thấp nhất là Muổi
Nọi, huyện Thuận Châu cũng ở mức 27%14.
Các dân tộc thiểu số có tỉ lệ tảo hôn cao gấp 6 lần so với dân tộc Kinh và
gấp gần 3,5 lần so với tỷ lệ chung của cả nước (tỷ lệ tương ứng là 8,4% so với
1,4% và 2,5%). Có 25/53 dân tộc thiểu số có tỷ lệ tảo hôn trên 10%, trong đó
các dân tộc Mông, Xinh Mun có tỷ lệ tảo hôn cao nhất, tới 29,1% và 27,4%. Các
dân tộc khác như Lô Lô, Mảng, La Ha, Lự, Lào, La Chí, Cơ Lao, Hà Nhì, La
Hủ, Phù Lá, Ơ Đu, Dao, Khơ Mú, Cống, Gia Rai, Xơ Đăng, Ba Na cũng có tỷ lệ
tảo hôn cao. Đáng chú ý là, một số dân tộc có dân số dưới 10.000 người như: Lô
Lô, Mảng, La Ha, Lự, Cơ Lao, La Hủ, Ơ Đu, Cống có tỷ lệ tảo hôn khá cao, từ
12-24%15.
Ở địa bàn xa xôi hẻo lánh, vùng đặc biệt khó khăn miền núi, tình trạng tảo
hôn có xu hướng gia tăng, từ 2,4% năm 2011 lên 3,1% năm 2013 đối với nam và
từ 8,4% năm 2011 lên 11,2% năm 2013 đối với nữ 16. Ở nhóm tuổi dưới 18, phụ
nữ dân tộc thiểu số có xu hướng kết hôn sớm hơn và có tỷ lệ tảo hôn cao hơn
gần 3 lần so với nam dân tộc thiểu số (nữ DTTS 15,8%, nam DTTS 5,8%); phụ
nữ sống ở khu vực nông thôn có xu hướng kết hôn sớm hơn và có tỷ lệ tảo hôn
cao gấp 2 lần so với khu vực thành thị (tỷ lệ tương ứng là 15,2% so với 6,2%
năm 2011 và 13,5% so với 6,7% năm 2013); vùng miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên có tỷ lệ phụ nữ tảo hôn cao nhất so với các vùng khác (miền núi phía
Bắc 18,8%, Tây Nguyên 15,1%);
b) Về hôn nhân cận huyết thống
Hôn nhân cận huyết thống là một vấn đề xã hội rất phức tạp và hết sức nan
giải, phổ biến là kết hôn giữa con cô với con cậu, con dì, con chú với con bác.

Theo thống kê của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), các
dân tộc Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt, Ê Đê, Chu Ru, Si La, Pu Péo, Mông, Rơ
Măm, Brâu… có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống lên đến 10%. Đặc biệt các dân
tộc như Si La (Điện Biên, Lai Châu), Lô Lô, Pu Péo (Hà Giang), Mông (Lào

Cống, La hủ chiếm khoảng 80% so với tỷ lệ tảo hôn trên địa bàn toàn tỉnh.
14
Báo cáo của Ban Dân tộc tỉnh Sơn La.
15
Số liệu tổng hợp, phân tích từ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
16
Kết quả đều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2013 do Tổng cục Thống kê thực hiện

5


Cai, Hà Giang, Yên Bái), Brâu, Rơ Măm (Kon Tum)... cứ 100 trường hợp kết
hôn thì có khoảng 10 trường hợp là hôn nhân cận huyết thống.
Tỉnh Lai Châu, từ năm 2004-2011 có trên 200 người kết hôn cận huyết
thống, tập trung ở một số dân tộc thiểu số rất ít người như: Mảng, La Hủ, Cống;
năm 2012, theo kết quả khảo sát của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình
tại 44 xã thuộc 9 huyện của tỉnh Lào Cai đã phát hiện 224 cặp hôn nhân cận
huyết thống; tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình có tới 23% dân số trong huyện
mang gen bệnh tan máu bẩm sinh (Thalassemia); tại tỉnh Kon Tum, qua khảo sát
của Chi cục Dân số, Kế hoạch hoá Gia đình năm 2012 tại 6 xã thuộc 3 huyện Sa
Thầy, Ngọc Hồi và Kon Plông đã phát hiện 56 cặp hôn nhân cận huyết
thống/tổng số 350 cặp tảo hôn (chiếm gần 1/6 số cặp tảo hôn); đặc biệt tình
trạng hôn nhân cận huyết thống diễn ra khá phổ biến giữa thanh niên dân tộc
Chứt tại bản Rào Tre (bản có 35 hộ với 137 nhân khẩu và 100% là dân tộc
Chứt), xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

c) Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống gây ra nhiều hệ lụy cho gia đình
và xã hội

Thực tiễn và khoa học đã chứng minh việc kết hôn sớm làm mất đi cơ
hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội cải thiện điều kiện sống và chăm sóc sức
khỏe của người trẻ tuổi, bà mẹ và trẻ em, đặc biệt tình trạng hôn nhân cận
huyết thống ảnh hưởng nghiêm trọng đến giống nòi, chất lượng dân số và
nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số.
- Ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh: Việc kết hôn sớm, mang
thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên khi cơ thể người mẹ chưa phát
triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết, kinh nghiệm và chưa sẵn sàng về mặt tâm
sinh lý để mang thai và sinh con đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự
phát triển bình thường của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đây là một trong nguyên
nhân làm tăng gấp 2 lần tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể thiếu
cân và thấp còi; tăng tỷ lệ tử vong ở nhóm trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi
(tỷ lệ này ở nhóm trẻ em dân tộc thiểu số cao gấp 3 lần so với nhóm trẻ em
dân tộc Kinh); tăng tỷ lệ tử vong của bà mẹ liên quan đến thai sản (ở các
huyện nghèo vùng dân tộc miền núi tỷ lệ này cao gấp 5 lần so với mức bình
quân quốc gia và gấp 4 lần ở một số nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số so với
nhóm phụ nữ dân tộc Kinh;

6


- Ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi và
chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực cản đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của vùng dân
tộc thiểu số. tảo hôn và đặc biệt là hôn nhân cận huyết thống còn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi và chất lượng nguồn
nhân lực vùng dân tộc thiểu số. Những trẻ em được sinh ra từ các cặp vợ

chồng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống có tỷ lệ mắc các bệnh dị tật bẩm
sinh, chậm phát triển, suy dinh dưỡng, tử vong sơ sinh cao hơn so với những
trẻ em bình thường khác. Những đứa trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng hôn nhân
cận huyết thống thì có tới 25% khả năng bị bệnh và 50% mang gen bệnh bệnh
tan máu bẩm sinh di truyền Thalassemia. Việt Nam được xếp vào khu vực có
nguy cơ cao với trên 5 triệu người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh, hơn
20.000 bệnh nhân cần được điều trị và mỗi năm có khoảng 2.000 trẻ sinh ra
đã bị bệnh. Ở nước ta, tỷ lệ mang gen bệnh cao tập trung chủ yếu ở vùng khó
khăn, vùng dân tộc thiểu số, vùng có tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống
cao. Thalassemia, hiện tại chưa có phương pháp điều trị khỏi bệnh, người
bệnh cần phải điều trị suốt cả cuộc đời với chi phí rất tốn kém, khoảng tối
thiểu 3 tỷ đồng cho một bệnh nhân nặng được điều trị đến 30 tuổi và nó trở
thành gánh nặng cho gia đình và xã hội, để lại những hậu quả rất nặng nề cho
thế hệ tương lai.
- Rơi vào vòng luẩn quẩn: Đói nghèo - thất học - tảo hôn, kết hôn cận
huyết. Thực tế cho thấy, các tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao, đồng thời tình trạng
tảo hôn, hôn nhân cận huyết cũng gia tăng; tảo hôn và hôn nhân cận huyết
thống vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nghèo đói, thất học và suy
giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoàn thành các mục
tiêu thiên niên kỷ và thực hiện công bằng trong phát triển và tiến bộ xã hội
của đất nước nói chung, giữa miền núi và miền xuôi nói riêng.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, việc xây dựng và triển khai thực hiện
Đề án là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thiết thực nhằm ngăn ngừa, giảm
thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc
thiểu số, góp phần bảo vệ giống nòi, nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân
lực vùng dân tộc thiểu số.

7



Phần I.
KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ THỰC TRẠNG TẢO HÔN, HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG
TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
I. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ

1. Về điều kiện tự nhiên
Vùng dân tộc thiểu số và miền núi chiếm 3/4 diện tích của cả nước, có
vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, môi
trường sinh thái; là vùng có nhiều cửa ngõ thông thương với các nước láng
giềng trong khu vực, nơi đầu nguồn của những con sông lớn, có hệ thống
rừng phòng hộ đầu nguồn, và nhiều tiềm năng về đất đai, thủy điện, rừng,
khoáng sản... Đây cũng là nơi khó khăn nhất về điều kiện tự nhiên và điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các tỉnh vùng Trung du và miền núi
phía Bắc, Tây Nguyên và một phần vùng bắc Trung bộ, duyên hải miền
Trung (khu vực dãy Trường Sơn).
- Vùng Trung du và miền núi phía Bắc17 có tổng diện tích tự nhiên
khoảng 95,3 nghìn km2, dân số 11,5 triệu người. Là địa bàn trung du, miền
núi, vùng cao, biên giới, địa hình hiểm trở, chia cắt phức tạp, giao thông đi lại
khó khăn, kinh tế chậm phát triển, nhiều huyện nghèo, xã nghèo, đời sống
kinh tế- xã hội của phần lớn nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn;
- Tây Nguyên18 là khu vực cao nguyên, có tổng diện tích tự nhiên
khoảng 54,5 nghìn km2, dân số 5,6 triệu người, có 593 km đường biên giới
với hai nước bạn Lào và Capuchia. Là địa bàn có vị trí tự nhiên, khí hậu, đất
đai màu mỡ thuận lợi cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp;
- Vùng bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 19 có tổng diện tích tự
nhiên khoảng 95,8 nghìn km2, dân số gần 19,4 triệu người, được chia làm 2
tiểu vùng: bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung. Đây là vùng có điều kiện
17


Gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Điện Biên, Lai
Châu, Sơn La, Hòa Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ.
18
Gồm 05 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng
19
Gồm 6 tỉnh bắc Trung bộ (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế) và 8
tỉnh duyên hải miền Trung (Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận,
Bình Thuận).

8


khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước. Hàng năm thường xảy ra nhiều thiên
tai như bão, lũ, gió lào, hạn hán,... gây khó khăn cho sản xuất và đời sống
nhân dân;
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long (vùng Tây Nam bộ)20 với tổng diện
tích toàn vùng khoảng 40,6 nghìn km², dân số khoảng 17,5 triệu người; là
vùng có điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, sông ngòi thuận lợi cho phát triển
kinh tế nông, ngư nghiệp, chăn nuôi, chế biến thủy hải sản;
- Vùng Đông Nam Bộ21 có diện tích tự nhiên 23.605 km 2, chiếm 7,1%
diện tích cả nước; dân số khoảng 14 triệu người, chiếm 16,3% dân số cả
nước, trong đó TP. Hồ Chí Minh chiếm 51%.
2. Về kinh tế, đời sống
Những năm qua kinh tế vùng dân tộc thiểu số có tốc độ tăng trưởng kinh
tế khá: vùng miền núi phía Bắc đạt hơn 10%, miền Trung 12%, Tây Nguyên
12,5%... Cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng các ngành: dịch vụ,
thương mại, du lịch, công nghiệp… sản xuất hàng hóa bắt đầu phát triển...
Kết cấu hạ tầng kinh tễ- xã hội thay đổi rõ rệt: 98,6% xã có đường ô tô đến trụ
sở Ủy ban nhân dân xã; có 99,8% số xã và 95,5% số thôn có điện22.

Tuy nhiên, vùng dân tộc thiểu số vẫn là vùng kém phát triển. Sản xuất
nông lâm nghiệp còn mang tính tự nhiên, tự cung, tự cấp. Hạ tầng kinh tế, kỹ
thuật thiếu và yếu: còn 535/1.848 xã chưa có đường nhựa đến trung tâm;
14.093 thôn, bản chưa có đường ô tô; 204/1.848 xã chưa có điện lưới quốc
gia đến trung tâm xã và trên 8.100 thôn, bản chưa được sử dụng điện lưới
quốc gia; 304 xã đặc biệt khó khăn chưa đủ lớp học kiên cố, 15.930 thôn, bản
chưa có nhà trẻ, mẫu giáo; 758 xã chưa có nhà văn hóa 23.
Đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn: Tỷ lệ hộ nghèo và cận
nghèo vùng dân tộc cao nhất cả nước: miền núi Tây Bắc năm 2012 là:
28,55%, Đông Bắc 17,39%; Tây Nguyên 15,58%. Các xã đặc biệt khó khăn
20

Gồm 13 tỉnh: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Tp. Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long
An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long.
21
Gồm 6 tỉnh, thành phố là: TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà RịaVũng Tàu.
22
Văn kiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân
tộc và miền núi năm 2014 - 2015 và giai đoạn 2016 – 2020.
23
Văn kiện Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo các xã, thôn, bản ĐBKK vùng dân tộc và miền
núi năm 2014 - 2015 và giai đoạn 2016 – 2020.

9


có tỷ lệ hộ nghèo là 45%, cá biệt có những xã, thôn, nhóm dân tộc thiểu số tỷ
lệ nghèo trên 90%. Kết quả giảm nghèo thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo
cao. Phần lớn các dân tộc thiểu số vẫn trong tình trạng lạc hậu, có mức sống
thấp, tỷ lệ đói nghèo chiếm trên 50% tổng số hộ nghèo cả nước 24.

3. Về dân tộc, cơ cấu dân số và hình thái cư trú
Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, 53 dân tộc thiểu số
có 12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số cả nước. Các dân tộc thiểu
số cư trú xen kẽ trên địa bàn bàn rộng lớn thuộc các tỉnh miền núi, vùng cao,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và dọc theo biên giới của Việt
Nam với các nước Trung Quốc, Lào và Campuchia. Quy mô dân số các dân
tộc thiểu số không đều: có 5 dân tộc (Tày, Thái, Mường, Khmer và Mông) có
trên 1 triệu người; 3 dân tộc (Nùng, Hoa, Dao) có từ 500.000 đến dưới 1 triệu
người; 29 dân tộc có từ 10.000 đến dưới 500.000 người; 16 dân tộc (gồm: La
hủ, La ha, Pà thẻn, Lự, Ngái, Chứt, Lô lô, Mảng, Cơ lao, Bố y, Cống, Si la,
Pu péo, Rơ măm, Brâu và Ơ đu) có số dân dưới 10.000 người, đặc biệt có 5
dân tộc là Si la, Pu péo, Rơ măm, Brâu và Ơ đu có dân số rất ít người, dưới
1.000 người25.
Xét theo các vùng kinh tế-xã hội, thì Trung du và miền núi phía Bắc là
vùng có số lượng dân tộc thiểu số lớn nhất, chiếm 48,56% dân tộc thiểu số cả
nước; tiếp đến là Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 15,11%; Tây
Nguyên 14,19%; Đồng bằng sông Cửu Long 11,12%; Đông Nam bộ 8,98%;
thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng chỉ chiếm 2,04%. Trung du miền núi phía
Bắc và Tây Nguyên là 2 khu vực có tỷ lệ và số lượng các dân tộc thiểu số cao
nhất, tương ứng là 54,26% (với trên 30 dân tộc anh em chung sống 26) và
34,04% (với 47 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó có 12 dân tộc thiểu
số tại chỗ27) so với dân số của các vùng còn lại.
Hiện có 12 tỉnh, thành phố có tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm quá nửa dân
số (tỉnh Cao Bằng trên 90%; 11 tỉnh từ 50% đến dưới 90%: Hà Giang, Bắc
Kạn, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lạng Sơn, Hòa Bình, Lào Cai, Tuyên
24

Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
Số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
26

Các dân tộc: Tày, Thái, Mường, Mông, Nùng, Dao là những dân tộc có dân số đông hơn các dân tộc thiểu số
khác trong vùng, bên cạnh đó cũng có các dân tộc rất ít người như dân tộc Pu péo, Si la, La hủ,... cùng chung
sống.
27
Gồm: Gia rai, Ê đê, Ba na, Cơ ho, Xơ đăng, Mnông, Giẻ triêng, Mạ, Chu ru, Ra glai, Rơ măm, Brâu
25

10


Quang, Yên Bái, Kon Tum); 5 tỉnh có từ 30% đến dưới 50% (Gia Lai, Đắk
Nông, Đắk Lắk, Sóc Trăng và Trà Vinh); 12 tỉnh có từ 10% đến dưới 30% và
22 tỉnh có tỷ lệ dưới 10%.
4. Về văn hóa và ngôn ngữ
Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa truyền thống riêng biệt về phong tục,
tập quán, lễ hội, trang phục và thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau....Do các
dân tộc sống xen kẽ, đã tạo ra sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau cả về văn hóa
và ngôn ngữ, từ đó tạo nên sự đa dạng về văn hóa của vùng. Bên cạnh những
bản sắc giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc, từng cộng đồng
cũng tồn tại một số tập quán còn mang tính lạc hậu, trong đó có những tập
quán trong hôn nhân có ảnh hưởng, tác động không nhỏ đến đến tình trạng
tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong đồng bào dân tộc thiểu số.
II. THỰC TRẠNG TẢO HÔN VÀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT
THỐNG TRONG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
1. Thực trạng
1.1. Tảo hôn
Trong những năm gần đây, tình trạng tảo hôn nhìn chung có giảm trên quy
mô toàn quốc, nhưng vẫn diễn ra khá phổ biến ở vùng nông thôn miền núi, nơi
có đông đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống.
a) Xét theo địa bàn cư trú: Có sự khác biệt giữa khu vực nông thôn và

thành thị; giữa các vùng kinh tế-xã hội và các tỉnh, thành phố.
- Vùng Trung du miền núi phía Bắc (đặc biệt là vùng Tây Bắc) và Tây
Nguyên có tỷ lệ tảo hôn cao hơn so với các vùng khác. Ở khu vực Tây Bắc,
trong độ tuổi 10-19, cứ 10 em trai thì có 1 em có vợ, 5 em gái có 1 em có chồng.
Nhiều xã, tỷ lệ tảo hôn lên tới trên 50%, như tại xã Lóng Luông, huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La có tới 52% cặp vợ chồng kết hôn ở lứa tuổi 12 - 17 tuổi; xã
Vân Hồ, tỷ lệ tảo hôn là 68%; xã có tỷ lệ tảo hôn thấp nhất là Muổi Nọi, huyện
Thuận Châu cũng ở mức 27%. Dân tộc Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất với 33%,
dân tộc Thái 23,1%, dân tộc Mường chiếm 15,8%28.
- Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao nhất trong cả nước như: Lai Châu, Hà Giang,
Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Cạn, Kon Tum, Gia Lai
28

Báo cáo của Ban Dân tộc tỉnh Sơn La.

11


đều nằm trong các khu vực này, trong đó tỉnh Lai Châu có tỷ lệ tảo hôn cao
nhất29 có tới 18,65% số nam giới 15-19 tuổi, 33,8% số nữ 15-19 tuổi và, 21,2%
số nữ 15-17 tuổi đang hoặc đã từng có vợ/chồng, tức là có khoảng gần 1/5 dân
số nam và 1/3 dân số nữ 15-19 tuổi trong tỉnh đã từng kết hôn.
b) Xét theo giới tính và nhóm tuổi:
- Tỷ lệ tảo hôn, kết hôn sớm của cả nam giới và nữ giới ở nhóm 15-19 tuổi
đều có xu hướng gia tăng từ 2,4% và 8,4% năm 2011 lên 3,1% và 11,2% năm
201330. Phụ nữ có xu hướng kết hôn sớm hơn và ở nhóm tuổi dưới 15 và dưới 18
thì tỷ lệ tảo hôn ở nữ dân tộc thiểu số cao hơn gần 3 lần so với nam dân tộc thiểu
số (tỷ lệ tương ứng là 4,7% và 15,8% so với 1,8% và 5,8%);
- Tỷ lệ tảo hôn ở nam giới các dân tộc thiểu số cao xấp xỉ 6 lần so với nam
giới dân tộc Kinh và gấp 3 lần so với tỷ lệ chung của cả nước (tỷ lệ tương ứng

lần lượt là 18,0% so với 3,3% và 5,8%);
- Phụ nữ sống ở khu vực nông thôn có xu hướng kết hôn sớm hơn và có tỷ
lệ tảo hôn cao gấp 2 lần so với khu vực thành thị (15,2% so với 6,2% năm 2011
và 13,5% so với 6,7% năm 2013).
Có dưới 1% phụ nữ kết hôn trước 15 tuổi, tuy nhiên, tỷ lệ kết hôn sớm tăng
lên tới 12.3% ở nhóm phụ nữ từ 20-49 tuổi đã kết hôn trước 18 tuổi (tảo hôn).
Xét nhóm phụ nữ từ 15-19 tuổi: Vùng Trung du miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam bộ là các vùng có tỷ lệ đã kết hôn sớm cao nhất trong 6
vùng, lần lượt tương ứng là 18,8% - 15,1% - 16,3% năm 2011 và 18,9% -15,8%
- 14,1% năm 2014. Có 17,7% phụ nữ thuộc nhóm hộ nghèo nhất hiện đã kết hôn
so với 2,8% sống trong các hộ gia đình giàu nhất.
c) Xét theo dân tộc:
- Các dân tộc thiểu số có tỷ lệ tảo hôn chung là 8,4%, cao gấp 6 lần so với
dân tộc Kinh (1,4%) và gấp gần 3,5 lần so với tỷ lệ chung của cả nước (2,5%);
- Có 25/53 dân tộc thiểu số có tỷ lệ tảo hôn trên 10%. Dân tộc Mông, Xinh
mun có tỷ lệ tảo hôn cao nhất, tới 29,1% và 27,4%, tiếp đến là các dân tộc Lô lô
(24,0%), Mảng (23,8%), La ha (22,8%), Lự (17,9%), Lào (17,6%), La chí
(17,3%), Cơ lao (17,1%), Hà nhì (16,4%), La hủ (16,3%), Phù lá (14,5%), Ơ đu
29

Theo số liệu điều tra của Chi cục Dân số và KHHGĐ, từ năm 2004 -2011, tỉnh Lai Châu có trên 1600 người tảo
hôn, trong đó tập trung chủ yếu ở một số dân tộc Thái, Mông, Dao, Mảng, Cống, La hủ… ở các dân tộc Mảng,
Cống, La hủ chiếm khoảng 80% so với tỷ lệ tảo hôn trên địa bàn toàn tỉnh.
30
Kết quả đều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2013.

12


(14,3%), Dao (14,0%), Khơ mú (14,0%), Cống (13,9%), Gia rai (13,5%), Xơ

đăng (11,4%), Ba na (10,4%);
Dân tộc Mông, tỷ lệ kết hôn của nam giới ở nhóm tuổi dưới 15 - dưới 18 dưới 20 lần lượt là 16,7% - 28,0 - 53,3%, của nữ ở nhóm tuổi dưới 15 - dưới 18
là 18,3% - 45,4%. Một số dân tộc khác có tỷ lệ kết hôn của nam và nữ theo
nhóm tuổi tương ứng là: Xinh mun 8,5% - 21,5% - 45,2% và 17,2% - 47,1%;
Dao 4,1% - 11,5% - 30,4% và 5,4% - 22,7%; Gia rai 0,6% - 8,8% - 31,0% và
8,7% - 22,7%; Ba na 1,7% - 7,1 – 23,3% và 5,7% - 22,0%31...
- Đáng chú ý là, một số dân tộc có dân số dưới 10.000 người như: Lô lô,
Mảng, La ha, Lự, Cơ lao, La hủ, Ơ đu, Cống có tỷ lệ tảo hôn khá cao, từ 1224%32. Các dân tộc có tỷ lệ tảo hôn cao tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên33.
d) Mức sống và đặc biệt là trình độ học vấn gây ra sự khác biệt trong mức
độ phổ biến của hiện tượng kết hôn sớm. Khoảng 1/3 phụ nữ từ 20-49 tuổi
(26,9%) không có bằng cấp kết hôn trước 18 tuổi, trong khi đó đối với nhóm
phụ nữ có bằng trung học chuyên nghiệp, trung cấp nghề hoặc cao đẳng trở lên
chỉ có 1,2% kết hôn sớm34.
1.2. Hôn nhân cận huyết thống
Hiện nay, kết hôn cận huyết thống tuy đã giảm nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ
phát sinh trở lại. Hôn nhân cận huyết thống vẫn còn xảy ra ở một số dân tộc
trong vùng dân tộc thiểu số nước ta, phổ biến là kết hôn giữa con cô với con cậu,
con dì, con chú với con bác.
Theo thống kê của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế)
cho thấy, các dân tộc Lô lô, Hà nhì, Phù lá, Chứt, Ê đê, Chu ru, Si la, Pu péo,
Mông, Rơ măm, Brâu… có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống lên đến 10%, tức là
cứ 100 trường hợp kết hôn thì có 10 trường hợp hôn nhân cận huyết thống.
Hôn nhân cận huyết thống xảy ra chủ yếu ở miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên:
31

Số liệu tổng hợp, phân tích từ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009
Số liệu tổng hợp, phân tích từ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
33

Như: Lai Châu 21,6%, Điện Biên 17,9%, Sơn La 17,2%, Hà Giang 17,8%, Lào Cai 16,2%, Cao Bằng 10, 2%,
Yên Bái 8,5%, Gia Lai 12,3%, Kon Tum 10,1%.
34
Kết quả điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ (MICS4 và MICS5) do Tổng cục Thống kê thực hiện,
tỷ lệ tương ứng năm 2011 và 2014 của các vùng còn lại là: Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (8,5% và
8,6%), Đông Nam bộ (8,8% và 8,1%) và Đồng bằng sông Hồng (9,5% và 7,9%),
32

13


- Tại tỉnh Lai Châu, từ năm 2004-2011 có trên 200 người kết hôn cận huyết
thống, tập trung trong một số dân tộc rất ít người như: Mảng, La hủ, Cống. Ở
các dân tộc này, tỷ lệ kết hôn giữa những người có quan hệ họ hàng thân thích
(thường là giữa con của anh hoặc em trai với con của chị gái hoặc em gái) lên
tới 20%35;
- Tỉnh Lào Cai: Kết quả khảo sát của Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia
đình năm 2012 tại 44 xã thuộc 9 huyện của tỉnh Lào Cai đã phát hiện 224 cặp
hôn nhân cận huyết thống, trong đó có 221 cặp là con bác lấy con dì; con chị gái
lấy con em trai; cháu lấy dì; chú lấy cháu; cháu lấy cô... và có 200 cặp đã sinh ra
558 trẻ, trong đó có 51 trẻ không bình thường (bạch tạng, thiểu năng, liệt, câm,
mù lòa, lông mi trắng…) và 8 trẻ chết yểu;
- Tỉnh Cao Bằng: Theo Chi cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Cao
Bằng, hôn nhân cận huyết thống ở Cao Bằng diễn ra nhiều nhất đối với dân tộc
Dao (64%) và Mông (61%), ngay cả với dân tộc Tày cũng xảy ra tính trạng này;
- Tỉnh Hòa Bình: Tại huyện Kim Bôi - nơi có 90% dân số là người Mường,
có tới 23% dân số trong huyện mang gen bệnh tan máu bẩm sinh
(Thalassemia)36;
- Tỉnh Hà Tĩnh: Tình trạng kết hôn cận huyết thống diễn ra phổ biến, trầm
trọng giữa thanh niên dân tộc Chứt tại bản Rào Tre (100% là dân tộc Chứt với

35 hộ và 137 nhân khẩu), xã Hương Liên, huyện Hương Khê;
- Tỉnh Kon Tum: Năm 2012, qua khảo sát tại 6 xã thuộc 3 huyện Sa Thầy,
Ngọc Hồi và Kon Plông của Chi cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Kon
Tum đã phát hiện 56 cặp hôn nhân cận huyết thống/tổng số 350 cặp tảo hôn.
2. Nguyên nhân
Từ thực trạng về tình hình tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống cho thấy
có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống,
bao gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó,
nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân quan trọng nhất.
35

Báo cáo của Ban Dân tộc tỉnh và số liệu điều tra của Chi cục Dân số và KHHGĐ tỉnh Lai Châu.
Việt Nam là nước có tỷ lệ người mắc bệnh Thalassemia cao, với các thể α Thal, β Thal và HbE. Tỷ lệ mắc
bệnh cũng rất khác nhau giữa các dân tộc: ở người Ê đê và Khơme thì tỉ lệ HbE cao tới khoảng 40%; ở các dân
tộc thiểu số Mường, Thái, Tày cũng cao tới 10 - 25%, còn ở người Kinh tỉ lệ này từ 2 - 4% .
Năm 2009, Tổng cục DS&KHHGĐ phối hợp với Bệnh viện Nhi TW tiến hành khảo sát, lấy máu xét nghiệm
trong nhân dân của 3 xã Vĩnh Đồng, Đú Sáng, Nam Thượng của huyện Kim Bôi, Hòa Bình cho kết quả về tỷ lệ
mang gen bệnh Thalassemia tương ứng là 27,7% (khoảng 1.200 người), 24% và 18%.
36

14


2.1. Nguyên nhân khách quan
a) Do ảnh hưởng của những quan niệm, thành kiến, phong tục tập
quán lạc hậu
Phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số tồn tại và ăn sâu trong nhận
thức của người dân từ nhiều đời nay và ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ trong đời
sống, sinh hoạt của phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số. Đối với đồng bào
dân tộc thiểu số, việc kết hôn chủ yếu được thực hiện theo phong tục, tập quán;

việc lấy vợ, lấy chồng mà chỉ cần sự đồng ý của những người đứng đầu trong
làng hoặc của cha mẹ hai bên nam nữ và sự chứng kiến của gia đình, họ hàng,
làng xóm. Quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy; quan niệm kết hôn trong họ
tộc để lưu giữ tài sản trong gia đình không mang của cải sang họ khác hay như
tục lệ bắt vợ của người Mông ở vùng Tây Bắc, tục “nối dây” ở một số dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên, hủ tục hứa hôn, cưỡng ép hôn mang tính gả bán,..
Không chỉ vậy, xuất phát từ những khó khăn trong cuộc sống cùng với thói quen
ở vùng núi, nhà nào cũng có tâm lý muốn sớm có con đàn cháu đống, có người
nối dõi, kết hôn sớm để gia đình có thêm lao động cho gia đình, có người làm
nương rẫy. Nhà nào có con gái thì muốn gả sớm để bớt miệng ăn, nhà nào có
con trai thì muốn cưới vợ sớm để lo toan cuộc sống... đã kéo theo nhiều hệ lụy,
mà điển hình nhất là nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống và là nguyên nhân
làm gia tăng tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống và chung sống như vợ
chồng không đăng ký kết hôn trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
b) Do những bất cập, hạn chế trong các quy định của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 và các quy định pháp luật liên quan
Nhiều quy định áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đối với các
dân tộc thiểu số còn chung chung, thiếu tính khả thi và chậm được hướng dẫn thi
hành; công quản lý, thực thi pháp luật về hôn nhân và gia đình còn nhiều bất
cập. Tình trạng lơi lỏng pháp luật, thực thi pháp luật chưa kiên quyết trong quản
lý đăng ký kết hôn ở vùng miền núi dân tộc còn lỏng lẻo; các chế tài xử phạt vi
phạm trong hôn nhân chưa đủ mạnh để ngăn ngừa, răn đe tình trạng tảo hôn và
hôn nhân cận huyết trong vùng dân tộc thiểu số.
- Về tuổi kết hôn:
Thực tiễn thi hành quy định về tuổi kết hôn còn rất nhiều bất cập giữa quy
định của pháp luật và tập quán về tuổi kết hôn. Ở một số địa phương, cộng đồng,
15


người dân vẫn kết hôn theo độ tuổi trong tập quán dẫn tới tình trạng tảo hôn vẫn

còn tồn tại ở các nhóm cộng đồng này. Báo cáo tổng kết của một số địa phương
cho thấy, tỷ lệ kết hôn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống còn khá cao. Khi được tuyên truyền Luật hôn nhân và gia
đình, bà con hiểu quy định của pháp luật về tuổi kết hôn, nhưng do phong tục,
tập quán đã đi vào cuộc sống của người dân từ rất lâu đời, các gia đình thường
dựng vợ gả chồng cho con từ rất sớm (15 - 16 tuổi thậm chí từ 14 tuổi). Vì chưa
đủ tuổi theo luật định, nên việc kết hôn không được đăng ký tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, nhưng hai bên gia đình vẫn tổ chức đám cưới theo phong
tục; họ hàng hai bên, cộng đồng dân cư của cả bản vẫn mặc nhiên công nhận đó
là một cặp vợ chồng.
- Về áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình:
Khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình quy định trách nhiệm của Nhà
nước và xã hội: “Vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn
nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản
sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”, và Điều 6
của Luật quy định nguyên tắc: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những
phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những
nguyên tắc quy định tại Luật thì được tôn trọng và phát huy”. Tuy nhiên, qua
tổng kết thi hành Luật hôn nhân và gia đình cho thấy những quy định này tính
khả thi còn thấp, vì chỉ mới thể hiện được thái độ tôn trọng của nhà nước đối với
phong tục, tập quán mà chưa thực sự tạo căn cứ pháp lý rõ ràng và đầy đủ để các
cơ quan có liên quan áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân
và gia đình.
Về điều kiện để áp dụng tập quán: quy định về điều kiện áp dụng tập quán
trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là không cụ thể, rất khó có sự thống
nhất trong áp dụng. Điều kiện chung là những tập quán tốt đẹp thì được kế thừa,
phát huy, nhưng “tính chất tốt đẹp” lại là một giá trị trừu tượng, có thể được
hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Nội dung của giá trị này có thể thay đổi theo
từng giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội, phụ thuộc vào quan niệm của từng
cá nhân, gia đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội. Vì vậy, trong thực tế, rất khó xác

định tập quán nào là tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy; tập quán nào không
tốt đẹp cần được xóa bỏ. Do đó, việc đưa Luật hôn nhân và gia đình đi vào đời
16


sống xã hội còn gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các địa bàn ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đông bào dân tộc ít người.
Nhiều trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký
kết hôn, nhưng lại được cộng đồng dân cư nơi họ cư trú công nhận, bảo vệ. Khi
xảy ra tranh chấp, Tòa án căn cứ vào quy định của Luật hôn nhân và gia đình để
tuyên bố không công nhận hôn nhân của các đương sự. Tuy nhiên, đương sự, gia
đình và dòng họ hai bên lại không đồng tình với quyết định của Tòa án. Cũng có
trường hợp nam nữ khi kết hôn không vi phạm quy định của Luật về cấm kết
hôn giữa những người có họ trong phạm ba đời, nhưng theo tập quán, họ vẫn
thuộc phạm vi quan hệ họ hàng không được kết hôn, do vậy, họ đã bị gia đình,
cộng đồng không cho kết hôn hoặc không thừa nhận hôn nhân… Ngoài hai
trường hợp trên, việc tranh chấp về các lễ vật, sính lễ trong ngày cưới, kết hôn
cũng đang tiếp tục xảy ra và được giải quyết một cách không thống nhất do
thiếu quy định cụ thể áp dụng tập quán.
- Về các trường hợp cấm kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật:
Quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa
những người có họ trong phạm vi ba đời không có tính khả thi khi áp dụng tại
các vùng dân tộc thiểu số. Tình trạng kết hôn vi phạm điều cấm này vẫn còn
diễn ra vì theo tập quán của địa phương, những người cùng một “họ” là anh, em
(bao nhiêu đời cũng không lấy nhau được), còn những người khác “họ” (mặc dù
vẫn trong phạm vi ba đời) thì vẫn được lấy nhau.
Thực tế ở một số địa phương cho thấy, có nhiều trường hợp kết hôn không
phải là trường hợp kết hôn cận huyết nhưng do theo tập quán nên việc kết hôn
giữa những người có mối quan hệ họ hàng ở đời thứ 4, thứ 5 thậm chí cao hơn
đã không được gia đình, cộng đồng chấp nhận. Các dân tộc thiểu số thường có

tập tục kết hôn theo nguyên tắc "nội hôn tộc người và ngoại hôn dòng họ", nghĩa
là chỉ cho phép nam nữ kết hôn với những người trong cùng dân tộc. Những
trường hợp hôn nhân ngoại tộc không được khuyến khích, thậm chí bị cấm đoán.
Theo đó, những người trong cùng một dòng họ (họ mẹ theo chế độ mẫu hệ ở
một số dân tộc thiểu số: Gia rai, Ba na, K'ho, Chu ru...; họ cha theo chế độ phụ
hệ, như các dân tộc Mông, Mạ,...) dù xa đến mấy đời cũng không được phép có
quan hệ hôn nhân với nhau. Nếu vi phạm điều này sẽ bị coi là loạn luân và bị
luật tục xử rất nặng. Những quy định này cho đến nay hầu như vẫn được tuân
thủ chặt chẽ. Tục lệ này đã cản trở chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ và cũng
17


là một trong những hạn chế về hiệu lực của các quy định về kết hôn tại Chương
II của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi
tảo hôn, tổ chức tảo hôn; hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế
độ hôn nhân một vợ, một chồng chưa được thực hiện nghiêm túc và thiếu tính
khả thi ở vùng dân tộc thiểu số. Do trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật của
nhiều bà con người dân tộc thiểu số còn hạn chế nên việc tự nguyện tự giác chấp
hành các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình còn gặp nhiều khó
khăn. Bên cạnh đó, việc xem xét, xử lý lý hành chính đối với các trường hợp vi
phạm là người dân tộc thiểu số lại càng khó khăn và không phải dễ thực hiện đối
với những người có thẩm quyền xử lý vi phạm. Nếu xử phạt ở mức thấp nhất là
cảnh cáo thì họ cũng không chấp hành bởi tính răn đe không cao, còn nếu áp
dụng hình thức xử phạt bằng tiền có tính răn đe cao hơn thì phần lớn những
người dân đó đều là dân nghèo không có tiền để nộp phạt, và trong trường hợp
đó, khả năng thực hiện các biện pháp cưỡng chế nộp phạt của chính quyền địa
phương là điều không thể thực hiện được. Do không có hình thức chế tài nào
khác nên các cặp vợ chồng nghèo vẫn tự do kết hôn khi chưa đủ tuổi mà không
lo bị xử phạt. Cũng có không ít cặp tảo hôn sẵn sàng lên xã nộp phạt. Họ coi

việc nộp phạt là đã tuân thủ pháp luật và sau khi nộp phạt thì họ đương nhiên
được xã công nhận là vợ chồng theo pháp luật. Ngoài ra, có khi cặp vợ chồng
tảo hôn lại là người thân quen của cán bộ xã nên xã vẫn cho tổ chức cưới hỏi rồi
đợi đủ tuổi để hoàn tất thủ tục đăng ký kết hôn chứ không hề đặt ra vấn đề xử
phạt. Có nhiều trường hợp cán bộ thực thi nhiệm vụ phát hiện ra những vi phạm
của công dân nhưng vì nể nang là chỗ thân quen, người làng, người xã nên vẫn
giúp họ giải quyết các công việc không đủ điều kiện theo quy định hoặc biết
việc vi phạm nhưng cố tình làm ngơ.
c) Do tác động, ảnh hưởng của những mặt trái của cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, con người dần biến đổi để thích nghi được
với những điều kiện mới. Họ trở nên năng động, sáng tạo, linh hoạt và độc lập
hơn trong cách nghĩ cách làm. Quan điểm đời sống của họ cũng trở nên cởi mở
hơn, đơn giản hơn, không bị gò bó bởi quan niệm thành kiến đạo đức xưa. Vì
vậy, con người dễ dàng thiết lập các mối quan hệ với nhau. Một trong những hệ
lụy đó là việc chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ trở nên hết sức bình
thường và làm gia tăng tỉ lệ mang thai sớm dẫn đến tăng tỉ suất sinh con vị thành
18


niên (từ 99%0 năm 2011 lên 116%0 năm 2013 ở nhóm 15-18 tuổi của phụ nữ
dân tộc tộc thiểu số37). Đây cũng là nguyên nhân khách quan làm gia tăng tình
trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng dân tộc thiểu số.
2.2. Nguyên nhân chủ quan
a) Do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của người dân còn hạn chế
Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định về phổ cập giáo tiểu học,
nhưng đối với vùng dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn vẫn đang
gặp phải các thách thức lớn về chất lượng giáo dục và bất bình đẳng trong tiếp
cận giáo dục giữa nhóm dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, giữa nông thôn và
thành thị và giữa các vùng, miền.
Tình trạng học sinh bỏ học vẫn tái diễn38 mà nguyên nhân chính là do: Điều

kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ chưa nhận thức được tầm quan trọng của
giáo dục, nâng cao dân trí, không khuyến khích con em họ đến trường mà muốn
con cái ở nhà làm việc giúp đỡ gia đình; mặt khác, rào cản về ngôn ngữ là một
trong những yếu tố quan trọng cản trở khả năng học tập của học sinh dân tộc
thiểu số khiến họ không theo kịp học sinh khác trong lớp dẫn đến tình trạng
không thích học và bỏ học.
Tỉ lệ biết chữ ở nhóm dân tộc thiểu số từ 10 tuổi trở lên ở mức thấp và có
sự chênh lệch lớn so với nhóm dân tộc Kinh (83,8% so với 96,8% năm 2012). Ở
nhóm tuổi 15-24, chỉ có 82,3% phụ nữ dân tộc thiểu số biết đọc biết viết (tỷ lệ
chung là 96,4%), nghĩa là cứ 5 phụ nữ dân tộc thiểu số ở nhóm tuổi 15-24 thì có
1 người sống trong các hộ gia đình dân tộc thiểu số không biết đọc biết viết; một
số tỉnh có tỉ lệ biết chữ đặc biệt thấp, như: Lai Châu (69,3%), Điện Biên
(73,5%), Hà Giang (76,0%), Sơn La (77,2%)39.
Thực tế cho thấy, đối với đồng bào dân tộc thiểu số do trình độ dân trí thấp,
nhận thức và ý thức pháp luật còn nhiều hạn chế đã tác động làm gia tăng tình
trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết, nhất là đối với nhóm phụ nữ dân tộc thiểu
số.
b) Công tác tuyên truyền còn bất cập, hạn chế và hiệu quả chưa cao
37

TCTK: Kết quả điều tra đánh giá mục tiêu về trẻ em và phụ nữ (MICS4 và MICS5).
Theo kết quả điều tra quốc gia về lao động trẻ em do Bộ LĐ,TB&XH thực hiện năm 2012, có 9,6% tổng số trẻ
em trong độ tuổi 5-17 không đi học. Tỷ lệ không đi học tăng dần theo độ tuổi: 7,3% ở nhóm12-14 tuổi và 26,5%
ở nhóm 15-17 tuổi. Hai vùng có tỷ lệ trẻ em không đi học cao nhất là Tây Nguyên (12,2%) và Tây Nam bộ
(12,5%).
39
Nguồn Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo Quốc gia năm 2013 về mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ.
38

19



Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm. Sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, Chính
phủ ban hành Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp
dụng Luật đối với các dân tộc thiểu số. Các quy định của Luật và Nghị định
32/2002/NĐ-CP đã kế thừa các quy định của Luật hôn nhân và gia đình trước
đây, đồng thời ghi nhận những phong tục, tập quán tốt đẹp trong hôn nhân và
gia đình của các dân tộc thiểu số, đảm bảo việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện
quyết định, không phân biệt đối xử trong kết hôn, kết hôn không phụ thuộc vào
địa vị, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo và quốc tịch, phù hợp với nguyên tắc
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng và không phân biệt đối xử. Công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật Luật hôn nhân và gia đình nói chung, việc áp dụng Luật
hôn nhân và gia đình nói riêng đối với các dân tộc thiểu số theo quy định tại
Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ góp phần quan
trọng trong nâng cao sự hiểu biết, ý thức chấp hành pháp Luật hôn nhân và gia
đình của các cơ quan, tổ chức và nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tuyên tuyền, phổ
biến pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở vùng dân tộc thiểu số còn
gặp nhiều khó khăn, trở ngại và hiệu quả chưa đạt được như mong muốn.
Với địa bàn rộng lớn, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, đại bộ
phận người dân tộc ít người thường xuyên sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, trình
độ dân trí tương đối thấp, tập quán “du canh, du cư”, nhiều hủ tục lạc hậu trong
việc kết hôn, ly hôn, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con hoặc bất bình đẳng
nam nữ trong quan hệ hôn nhân… vẫn tồn tại. Mặc dù Luật hôn nhân và gia
đình năm và các quy định pháp luật áp dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số
đã có hiệu lực thi hành hơn 10 năm nay; công tác tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật về hôn nhân và gia đình đã được chính quyền địa phương, các tổ
chức xã hội, các cơ quan bảo vệ pháp luật như Toà án, Viện kiểm sát thường

xuyên thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng một bộ phận người dân,
nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa nhận thức hoặc chưa nắm
vững về chế độ hôn nhân và gia đình, quyền và nghĩa vụ cũng như các nguyên
tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình đã cản trở hôn nhân tiến bộ và hiệu
lực, tính khả thi của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như Nghị định số
32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ, quy định về việc áp dụng Luật
20


hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Vì vậy, phần lớn trường hợp
tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống đều rơi vào các hộ nghèo, đối tượng vị thành
niên, thanh niên thất học, hiểu biết pháp luật hạn chế và việc tiếp cận với các
phương tiện thông tin đại chúng còn khó khăn.
c) Sự can thiệp từ phía chính quyền địa phương đối với các trường hợp tảo
hôn, hôn nhân cận huyết thống còn chưa mạnh mẽ, thiếu kiên quyết
Việc loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu nói chung, loại bỏ tục tảo
hôn, hôn nhân cận huyết thống nói riêng ra khỏi đời sống xã hội đạt được hiệu
quả không nhỏ nếu có sự can thiệp một cách mạnh mẽ, kiên quyết từ phía cơ
quan địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống
vẫn còn tiếp diễn và một phần lỗi không nhỏ thuộc về chính quyền địa phương.
Và thực tế cho thấy, không chỉ những người dân mà cả gia đình cán bộ, Đảng
viên là lãnh đạo xã, phường cũng tiếp tay, thậm chí tảo hôn, hôn nhân cận huyết
thống còn diễn ra ngay trong gia đình của những người cán bộ này.
3. Hậu quả của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống
3.1. Ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh
Việc kết hôn sớm, mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên 40 khi cơ
thể người mẹ chưa phát triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết, kinh nghiệm và chưa
sẵn sàng về mặt tâm sinh lý để mang thai và sinh con đã ảnh hưởng lớn tới sức
khỏe bà mẹ, sự phát triển bình thường của thai nhi và trẻ sơ sinh. Đây là nguyên
nhân làm gia tăng tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 1

tuổi và dưới 5 tuổi, tăng tỷ lệ tử vong của bà mẹ liên quan đến thai sản.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở thể thiếu cân, thể thấp còi cao
gấp khoảng hơn 2 lần giữa vùng nông thôn so với thành thị (13,9%, 26,8% so
với 6%, 11,8%), giữa nhóm DTTS với nhóm dân tộc Kinh (22%, 40,9% so với
10%, 19,6%) và gấp 6,5 lần giữa nhóm hộ DTTS nghèo nhất với giàu nhất
(20,6%, 40,9% so với 3,1%, 6,1%)41.
Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi năm 2011 của nhóm dân
tộc thiểu số cao gấp 3 lần so với nhóm dân tộc Kinh (30% 0, 39%0 so với 10%0,
12%0) và gấp hơn 2 lần giữa nhóm hộ nghèo nhất so với nhóm giàu nhất (23% 0,
28%0 so với 11%0, 12%0). Vùng Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có
40

Theo Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ năm 2013 của Bộ KHĐT: vùng Trung du miền núi phía Bắc có
tỷ lệ sinh con vị thành niên cao nhất cả nước và cao hơn khoảng 2,5 lần so với vùng có tỷ lệ sinh thấp nhất là
vùng Đồng bằng sông Hồng (65%o so với 25%o).
41
Nguồn TCTK, điều tra MICS4 năm 2011.

21


tỷ suất tử vong trẻ em tương ứng cao gấp khoảng 2-3 lần so với vùng thấp nhất
là Đông Nam bộ (23%0, 24,3%0 và 35%0, 37%0 so với 9,3%0 và 13,9%0)42.
Tây Nguyên và Miền núi phía Bắc là 2 vùng có tỷ lệ tử vong bà mẹ liên
quan đến thai sản cao nhất cả nước. Ở 65 huyện nghèo nhất, tỷ lệ này cao gấp 5
lần so với mức bình quân quốc gia. Các dân tộc Mông, Thái, Ba na, Tày, Dao,
Nùng có tỷ số tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản cao hơn 4 lần so với nhóm
phụ nữ dân tộc Kinh43.
b) Ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi và
chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực cản đối với sự phát triển

kinh tế- xã hội, tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của vùng dân tộc thiểu
số.
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống không chỉ đi ngược với thuần phong,
mỹ tục của người Việt mà còn vi phạm pháp luật và nguy hại hơn nữa, những
hậu quả để lại cho thế hệ tương lai thật khó lường. Thực tiễn và khoa học đã
chứng minh những trẻ em được sinh ra từ các cặp vợ chồng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết thống có tỷ lệ mắc các bệnh dị tật bẩm sinh, chậm phát triển, suy dinh
dưỡng, tử vong sơ sinh cao hơn so với những trẻ em bình thường khác. Đặc biệt
đối với các cặp vợ chồng kết hôn cận huyết thống, những đứa trẻ sinh ra có nguy
cơ rất cao mắc các bệnh dị dạng hoặc bệnh di truyền như mù màu, bạch tạng, da
vảy cá, nhất là bệnh tan máu bẩm sinh Thalassemia.
Thalassemia là bệnh di truyền bẩm sinh, là bệnh thiếu máu do tan máu với
hai biểu hiện nổi bật là thiếu máu và thừa sắt trong cơ thể. Nếu hai người mang
gen bệnh kết hôn với nhau thì khi sinh con có 25% khả năng bị bệnh, 50% mang
gen bệnh. Việt Nam được xếp vào khu vực có nguy cơ cao với khoảng hơn 5
triệu người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh, khoảng hơn 20.000 bệnh nhân cần
được điều trị và mỗi năm có khoảng 2.000 trẻ sinh ra đã bị bệnh. Ở nước ta, tỷ lệ
mang gen bệnh cao tập trung chủ yếu ở vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số.
Hôn nhân cận huyết thống là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ
người bị bệnh Thalassemia ở vùng miền núi, điển hình như: tỉnh Hòa Bình và
khu vực Tây Nguyên. Qua khảo sát, tiến hành xét nghiệm của Bệnh viện Nhi
Trung ương đối với 10.425 trường hợp, chủ yếu là phụ nữ có thai và học sinh
trung học phổ thông có độ tuổi tiền hôn nhân tại các huyện Kim Bôi, Ðà Bắc,
Lạc Thủy, Yên Thủy và Cao Phong của tỉnh Hòa Bình đã phát hiện có 1.422
42
43

Nguồn Bộ KHĐT: điều tra MICS4 năm 2011 và Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ năm 2013.
Nguồn Bộ KHĐT: Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ năm 2013


22


trường hợp mang gien bệnh, chiếm tỷ lệ 14%. Đối với bệnh Thalassemia, hiện
tại chưa có phương pháp điều trị khỏi bệnh, người bệnh cần phải điều trị suốt cả
cuộc đời với hai phương pháp chính là truyền máu và thải sắt. Người mắc bệnh
Thalassemia thể trạng rất còi cọc chậm phát triển, bao giờ cũng nhỏ hơn so với
trẻ cùng tuổi, da sạm… gây ra nhiều biến chứng nặng nề như biến dạng xương
mặt, hộp sọ to, hai gò má cao, mũi tẹt, bụng phình to, suy giảm nghiêm trọng
các chức năng của tim, gan, lách, sức lao động giảm sút đi rất nhiều và dẫn tới tỷ
lệ tử vong cao nếu không được điều trị kịp thời, đầy đủ và suốt đời. Chi phí điều
trị rất tốn kém, khoảng tối thiểu 3 tỷ đồng cho một bệnh nhân nặng được điều trị
đến 30 tuổi.
Như vậy, tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống với những hậu quả khôn
lường cho thế hệ tương lai, là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Tảo hôn, hôn
nhân cận huyết thống ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy
giảm giống nòi, chất lượng nguồn nhân lực và gây hậu quả tiêu cực đến sự phát
triển và tiến bộ xã hội.
c) Rơi vào vòng luẩn quẩn: Đói nghèo - thất học - tảo hôn, kết hôn cận
huyết. Thực tế cho thấy, các tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao, đồng thời tình trạng tảo
hôn, hôn nhân cận huyết cũng gia tăng; tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống
vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nghèo đói, thất học và suy giảm chất
lượng cuộc sống.
d) Là rào cản đối với việc hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
của Việt Nam đã cam kết thực hiện với Liên Hợp Quốc: giảm tình trạng đói
nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng nam nữ, giảm tử vong
trẻ em, cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đấu tranh chống các bệnh dịch.
3.2. Những khó khăn, thách thức trong thực hiện giảm thiểu tảo hôn và
hôn nhân vùng dân tộc thiểu số
- Là vùng có tỉ lệ nghèo đói cao, trình độ dân trí thấp và tỉ lệ tảo hôn, hôn

nhân cận huyết cao nhất cả nước;
Phần lớn các dân tộc thiểu số cư trú ở các tỉnh miền núi, vùng cao, biên
giới, nơi có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khó khăn nhất của cả nước.
Vùng Trung du miền núi phía Bắc (đặc biệt là Tây Bắc) và Tây Nguyên là hai
vùng có tỷ lệ và số lượng các dân tộc thiểu số cao nhất, tương ứng lần lượt là
54,26%, trên 30 DTTS và 34,04% với 47 dân tộc thiểu số cùng chung sống.
23


Trong giai đoạn 2010-2013, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong giảm
nghèo được cộng đồng Quốc tế đánh giá cao, đưa tỷ lệ giảm nghèo từ 14,2%
năm 2010 xuống còn 9,6% năm 2012. Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo và tỷ lệ hộ
nghèo giữa vùng miền và các nhóm dân tộc còn có sự cách biệt. Tây Bắc, Đông
Bắc và Tây Nguyên là các vùng có tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao nhất so với cả
nước, đồng thời cũng là các vùng có tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết cao
nhất44.
- Chịu ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ của các phong tục, tập quán, trong đó
có các hủ tục và quan niệm lạc hậu trong hôn nhân;
- Công tác truyền thông còn bất cập, hiệu quả chưa cao;
- Nhận thức, ý thức pháp luật còn nhiều hạn chế;
- Chưa được sự quan tâm đúng mức của cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn
thể các cấp và cộng đồng.

44

Báo cáo Quốc gia năm 2013 về mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ: các vùng có tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo năm
2012 cao nhất so với tỷ lệ chung của cả nước (9,6%) là: miền núi Tây Bắc 28,55% (cao gấp xấp xỉ 3 lần so với tỷ
chung của cả nước), Đông Bắc 17,39% (cao gấp 1,8 lần so với tỷ chung); Tây Nguyên 15,58%(cao gấp 1,5 lần
so với tỷ lệ chung).


24


Phần II.
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
I. MỤC TIÊU, PHẠM VI THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Mục tiêu
1.1. Mục tiêu chung
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức pháp luật về hôn nhân và
gia đình, phấn đấu đến năm 2025 cơ bản ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tảo hôn và
hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao
chất lượng dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật, chuyển đổi hành vi trong hôn
nhân của đồng bào dân tộc thiểu số góp phần giảm thiểu tình trạng tảo hôn và
hôn nhân cận huyết thống ở vùng dân tộc thiểu số.
- Trên 90% cán bộ công tác dân tộc các cấp, cán bộ văn hóa - xã hội xã
được tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng vận động, tư vấn, truyền thông thay
đổi hành vi về tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc
thiểu số vào năm 2025.
- Giảm bình quân 2-3%/năm số cặp tảo hôn và 3-5%/năm số cặp kết hôn
cận huyết thống đối với các địa bàn, dân tộc thiểu số có tỷ lệ tảo hôn, kết hôn
cận huyết thống cao. Đến năm 2025, phấn đấu ngăn chặn, hạn chế tình trạng hôn
nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số.
2. Phạm vi thực hiện Đề án
2.1 Phạm vi thực hiện Đề án
Vùng dân tộc thiểu số, chú trọng khu vực miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ
- Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Tây Nam bộ.
2.2. Thời gian thực hiện: 2015-2025.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

1. Biên soạn, cung cấp tài liệu, sản phẩm truyền thông; tài liệu tập huấn về
kiến thức, kỹ năng truyền thông, vận động, tư vấn pháp luật liên quan về hôn
25


×