Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

NGHIÊN CỨU TRI THỨC BẢN ĐỊA TRONG VIỆC QUẢN LÝ, BẢO VỆ VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN RỪNG CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THÁI TẠI XÃ SONG KHỦA, HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.99 MB, 101 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Nhóm tham gia thảo luận của bản Co Súc 11
Bảng 2: Nhóm tham gia thảo luận của bản Tà Lạc 11
Bảng 3: Danh sách các cá nhân tham gia phỏng vấn: 12
Bảng 4: So sánh tri thức bản địa và tri thức khoa học 15
Bảng 5: So sánh tri thức bản địa và tri thức hàn lâm 19
Bảng 6: Đặc điểm của hai hệ thống kiến thức hiện hành 20
Bảng 7. Số ngày có giông tại Mộc Châu 25
Bảng 8: Bảng tổng hợp dân số, dân tộc xã Song Khủa năm 2012 30
Bảng 9: Cơ cấu đất của địa bàn nghiên cứu 34
Bảng 10: Tri thức bản địa về một số loài cây gỗ người dân thường khai thác 63
Bảng 11: Tri thức bản địa về một số lâm sản ngoài gỗ 68
Bảng 12: Kiến thức bản địa của người Thái 76
ở xã Song Khủa đã bị mai một: 76
DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Sơ đồ quá trình phát nương làm rẫy của người Thái 42
Hình 2: Mô hình trồng xen ngô và dong ở bản Co Súc - Song Khủa 46
Hình 3: Hệ canh tác lúa nước của đồng bào Thái ở xã Song Khủa 48
Hình 4: "Lin" - Hệ thống máng dẫn nước vào ruộng 51
Hình 5: Ruộng bậc thang là một nét đẹp trong văn hoá người Thái 54
Hình 6: Nhà gỗ người Thái trắng Song Khủa 64
Hình 7: Cỗ áo quan được kéo từ rừng về đặt dưới gầm sàn 65
Hình 8: Máng kéo 66
Hình 9: Lá vón vén 71
Hình 10: Co Xạ - một loài cây lấy lá làm thức ăn cho gia súc (nấu cám lợn) 72
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Song hành cùng với sự tác động của các ngành khoa học kỹ thuật tiên tiến
ngày nay, kiến thức bản địa đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống và
sản xuất của người dân đặc biệt là người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa. Kiến


thức bản địa (Indigenous knowledge) đã gắn liền với đời sống và sinh hoạt của
người dân đặc biệt là các dân tộc ít người. Người dân các dân tộc miền núi có hệ
thống kiến thức bản địa rất phong phú. Hệ thống kiến thức này thực sự là nguồn lực
quý giá cho sự phát triển của cộng đồng cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Nó
có một vai trò quan trọng không chỉ về mặt văn hóa, tinh thần mà còn trong sản
xuất và đời sống của người dân. Không những thế, hệ thống kiến thức bản địa còn
góp phần vào việc duy trì và bảo tồn giá trị đa dạng sinh học cho từng địa phương.
Tri thức bản địa là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa,
góp phần làm nên bản sắc tộc người. Tri thức bản địa có thể coi là tài sản của
mỗi tộc người trong quá trình phát triển, phản ánh mối quan hệ của từng cộng
đồng đối với môi trường tự nhiên và xã hội. Kinh nghiệm phát triển của nhiều quốc
gia châu á và châu Phi trong những thập kỷ qua cho thấy cách tiếp cận khoa học
và công nghệ phương Tây không đủ đáp ứng những quan niệm phức tạp và đa dạng
của nông dân cũng như những thách thức về kinh tế, xã hội, môi trường mà ngày
nay chúng ta đang phải đương đầu. Ngược lại, rất nhiều kỹ thuật truyền thống đã
đưa lại hiệu quả cao, được thử thách và chọn lọc trong một thời gian dài, có sẵn tại
địa phương, phù hợp với văn hóa và phong tục tập quán của tộc người.
Việt Nam là một quốc gia có đa tộc người, nên tri thức bản địa của các
tộc người rất phong phú và đa dạng. Mặc dù tri thức bản địa của các tộc người
mới chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm và cảm nhận, nhưng nhờ được rút ra
từ hoạt động thực tiễn, nên nó có giá trị thiết thực trong xã hội hiện nay của
mỗi tộc người. Do đó, cần phải coi tri thức bản địa như một nguồn tài nguyên
quan trọng và lập kế hoạch nghiên cứu, sưu tầm, phát huy chúng trong quá
1
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, sự nghiệp phát triển
bền vững ở vùng miền núi và tộc người thiểu số nói riêng.
Nét đặc thù của cộng đồng các dân tộc ở miền núi là sống gần rừng và sống
dựa vào rừng. Vì vậy, họ có một vốn kiến thức và kinh nghiệm sản xuất rất phong
phú trong việc bảo vệ, phát triển và sử dụng tài nguyên rừng. Tuy nhiên, đặc trưng
của kiến thức bản địa là phạm vi sử dụng hẹp. Nó phù hợp với điều kiện về văn hóa,

phong tục tập quán, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng địa phương nhất định
nhưng có khi lại không phù hợp với địa phương khác hay dân tộc khác. Kiến thức
bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong mỗi cộng đồng; kiến
thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường và điều kiện của từng địa
phương nơi kiến thức bản địa được hình thành và phát triển (Hoàng Xuân Tý và Lê
Trọng Cúc, 1998)[8]. Chính vì vậy,hệ thống kiến thức bản địa trong quản lý bảo vệ
rừng cũng rất khác nhau giữa các địa phương và các dân tộc. Do đó, để quản lý tài
nguyên rừng một cách bền vững cũng như duy trì và bảo tồn hệ thống kiến thức bản
địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên, chúng ta cần coi trọng, tìm hiểu và nghiên
cứu về hệ thống kiến thức bản địa của từng địa phương, từng dân tộc. Trên cơ sở đó,
chúng ta có thể kế thừa, sử dụng và phát huy những ưu điểm của hệ thống kiến thức
bản địa trong quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng một cách bền vững.
Kiến thức bản địa là lời giải cho nhiều bài toán phát triển cộng đồng và đang
được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý môi trường chú ý đến, hoạt
động nghiên cứu kiến thức bản địa ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã
được quan tâm chú ý trong nhiều lĩnh vực như: kinh tế, xã hội, văn hóa, y tế,
.v.v tuy nhiên vẫn còn rất hạn chế.
Mỗi một địa phương, mỗi một dân tộc đều có những quan niệm, những
phong tục tập quán riêng, mà không một địa phương nào giống địa phương nào và
cũng không có dân tộc nào là giống nhau. Ngay cả là cùng một dân tộc nhưng khi
sống ở những địa phương khác nhau cũng đã có những điểm khác nhau về phong
tục tập quán.
2
Sơn La là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam với 12 dân tộc anh em,
trong đó người dân tộc Thái lại chiếm tỉ lệ rất đông. Do vậy, cộng đồng dân tộc Thái
sẽ giữ một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội của cả
tỉnh, bao gồm cả việc bảo vệ, phát triển, và sử dụng tài nguyên rừng. Vậy vấn đề đặt
ra ở đây là: "Những tri thức bản địa của cộng đồng dân tộc Thái có liên quan như thế
nào đến công tác quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên rừng?" và giả thuyết được
đặt ra là: " Nếu những tri thức bản địa của cộng đồng dân tộc Thái được áp dụng một

cách đúng đắn thì sẽ góp phần giúp người dân Sơn La giữ rừng tốt hơn".
Văn hóa Thái ở Tây bắc Việt Nam nói chung và ở Sơn La nói riêng cũng đã
được nghiên cứu nhiều, nhưng những kiến thức bản địa của người Thái có liên quan
đến việc bảo vệ rừng vẫn chưa được quan tâm ghi chép, tư liệu hóa rõ ràng, cụ thể.
Là một người con của đất núi rừng Sơn La, là một thành viên trong cộng đồng dân
tộc Thái, ít nhiều tôi tự nhận thấy rằng dân tộc Thái cũng giống như những dân tộc
khác, có những phong tục tập quán có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới rừng, tác
động của nó lên rừng có mặt tốt và cũng có mặt không tốt. Hơn nữa, tôi không
muốn khoanh tay đứng nhìn những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp dần bị mai một
do xu thế thị trường đang dần thay đổi, cũng không muốn hình ảnh một Sơn La với
màu xanh ngút ngàn của núi rừng bị thay thế bởi hình ảnh một Sơn La gắn liền với
những vùng đất trống đồi núi trọc.
Chính vì những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:"Nghiên cứu tri thức
bản địa trong việc quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên rừng của đồng bào dân
tộc Thái tại xã Song Khủa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La".
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1 Nghiên cứu trên thế giới
Trước đây, tri thức bản địa được coi là những kiến thức nông cạn, hời hợt,
không mang tính khoa học Ngày nay, kiến thức bản địa được nhìn nhận đúng với
vai trò của nó.
3
Hầu hết mọi người đều thừa nhận vai trò của tri thức bản địa như một nhân
tố then chốt trong mọi chương trình phát triển đã và đang được tiến hành, đặc biệt
đối với những chương trình có mục tiêu là đạt tới sự bền vững.
Tuy nhiên, ngược trở lại bối cảnh thế giới sau thế chiến thứ hai, khái niệm
phát triển theo từng giai đoạn biến đổi của nền kinh tế thế giới được bồi đắp dần lên
với các nghĩa mới bổ sung. Bắt đầu từ giai đoạn phát triển tập trung chủ yếu vào
việc khôi phục nền kinh tế thế giới sau cuộc chiến, tiếp theo giai đoạn này là sự tăng
trưởng đồng đều trên mọi lĩnh vực của cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu của con
người. Trong công cuộc này, họ coi các nguồn tri thức của địa phương như là những

trở ngại cần phải vượt qua, để có thể đạt tới mục tiêu của phát triển. Các nhà phát
triển coi truyền thống và các kinh nghiệm của các tộc người trên thế giới như một
điều gì đó yếu kém, lạc hậu cần phải hủy bỏ hơn là động viên sử dụng. Tính hợp
pháp của tri thức truyền thống bị nghi ngờ. Những kinh nghiệm, hiểu biết của các
dân tộc bản địa bị bỏ qua hoặc bị đánh giá là không khoa học và không đáng được
xem xét.
Bắt đầu từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, vai trò của các tri thức bản địa
được xem xét lại. Do:
Thứ nhất, do sự thất bại của chính sách phát triển. Các chuyên gia phát triển
dần dần nhận ra rằng các tộc người bản địa cùng với các hoạt động văn hóa, xã hội
kinh tế của họ đã và đang sống cuộc sống hài hòa với môi trường xung quanh.
Thứ hai, do sự xuất hiện của khái niêm "Phát triển bền vững". Phát triển bền
vững được thay thế hoàn toàn cho phát triển truyền thống, khi nó nhấn mạnh đến
khả năng đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến tương lai.
Khái niệm "Kiến thức bản địa" được sử dụng rộng rãi vào dầu những năm 90
của thế kỷ XX. Năm 1987, Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) cùng
với tuyên ngôn về một "tương lai chung của chúng ta" ra cảnh báo về sự suy thoái của
môi trường do nghèo đói kể cả khi không có sự hiện diện của các ngành công nghiệp
trên toàn thế giới. Dần dần các chuyên gia phát triển, những người hoạt động trong lĩnh
vực môi trường, các tổ chức phi chính phủ nhận ra rằng những tri thức truyền thống,
4
thế giới quan và văn hóa các dân tộc bản địa ẩn chứa mối quan hệ hài hòa thân thiện
với môi trường xung quanh. Các dân tộc bản địa lúc này được xem như là các nhà sinh
thái học thực sự với những hiểu biết sâu sắc về môi trường, những quan niệm, niềm tin,
và cả cách họ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Công ước 169 của tổ chức Lao động thế giới (ILO) định nghĩa về người dân
và bộ tộc bản địa là "những người có các điều kiện xã hội, văn hóa và kinh tế phân
biệt họ với các bộ phận khác của cộng đồng quốc gia và địa vị của họ được quy
định toàn bộ hoặc một phần bởi phong tục hay truyền thống, hoặc bởi những luật lệ
đặc biệt hay quy định riêng của họ".(John Briggs & Joanne Sharp, 2004)[7].

Về mặt lịch sử, khái niệm kiến thức bản địa được nhắc tới nhiều do sự ảnh
hưởng của khoa học tự nhiên và các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Xuất phát
từ kinh nghiệm trong việc trồng trọt và chăn nuôi ở những vùng có thổ nhưỡng khác
nhau và khác xuất xứ của các cây trồng, vật nuôi này các nhà khoa học đã để ý đến
kinh nghiệm của người dân bản địa trong việc xử lý những vấn đề khó khăn trong quá
trình thích nghi. Vốn trải qua quá trình thích nghi từ rất lâu đời, người dân ở từng địa
phương đã tích lũy được những kinh nghiệm nhất định đối với cuộc sống xung quanh
họ. Người dân hiểu rất rõ mối quan hệ giữa quá trình sinh trưởng của vật nuôi cây
trồng của họ với các điều kiện tự nhiên. Khi các nhà khoa học biết cách phối hợp
những tri thức bản địa này với những tri thức và phương pháp khoa học hiện đại, họ
có thể giúp cây trồng và vật nuôi thích nghi tốt hơn với điều kiện địa phương.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 124 nước hoạt động trong lĩnh vực nghiên
cứu tri thức bản địa nhằm tăng tính hiệu quả trong quá trình phát triển nông thôn và
quản lý tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra, ở nhiều nơi trên thế giới, tri thức bản địa
đang được nghiên cứu hỗ trợ cho các nghiên cứu khoa học, làm tăng nguồn cơ sở tư
liệu về môi trường, được sử dụng để đánh giá tác động của quy trình phát triển,
được sử dụng như một công cụ lựa chọn để quyết định. Vì vậy, việc phát triển
nghiên cứu tri thức bản địa nhằm thu thập, lưu trữ, nâng cao sự hiểu biết các tiến
trình phát triển, ứng dụng và điều chỉnh kỹ thuật của các cộng đồng cư dân địa
phương. Các tổ chức quốc tế cũng đóng góp vai trò quan trọng trong việc khuyến
5
khích các chính phủ sử dụng tri thức bản địa trong các kế hoạch phát triển của
mình.
2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Nghiên cứu về tri thức bản địa hay cụ thể hơn là tri thức bản địa về môi
trường sinh thái là một ngành nghiên cứu còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên,
nước ta cần có sự quan tâm đặc biệt tới lĩnh vực này. Thứ nhất, Việt Nam vẫn đang
được coi là một nước đang phát triển với phần lớn đại bộ phận dân cư sống tại các
vùng nông thôn, miền núi cần được nâng cao chất lượng cuộc sống. Thứ hai, Việt
Nam là một nước có tới gần 60 dân tộc thiểu số đồng nghĩa với việc có gần 60 tri

thức bản địa cần được nghiên cứu. Thứ ba, một loạt các chính sách phát triển của
chính phủ Việt Nam và các quốc gia trên thế giới vẫn đang bất lực trong việc đạt tới
mục tiêu phát triển ổn định và cân bằng tiến tới bền vững cần thiết.
Trong những năm gần đây, vai trò quan trọng của người dân bản địa cùng
với kiến thức trong quản lý và bảo tồn tai nguyên thiên nhiên ngày càng được thừa
nhận nhiều hơn. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về kiến thức bản địa trên
nhiều lĩnh vực cửa đời sống xã hội. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về kiến thức bản
địa cũng đã bắt đầu được quan tâm, trong đó có một số công trình liên quan đến lĩnh
vực quản lý tài nguyên rừng. Các nhóm cộng đồng được nghiên cứu chủ yếu là các
nhóm dân tộc Dao, Mường, H'mông (Mèo), Tày, Nùng,Thái (ở vùng núi phía Bắc)
và J'rai, M'nông ở Tây Nguyên hay Cơ Tu ở Thừa Thiên - Huế. Các công trình
nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Thường (2003), Lê Thị Diên (2002), Hoàng
Xuân Tý (2000), Lê Trọng Cúc (1998), Hoàng Cầm (1998), Vương Xuân Tình
(1998), Nguyễn Thị Quỳ (1998) và của nhiều tác giả khác là những nghiên cứu cụ
thể về kinh nghiệm và thực hành bản địa, nghiên cứu về luật tục. Những nghiên cứu
này cho thấy kiến thức bản địa là nguồn lực quan trọng đối với bảo tồn và phát triển
nếu chúng được phát huy và kết hợp sử dụng với các kiến thức khoa học tiên tiến,
phù hợp.
6
Ở Việt Nam, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ là những cơ quan đầu tiên
áp dụng việc sử dụng tri thức bản địa trong việc cải thiện khả năng canh tác trồng
trọt, nâng cao chất lượng sống ở địa phương.
Nghiên cứu, đánh giá kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông
nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên đã được TS. Hoàng Xuân Tý cà các cộng
tác viên thực hiện trong khuôn khổ dự án: " Đánh giá kiến thức bản địa của đồng bào
dân tộc trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam" do trung
tâm nghiên cứu phát triển quốc tế Canada (IDRC) và quỹ FORD (Foundation) tài trợ
(1997 -1999). Kết quả đã được xuất bản thành ấn phẩm do Nhà xuất bản Nông
nghiệp in ấn (Hà Nội, 1998) [8].
Trong chương trình sinh thái học Việt Nam do trung tâm nghiên cứu Việt

Nam và giao lưu văn hóa thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện năm 1989 đã đề
cập tới một số quy ước quản lý, bảo vệ rừng, rẫy. Kết quả nghiên cứu đã được xuất
bản trong ấn phẩm: "Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam" (Cầm Trọng,
1998)[4].
Trong báo cáo: "Điều tra nghiên cứu kiến thức bản địa về quản lý, phát triển
tài nguyên rừng của một số cộng đồng thôn bản miền núi phía Bắc Việt Nam" đã đề
cập đến những quy ước, luật tục, kinh nghiệm của đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi phía bắc trong quản lý, phát triển , khai thác tài nguyên rừng (Đỗ Đình Sâm và
cộng sự, 2002)[6].
Ngoài ra, các nghiên cứu kiến thức bản địa trước đây về một số vấn đề liên
quan tới quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng đã đề cập:
- Luật tục quy định về bảo vệ nương rẫy, tài nguyên rừng của đồng bào Thái,
M'nông, Tày, Nùng.
- Kinh nghiệm phát triển và sử dụng một số lâm sản ngoài gỗ như quế, sa
nhân, một số cây thuốc.
Tuy vậy, việc thu thập kiến thức bản địa cũng chưa được đầy đủ nhất là
những vấn đề có liên quan tới việc quản lý các loại rừng khác nhau và một số vấn
đề về kinh nghiệm kỹ thuật , áp dụng các kiến thức bản địa, phát huy các đặc tính
7
truyền thống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là cộng đồng dân tộc
Thái trong quản lý, bảo vệ rừng trong thời gian gần đây. Đó là những nội dung cần
tiếp tục bổ sung, điều tra, nghiên cứu trong phạm vi đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3.1.1. Mục đích chung
Đánh giá hệ thống kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc Thái tại xã Song
Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La liên quan tới việc quản lý, bảo vệ, phát triển
và sử dụng tài nguyên rừng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát
huy hệ thống kiến thức bản địa của người dân tộc Thái góp phần phát triển bền
vững tài nguyên rừng, cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao

đời sống của người dân.
3.1.2. Mục đích nghiên cứu cụ thể
- Nghiên cứu những phong tục tập quán và kiến thức bản địa trước đây và
hiện nay của đồng bào dân tộc Thái có liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ, phát
triển và khai thác tài nguyên rừng tại địa phương.
- Phân tích và đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của các kiến thức bản địa hiện
còn lưu giữ và những phong tục tập quán trước đây đã bị bỏ đi tại địa phương trong
công tác quản lý, bảo vệ, phát triển và khai thác tài nguyên rừng.
- Phân tích vai trò của hệ thống kiến thức bản địa trong công tác quản lý, bảo
vệ, phát triển và khai thác tài nguyên rừng tại địa phương.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp để bảo tồn và phát triển hệ thống kiến thức
bản địa trong công tác quản lý, bảo vệ, phát triển và khai thác tài nguyên rừng tại
địa phương và những biện pháp nhằm góp phần nâng cao đời sống phù hợp với kiến
thức của người dân địa phương.
3.2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống tri thức bản địa (Indigenous knowledge) của cộng đồng dân tộc
Thái tại xã Song Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La có liên quan đến vấn đề
quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng.
8
- Cộng đồng dân tộc Thái sống rải rác ở hầu hết tất cả các bản trong xã, tuy
nhiên, họ sống tập trung và lâu đời tại hai bản Tà Lạc va Co Súc là chủ yếu. Tại hai
bản này rất ít có dân tộc khác sinh sống. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ
tập trung nghiên cứu chủ yếu tại hai bản trên.
4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết tổng quan về hệ thống kiến thức bản địa.
- Nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tại xã Song Khủa - huyện
Mộc Châu - tỉnh Sơn La . Điều tra về tài nguyên rừng ở xã Song Khủa - huyện Mộc
Châu - tỉnh Sơn La.
- Nghiên cứu về đặc điểm của cộng đồng dân tộc Thái ở xã Song Khủa -
huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La.

- Nghiên cứu hệ thống tri thức bản địa của cộng đồng dân tộc Thái tại xã
Song Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La có liên quan đến vấn đề quản lý, bảo
vệ và sử dụng tài nguyên rừng.
- Phân tích, đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Thái ở xã Song
Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La trong việc quản lý, bảo vệ và khai thác tài
nguyên rừng.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai quan tâm tới kiến
thức bản địa. Văn hóa Thái nói chung và tri thức bản địa của cộng đồng dân tộc
Thái ở Sơn La nói riêng sẽ được ghi chép, tư liệu hóa rõ ràng, cụ thể hơn để sau này
một số phong tục tập quán dẫu có bị mai một đi thì thế hệ sau vẫn có thể biết được
truyền thống của dân tộc mình.
- Đồng thời,cũng sẽ thấy được nhận thức, trình độ của người dân xã Song
Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La. Từ đó, thấy được sự cần thiết phải nâng cao
trình độ nhận thức của người dân địa phương trong thời gian trước mắt cũng như
lâu dài nhằm góp phần nâng cao ý thức bảo vệ rừng của người dân, trả lại màu xanh
cho núi rừng Sơn La.
9
- Đề tài này khái quát những tri thức bản địa của người Thái ở miền núi xã
Song Khủa, khai thác những giá trị lịch sử, văn hóa mà người Thái đã sáng tạo ra
trên chiếc nôi của nền văn hóa dân tộc. Qua đó, một mặt phát huy những mặt tích
cực, hữu ích của tri thức bản địa. Qua đó giới thiệu nguồn tư liệu khảo sát từ thực
tiễn và đề xuất một số ý kiến làm cơ sở bảo lưu các giá trị văn hóa tộc người, phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sẽ thực hiện để đạt được những mục tiêu và nội dung trên:
* Nghiên cứu tổng quan về địa điểm, tộc người và vấn đề nghiên cứu.
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu đã được công bố về hệ thống tri thức bản địa, văn
hóa của đồng bào dân tộc Thái.

6.2. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu
- Thu thập tài liệu từ thư viện sách, Internet,
- Sử dụng phương pháp thống kê ở các phòng tài nguyên, kiểm lâm của xã,
Ban văn hóa dân tộc,
- Làm việc với lãnh đạo xã để tìm hiểu các thông tin cơ bản về điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội và một số phong tục tập quán của địa phương. Đồng thời tiến
hành thảo luận với lãnh đạo xã về các vấn đề liên quan tới hoạt động quản lý và bảo
vệ rừng, kiến thức bản địa của đồng bào dân tộc Thái ở địa phương.
* Nghiên cứu hệ thống tri thức bản địa của cộng đồng dân tộc Thái tại xã
Song Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La có liên quan đến vấn đề quản lý, bảo
vệ và sử dụng tài nguyên rừng.
6.3. Phương pháp điều tra, phỏng vấn bán định hướng người dân
- Tại mỗi bản, chọn ra 3 nhóm, mỗi nhóm từ 7 - 12 người có kinh nghiệm sản
xuất, tổng có 55 người để tham gia phỏng vấn đồng thời thảo luận nhóm, bao gồm:
+ Nhóm 1: Các già làng, trưởng họ.
+ Nhóm 2: Nông dân có kinh nghiệm sản xuất.
10
+ Nhóm 3: Các nhà quản lý (các cán bộ bản, cán bộ xã), được tổng hợp trong
bảng 1 và bảng 2:
Bảng 1: Nhóm tham gia thảo luận của bản Co Súc
Nhóm
Số người
trong
nhóm
Dân tộc Trình độ
Thời gian
sống
1 7 7/7 dân tộc Thái Từ mù chữ đến lớp 2 Từ nhỏ
2 12 12/12 dân tộc Thái Từ lớp 3 đến lớp 9 Từ nhỏ
3 8

6 dân tộc Thái
2 dân tộc mường
Từ lớp 7 đến lớp 12 Từ nhỏ
Tổng số 27
25/27 dân tộc Thái
2/27 dân tộc Mường
Bảng 2: Nhóm tham gia thảo luận của bản Tà Lạc
Nhóm
Số người
trong
nhóm
Dân tộc Trình độ
Thời gian
sống
1 7 6 dân tộc Thái
1 dân tộc Mường
Từ lớp 1 đến lớp 4 Từ nhỏ
2 12 12/12 dân tộc Thái Từ lớp xoá mù chữ
đến lớp 12
Từ nhỏ
3 9 9/9 dân tộc Thái Từ lớp 7 đến lớp 12 Từ nhỏ
Tổng
số
28 27 dân tộc Thái
1 dân tộc Mường
Qua việc phỏng vấn và thảo luận với 55 người dân bản địa ở hai bản Tà Lạc và
bản Co Súc, toàn bộ đều đã được sinh ra và lớn lên từ nhỏ tại đây. Trình độ học vấn của
họ cũng khác nhau phụ thuộc vào các nhóm khác nhau, nhóm các già làng, trưởng bản
thường có trình độ từ mù chữ, người học cao nhất cũng chỉ học đến lớp 4, họ làm việc
chủ yếu nhờ uy tín của bản thân đối với mọi người trong bản, ngay cả nhóm nông dân có

kinh nghiệm sản xuất cũng có những người mới chỉ học qua lớp xoá mù chữ, những
người này lao động sản xuất cũng chỉ vào kinh nghiệm chứ ít khi áp dụng khoa học vào
quá trình lao động sản xuất hoặc nếu có áp dụng thì cũng áp dụng không đúng. Nhóm có
trình độ học vấn cao nhất là nhóm các nhà quản lý bao gồm các cán bộ bản và cán bộ xã
trú tại bản.
11
- Một số công cụ như: lược sử sử dụng tài nguyên rừng, phân tích thuận lợi,
khó khăn và giải pháp được áp dụng để trao đổi, thu thập và phân tích thông tin.
Nội dung các buổi thảo luận nhóm tập trung vào việc xác định và phân tích các kiến
thức bản địa liên quan đến vấn đề khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên rừng tại
địa phương.
- Xây dựng phiếu điểu tra phù hợp với từng mẫu nhằm khai thác triệt để
thông tin.
- Sau khi thảo luận nhóm, tôi tiến hành phỏng vấn một số người dân có kiến
thức, kinh nghiệm trong quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng (VD: người
làm nghề thuốc, thợ săn, những người già có kinh nghiệm, trưởng họ, trưởng bản, ).
Những cá nhân tham gia phỏng vấn gồm 9 người, được tổng hợp trong bảng 3:
Bảng 3: Danh sách các cá nhân tham gia phỏng vấn:
STT Họ và tên Bản Trình độ Ghi chú
1 Ngần Thị Thân Tà Lạc Lớp 4 Thầy thuốc
2 Ngần Thị Mâng Co Súc Mù chữ (không
nói được tiếng phổ
thông)
Nông dân
3 Ngần Văn Chức Tà Lạc Lớp 3 Thầy cúng
4 Ngần Thị Mum Tà Lạc Lớp 2 Thầy thuốc
5 Vì Văn Quý Tà Lạc Lớp 5 Trưởng họ
6 Ngần Văn Quyên Tà Lạc Lớp xoá mù chữ Thợ Săn
7 Ngần văn Huynh Co Súc Lớp 4 Thợ săn
8 Ngần Văn Dựng Co Súc Lớp 9 Nông dân

9 Vì Thị Dói Co Súc Mù chữ (không
nói được tiếng phổ
thông)
Nông dân
Qua bảng trên ta có thể thấy, trong số những người được chọn phỏng vấn có
cả những người mù chữ thậm chí không nói được tiếng phổ thông mà phải phỏng
vấn bằng tiếng dân tộc.
- Sử dụng các câu hỏi phỏng vấn để phỏng vấn linh hoạt người dân, đặt
người dân vào quá trình đàm thoại thông qua các câu hỏi mở và thích hợp.
- Một số cụ già không có khả năng giao tiếp bằng tiếng phổ thông thì sử
dụng ngôn ngữ địa phương để phỏng vấn.
12
- Tổ chức họp dân với nhiều thành phần, nhiều ngành nghề khác nhau nhằm
tìm hiểu được nhu cầu, nguyện vọng của người dân tại cộng đồng.
- Người dân tự phân tích thực tế nhu cầu và đời sống của họ.
- Cùng người dân trao đổi, phân tích những mặt mạnh yếu của truyền thống
nhằm tìm ra những biện pháp phù hợp trong bảo tồn thiên nhiên, đồng thời giúp
người dân đề xuất những chính sách phù hợp.
- Ghi chép chi tiết nội dung các cuộc phỏng vấn vào sổ theo dõi công việc
hiện trường.
- Kiểm tra tính thực tiễn của thông tin qua quan sát trực tiếp.
- Ngoài ra tôi còn tiến hành phỏng vấn các cán bộ xã và cùng những cán bộ
đó thảo luận nhóm, danh sách này được tổng hợp trong phụ biểu trong mục phụ lục.
* Phân tích, đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Thái ở xã Song
Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La trong việc quản lý, bảo vệ và khai thác tài
nguyên rừng.
6.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học.
- Trên cơ sở các thông tin và số liệu thu thập được sẽ hình dung được hiện
trạng một cách tương đối chính xác, đó là căn cứ để đánh giá, phân tích.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học, để từ đó có thể đưa ra những kết

luận chính xác và hợp lý trong quá trình nghiên cứu.
6.5. Phương pháp phân tích hệ thống:
- Dựa trên quá trình khảo sát trực tiếp địa phương và các số liệu thu thập
được để đưa ra những đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Thái ở xã
Song Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Sơn La trong việc quản lý, bảo vệ và khai thác
tài nguyên rừng.
- Phân tích các đặc điểm tín ngưỡng và điểm mạnh yếu của truyền thống
người Thái ở xã Song Khủa - huyện Mộc Châu - tỉnh Lơn La có liên quan đến việc
quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên rừng.
13
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG KIẾN THỨC BẢN ĐỊA
1.1. Khái niệm
Khái niệm tri thức bản địa hiện đã không còn xa lạ đối với rất nhiều nhà nghiên
cứu nhân học, văn hoá, dân tộc học và đặc biệt đối với các chuyên gia phát triển.
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank), một trong những thể chế kinh tế
quyền lực nhất trên thế giới hiện nay thì Tri thức bản địa là tri thức địa phương, là
nền tảng cơ bản cho việc thiết lập các quyết định liên quan đến địa phương trên mọi
lĩnh vực của cuộc sống đương đại bao gồm quản lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, dinh dưỡng, thức ăn, y tế, giáo dục và trong các hoạt động xã hội và cộng
đồng. Tri thức bản địa còn có cung cấp các chiến lược nhằm giải quyết các vấn đề
đặt ra cho cộng đồng dân cư địa phương.
Định nghĩa này chính thức được đưa ra trong một chương trình “Tri thức bản
địa cho sự phát triển” tại châu Phi của World Bank vào năm 1998, coi tri thức bản
địa như là một nguồn quan trọng trong việc làm tăng tính hiệu quả, năng lực và tính
bền vững cho các chương trình phát triển.Rõ ràng là vai trò và giá trị của tri thức
bản địa là không thể phủ nhận và ngày càng được phổ biến rộng rãi trên toàn thế
giới. Cùng với vị trí ngày càng cao của tri thức bản địa là sự tôn trọng được mang
đến nhiều hơn cho cộng đồng các tộc người, chủ sở hữu của các tri thức này.
Do tri thức bản địa gắn bó với cuộc sống của người dân và được trải nghiệm

trong lịch sử nên đa số tri thức bản địa là những tri thức liên quan đến môi trường
và cách thức sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt. Đó có thể là: làm nhà hướng nam, dùng
lá xoan khô đưa vào chậu vại cùng với đậu xanh, đậu đen, ngô để bảo quản, cách
làm ruộng bậc thang, san đát hay xếp đá, dùng "cày Mèo" rất phù hợp với việc canh
tác trên đất dốc,
Tri thức bản địa là những kinh nghiệm đã được thử thách, tôi luyện qua
nhiều năm sử dụng. Những điểm yếu dần được cải thiện cùng với thời gian, những
tinh túy dần được chắt lọc và cuối cùng là hoàn thiện và phổ cập. Tri thức bản địa là
những kinh nghiệm, nhưng nó lại phải phù hợp với môi trường, văn hóa từng vùng,
14
từng cộng đồng và từng tộc người. Tri thức bản địa tuy là những kinh nghiệm sống
nhưng lại động và thay đổi phù hợp với những điều kiện mới, cơ cấu xã hội mới.
Dù sử dụng tên gọi như: tri thức bản địa, tri thức kỹ thuật bản địa, sinh thái
dân tộc học, tri thức địa phương, tri thức dân gian, tri thức truyền thống, tri thức
truyền thống về môi trường, khoa học của dân hay tri thức của người nông thôn,
thì đối tượng mà người ta muốn nhắc đến là một hệ thống các tri thức đặc trưng của
các cộng đồng người địa phương liên quan đến cái cách cộng đồng này quan hệ với
môi trường tự nhiên xung quanh. Các cách gọi này cũng thể hiện rõ ràng cách
những người sử dụng tiếp cận vấn đề và đặt các vấn đề liên quan đến nó.
Tri thức bản địa chỉ được hiểu một cách rõ ràng nhất khi chúng ta đem nó so
sánh với kiến thức khoa học mà chúng ta quen thuộc. Đơn cử như một so sánh tham
khảo sau (Bùi Hoài Sơn, 2010)[2]:
Bảng 4: So sánh tri thức bản địa và tri thức khoa học
Các lĩnh vực tri thức Tri thức bản địa Kiến thức khoa học
Kiến thức khoa học Linh thiêng và thế tục cùng
đồng hành, bao gồm cả siêu
nhiên
Hội nhập toàn thể, dựa vào
hệ thống
Được lưu giữ thông qua

truyền miệng và trong các
thực hành văn hóa
Chỉ tính tới thế tục, loại trừ
siêu nhiên
Phân tích hay quy giản, dựa
vào các tập hợp nhỏ của cái
toàn thể
Được lưu giữ thông qua
sách vở và máy tính
Mức độ chân lý Được coi là chân lý (chủ
quan)
Chân lý được thấy trong tự
nhiên và trong niềm tin
Giải thích dựa vào ví dụ,
kinh nghiệm và tục ngữ
Được coi là tiếp cận gần
nhất đến chân lý
Chân lý được tìm thấy từ sự lý
giải của con người
Giải thích dựa vào giả thuyết,
lý thuyết và quy luật
Mục đích Trí tuệ lâu dài
Thực tế cuộc sống và tồn tại
Có khả năng dự báo tốt ở
Suy đoán ngắn hạn
Trừu tượng, trải qua kiểm
tra
15
Các lĩnh vực tri thức Tri thức bản địa Kiến thức khoa học
địa phương (có giá trị về

sinh thái)
Yếu hơn trong điều kiện ở
các vùng khác.
Có khả năng dự báo tốt
trong điều kiện tự nhiên (có
giá trị về duy lý)
Yếu trong việc sử dụng
kiến thức địa phương
Cách dạy và học Lĩnh hội mất nhiều thời gian
(kiến thức chậm)
Học thông qua cách sống,
trải nghiệm và làm
Dạy thông qua ví dụ, làm
mẫu, tôn giáo và kể chuyện
Được kiểm nghiệm thông
qua các tình huống thực tế
Lĩnh hội nhanh (kiến thức
nhanh)
Học thông qua giáo dục
chính thức
Dạy thông qua sách giáo
khoa
Được kiểm nghiệm giả tạo
trong các kiểm tra
(Nguồn: Đôi nét về tri thức bản địa – Bùi Hoài Sơn, năm 2010)
Như vậy, chúng ta có thể có một vài nhận xét về mối quan hệ giữa tri thức
bản địa và tri thức khoa học như sau:
Kiến thức khoa học được sinh ra bởi các nhà khoa học chuyên nghiệp thông
qua những thí nghiệm và nghiên cứu khoa học một cách hệ thống trong khi tri thức
bản địa được sinh ra bởi kinh nghiệm hàng ngày của họ khi chung sống với tự nhiên

và xã hội. Người dân địa phương cũng thực hiện những thí nghiệm và nghiên cứu
nhưng khác với các nhà khoa học chuyên nghiệp, họ nghiên cứu như một phần của
nỗ lực để tồn tại trong khi làm việc để kiếm sống. Các nhà khoa học, mặt khác, thực
hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm hay những cánh đồng thử nghiệm trong
những điều kiện giả định, nhân tạo, trong khi người dân địa phương thực hiện
nghiên cứu trong điều kiện tự nhiên ở các cánh đồng hay ở nơi nào đó mà họ
thường làm việc.
Kiến thức khoa học được xuất phát từ các nhà khoa học chuyên nghiệp và
thường được ghi chép lại trong khi kiến thức bản địa thường không được ghi chép.
Bên cạnh đó, tri thức bản địa sinh ra trong một văn hóa ở những dạng khác nhau
16
như các thực hành văn hóa, phong tục, tập quán, tôn giáo và tín ngưỡng, nghi lễ,
văn học dân gian, dân ca, truyền thuyết và tục ngữ. Không giống tri thức khoa học,
tri thức bản địa ngầm ẩn và khó để cho người ngoài hiểu được. Tri thức khoa học
được tiêu chuẩn hóa và được thể hiện bằng các thuật ngữ có tính toàn cầu, tri thức
bản địa không mang tính tiêu chuẩn hóa và được thể hiện bằng ngôn ngữ địa
phương. Ở phương diện này, tri thức bản địa nhìn chung không thể di chuyển được
ra khỏi khu vực của mình trong khi tri thức khoa học có khả năng ứng dụng toàn
cầu. Do vậy, khoa học được xem là một hệ thống tri thức toàn cầu trong khi tri thức
bản địa mang tính đặc thù địa phương và được xem là ít có khả năng ứng dụng ở
bên ngoài biên giới lãnh thổ của mình.
Tri thức bản địa là kiến thức sinh kế trong khi khoa học là kiến thức của kinh
tế thị trường. Kiến thức bản địa là các kỹ thuật cho việc sản xuất theo quy mô nhỏ,
đáp ứng nhu cầu của gia đình, trong khi khoa học dựa trên sản xuất quy mô lớn để
cung cấp cho thị trường quốc gia, quốc tế. Những người sống trong nền kinh tế sinh
kế, tự cung, tự cấp thường sản xuất ra đủ đáp ứng cho nhu cầu của gia đình mình
mà không quá cố gắng chế ngự thiên nhiên hay khai thác nó một cách quá đáng. Họ
phát triển những công nghệ hài hòa với tự nhiên.
Các nhà khoa học phương Tây khám phá tự nhiên và xã hội để tìm hiểu quy
luật cho các hiện tượng khác nhau và tìm kiếm sự giải thích cho các quan hệ đã được

xác định. Kết quả là họ xây dựng nên những lý thuyết để sử dụng cho những dự đoán
và tạo nên những công nghệ ứng dụng thực tiễn của kiến thức. Người dân địa phương
cũng giống như những nhà khoa học, khám phá tự nhiên và xã hội trong khung cảnh
riêng của họ, nhưng không giống như các nhà khoa học, họ không tìm kiếm những
giải thích chi tiết, bởi vậy, những mối quan hệ đã được xác định tồn tại dưới dạng các
niềm tin. Niềm tin trở thành mong đợi của họ, khiến họ không quan tâm đến việc đi
tìm câu giải thích chi tiết, bởi vậy, tri thức bản địa đầy rẫy những niềm tin mà không
thể giải thích một cách duy lý được. Tri thức bản địa là không duy lý và mang tính
mô tả trong khi khoa học phương Tây là duy lý và mang tính phân tích.
17
Ngày nay, tri thức bản địa đang được đề cao vì nhiều lý do. Tuy vậy, không
phải vì thế mà chúng ta quá nghi ngờ những tri thức khoa học mà bao thế hệ các
nhà khoa học đã sáng tạo ra cho thế giới. Hơn thế, không phải những kiến thức bản
địa nào cũng được sử dụng như nhau và phát huy được hiệu quả trong bối cảnh mới.
Một số tri thức bản địa rất có thể không có hiệu quả hoặc thậm chí lại có hại và kìm
hãm sự phát triển. Điều kiện hình thành tri thức bản địa trước kia đã ít nhiều khác
với bối cảnh xã hội hiện nay, chính vì vậy, tri thức bản địa được hình thành trong
những điều kiện ấy khó thích hợp với điều kiện xã hội bây giờ. Do vậy, áp dụng tri
thức bản địa không nên thực hiện một cách máy móc.
Tri thức bản địa đã được hình thành qua nhiều thế kỷ, nhiều thế hệ. Sự sản
sinh ấy vẫn còn tiếp diễn trong các xã hội hiện nay ở trong các cộng đồng nhất định
và trong một bối cảnh mới. Những tri thức ấy cũng đáng quý như những tri thức
trước đây được sản sinh bởi cha ông người dân tộc bản địa. Thông qua sự kết hợp
với khoa học hiện đại, những tri thức bản địa ấy sẽ ngày càng trở nên có giá trị hơn.
1.2. Đặc điểm của tri thức bản địa
Tri thức bản địa có đặc tính phân cấp độ thuộc lứa tuổi, giới tính và đặc điểm
của nhóm xã hội. Có những tri thức chung, được tất cả mọi người trong cộng đồng
hiểu biết; có những tri thức bản địa tồn tại theo gia đình, dòng họ chỉ phạm vi một
số người hiểu biết; lại có những tri thức chuyên nghiệp – chuyên biệt, chỉ có ở một
số ít người mang tính đặc thù, ví dụ: bà mụ đỡ đẻ, thợ phác ghè làm gốm, thợ rà che

nấu đường muỗng…
Tri thức bản địa được hình thành trực tiếp từ lao động của mọi người dân trong
cộng đồng được hoàn thiện củng cố dần và truyền lại cho thế hệ sau bằng truyền khẩu,
bằng các bài hát, ngôn ngữ, luật tục, Để phân tích các đặc trưng của tri thức bản địa,
G.Broding và M. Schonberger đã lập bảng so sánh tri thức bản địa với tri thức hàn lâm
(Academic knowledge) vốn dĩ của giới khoa học tồn tại ở các viện nghiên cứu, trường
đại học. So sánh này được thể hiện ở bảng 5:
18
Bảng 5: So sánh tri thức bản địa và tri thức hàn lâm
Tri thức bản địa Tri thức hàn lâm
Truyền miệng Truyền bằng văn bản
Học qua quan sát và thực hành Học qua lý thuyết được ứng dụng
Tiếp cận tổng thể hay hệ thống Tiếp cận đơn lẻ bộ phận
Kiểu suy nghĩa trực giác Lý luận phân tích và quy nạp
Chủ yếu định tính Chủ yếu định lượng
Dữ liệu do người lao động làm ra (có tính
đại chúng)
Dữ liệu thu thập bởi các nhà chuyên
môn (có tính cá biệt)
Dữ liệu dùng ngôn từ bản địa (địa phương) Dùng ngôn ngữ đương đại
Môi trường như một bộ phận của những
mối quan hệ xã hội – thần linh
Quản lý môi trường có tổ chức, có thứ
bậc, ngăn nắp
Dựa trên những kinh nghiệm thu thập và
tích luỹ
Dựa trên các định luật và học thuyết
khoa học
(Nguồn: Đề tài:” Nghiên cứu một số giá trị tri thức bản địa, đề xuất các giải pháp
bảo tồn và phát huy để góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi” -

Đoàn Ngọc Khôi, Nguyễn Diên Xướng, Phan Đình Độ, năm 2012)
Như vậy các khái niệm tri thức truyền thống (tradition knowledge), tri thức
bản địa (Indigenous Knowledge), tri thức địa phương (local knowledge) đều đề cập
đến kinh nghiệm thuần thục của cộng đồng cư dân địa phương đã có quá trình
nghiệm sinh trong một thời gian dài, được xác định chắc chắn ở một vùng, một dân
tộc bản địa hay ở một cộng đồng địa phương. Tri thức bản địa được bảo lưu trong ký
ức cộng đồng và hoàn thiện qua kế thừa phát triển của các thế hệ trong cộng đồng.
Ngoài ra, đặc điểm của hai hệ thống kiến thức hiện hành được mô tả và thảo
luận trong bảng 6:
19
Bảng 6: Đặc điểm của hai hệ thống kiến thức hiện hành
Hệ thống kiến thức hàn lâm Hệ thống tri thức bản địa truyền thống
Ngữ nghĩa trong nghiên cứu hiện tượng
- Chuyên dụng, cục bộ
- Dựa vào thí nghiệm hoàn chỉnh
- Tổng quát, chính thể luận
- Dựa vào sự quan sát (và những
thực nghiệm phi chính quy)
Tính chất sử dụng tài nguyên
- Phụ thuộc vào tài nguyên bên
ngoài
- Đầu vào cao
- Chuyên sâu vào đất đai
- Tiết kiệm lao động
- Rủi ro thị trường
- Chiến lược thích ứng chuyên sâu
- Phụ thuộc vào tài nguyên địa
phương
- Đầu vào thấp
- Quảng canh đất đai

- Đòi hỏi lao động (thường là lao
động thủ công)
- Rủi ro môi trường
- Chiến lược thích ứng đa dạng
Đầu ra
- Năng suất thấp trong trường hợp
năng lượng đầu vào thấp
- Có sự phân tách về văn hoá
- Mục đích cho lợi nhuận
- Có nguy cơ sự suy thoái cao
- Không bền vững
- Năng suất thấp trong trường hợp
đầu vào lao động thấp
- Tương thích văn hoá
- Có ít nguy cơ cho sự suy thoái
- Bền vững với mật độ cư dân thấp
(Nguồn: guon-tai-nguyen-
rung-477/ )
Qua bảng trên ta thấy rõ được về mặt ngữ nghĩa trong nghiên cứu hiện
tượng, tri thức hàn lâm được nghiên cứu chính thống về mặt thời gian có thể ngắn
hoặc dài nhưng dựa trên hệ thống kiến thức mang tính kế thừa, được kết luận thông
qua kết quả của quá trình thí nghiệm hoàn chỉnh. Hệ thống tri thức bản địa mang
tính tổng quát, được rút ra từ sự quan sát ghi nhận, phân tích theo tính tự phát. Thí
nghiệm phi chính quy thường được thực hiện với thời gian dài. Theo tính chất sử
dụng tài nguyên và đầu ra của hệ thống, tri thức bản địa truyền thống thường chú
20
trọng vào tiềm năng địa phương và sản xuất theo công thức: “Đầu tư thấp – năng
suất thấp”.
Các đặc tính cơ bản của tri thức bản địa bao gồm:
- Tính hệ thống là đặc tính cơ bản của tri thức bản địa, khả năng bao hàm

rộng lớn ở nhiều lĩnh vực như: nông nghiệp (kỹ thuật xen canh, chăn nuôi, quản lý
sâu bệnh, đa dạng cây trồng, chăm sóc sức khoẻ vật nuôi, chọn giống cây trồng);
sinh học (thực vật học, kỹ thuật chăn nuôi); chăm sóc sức khoẻ con người (bằng các
phương thuốc truyền thống); sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên … nên việc
nghiên cứu tri thức bản địa phải xem xét trong mối liên quan tổng thể trong cộng
đồng, các vấn đề đều có mối liên quan.
- Tính tiếp biến và tích hợp, luôn vận động thích ứng với hoàn cảnh môi
trường là đặc tính quan trọng của tri thức bản địa. Chính đặc tính này khiến cho tri
thức bản địa luôn tồn tại và phát triển trong mọi hoàn cảnh.
- Tính đồng quy cũng là một đặc tính của tri thức bản địa, hầu hết đó là sự
đồng quy về kỹ thuật bản địa, do đó đôi khi rất khó xác định một kỹ thuật hoặc một
phương pháp là bản địa; nó được nhập từ bên ngoài, hay đó là một sự kết hợp giữa
các yếu tố địa phương và kiến thức được đưa đến địa phương đó.
Tri thức bản địa được hình thành trong hoạt động sống, thường xuyên được
kiểm nghiệm qua quá trình sử dụng, luôn có sự chọn lọc trong quá trình vận động
của cuộc sống để ngày càng thích nghi với môi trường của các cộng đồng người.
Nhìn chung tri thức bản địa có một số đặc điểm sau:
1- Đặc thù cho mỗi khu vực, mỗi cộng đồng nhất định.
2- Dựa trên những kinh nghiệm được tích lũy, kế thừa từ đời này qua đời
khác qua những kênh thông tin thầm lặng.
3- Có quá trình nghiệm sinh (vận động thử nghiệm, tích luỹ và hoàn thiện
theo thời gian trong hoạt động sống của con người). Phù hợp với môi trường, văn
hóa từng vùng, từng cộng đồng, tộc người.
4- Vận động và thay đổi phù hợp với những điều kiện mới, cơ cấu xã hội mới.
21
5- Tri thức bản địa được giữ trong ký ức và trong hoạt động sản xuất của
người dân và được trao lại cho thế hệ sau bằng phương pháp giáo dục truyền nghề
dân gian.
Tri thức bản địa được chia sẻ và truyền bá thông qua ngôn ngữ nói, bằng các
ví dụ cụ thể và thông qua luật tục, tập quán, văn hoá của cộng đồng. Các hình thức

giao tiếp và tổ chức của cộng đồng có ý nghĩa sống còn đối với các quá trình ra
quyết định ở cấp độ địa phương; có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo tồn, phát triển
và phổ biến các tri thức bản địa
Như vậy, tri thức bản địa mang tính đặc thù cho mỗi khu vực, mỗi cộng đồng
nhất định. Nó dựa trên những kinh nghiệm được tích lũy, thừa kế từ người này qua
người khác, đời này sang đời khác. Tri thức bản địa được phản ánh trong những bài
dân ca, câu chuyện, truyền thuyết và những thực hành văn hóa của người bản địa.
Đôi khi nó được bảo tồn dưới dạng trí nhớ, nghi thức, lễ thức hay điệu múa. Đôi khi
nó được lưu giữ dưới dạng những vật dụng được lưu truyền từ đời này sang đời
khác hay từ mẹ sang con gái. Trong các hệ thống tri thức bản địa, thường không có
sự cách biệt giữa kiến thức tôn giáo, thể tục và thực hành, chúng chỉ là một vài sự
giống nhau.
Hướng tới mục tiêu đó, đề tài nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu
các kiến thức và kinh nghiệm của người Thái trắng (Song Khủa) trong quản lý, bảo
vệ và sử dụng tài nguyên rừng làm cơ sở thông tin cho các nhà làm công tác bảo tồn
và phát triển chọn lọc để áp dụng trong việc bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên
rừng, góp phần cai thiện đời sống cho người dân địa phương.
22

×