Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TRANG

PH¸P LUËT Về ƯU ĐÃI ĐầU TƯ ĐốI VớI CáC DOANH NGHIệP
TRONG KHU CÔNG NGHIệP HIệN NAY - MộT Số VấN Đề
Lý LN Vµ THùC TIƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TRANG

PH¸P LUËT Về ƯU ĐÃI ĐầU TƯ ĐốI VớI CáC DOANH NGHIệP
TRONG KHU CÔNG NGHIệP HIệN NAY - MộT Số VấN Đề
Lý LN Vµ THùC TIƠN
Chun ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Trang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƢU ĐÃI ĐẦU TƢ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI ĐẦU TƢ ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG NGHIỆP ....................... 7
1.1.

Tổng quan về khu công nghiệp và các doanh nghiệp trong

khu công nghiệp................................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại khu công nghiệp ................................. 7
1.1.2. Các doanh nghiệp trong khu cơng nghiệp........................................... 12
1.1.3. Vai trị điều chỉnh pháp luật về khu công nghiệp ............................... 15
1.2.

Khái quát về ƣu đãi đầu tƣ và pháp luật về ƣu đãi đầu tƣ đối
với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ................................. 17

1.2.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của ưu đãi đầu tư ................................... 17
1.2.2. Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu
công nghiệp ......................................................................................... 23
1.2.3. Quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp trong
khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay ............................................... 27
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI ĐẦU TƢ
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG
NGHIỆP Ở VIỆT NAM .................................................................. 31
2.1.

Nội dung pháp luật về ƣu đãi đầu tƣ đối với các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp ....................................................... 31

2.1.1. Đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư .................................................. 31


2.1.2. Lĩnh vực ưu đãi đầu tư ........................................................................ 38
2.1.3. Nội dung các ưu đãi đầu tư ................................................................. 40
2.2.


Pháp luật về thủ tục thực hiện ƣu đãi đầu tƣ trong khu
công nghiệp ....................................................................................... 58

2.2.1. Phân định thẩm quyền quản lý nhà nước ............................................ 58
2.2.2. Thủ tục cấp, điều chỉnh và bổ sung ưu đãi đầu tư .............................. 60
2.2.3. Vấn đề áp dụng và bảo đảm ưu đãi đầu tư .......................................... 63
2.3.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về ƣu đãi đầu tƣ đối với doanh
nghiệp trong khu công nghiệp hiện nay .......................................... 64

2.3.1. Thực tiễn thực thi pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với doanh
nghiệp trong KCN ............................................................................... 64
2.3.2. Những bấp cập và tồn tại của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với
các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ........................................... 68
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 80
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG CHUNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ƢU ĐÃI ĐẦU TƢ ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG NGHIỆP ................. 81
3.1.

Yêu cầu điều chỉnh và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về ƣu
đãi đầu tƣ đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ........... 81

3.1.1. Yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp .................................................. 81
3.1.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp .................................................. 83
3.2.


Một số kiến nghị hoàn thiện về nội dung các quy định về ƣu
đãi đầu tƣ ........................................................................................... 86

3.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện về thủ tục thực hiện ƣu đãi đầu tƣ ....... 90

Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN

: Association of Southeast Asian Nation - Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á

CIEM

: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

CNH, HĐH

: Công nghiệp hoá, hiên đại hoá

DN


: Doanh nghiệp

ĐTTN

: Đầu tư trong nước

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

FDI

: Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài

ODA

: Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển chính thức

KCN

: Khu cơng nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

KKT

: Khu kinh tế


KCNC

: Khu công nghệ cao

KT – XH

: Kinh tế - xã hội

TNCs

: Transnational Corporations – Tập đoàn xuyên quốc gia

TNDN

: Thu nhập doanh nghiệp

UBND

: Uỷ ban nhân dân

UNCTAD

: United Nations Conference on Trade and Development Diễn đàn của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển

VAT

: Thuế giá trị gia tăng

WEPZA


: World Expot Processing Zone Association - Hiệp hội thế
giới về khu chế xuất

WTO

: World Trade Organization - Tổ chức Thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ưu đãi đầu tư có tầm quan trọng chiến lược trong sự tăng trưởng kinh tế và
mang lại những tác động tích cực đến kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa
phương. Với mục tiêu góp phần tạo dựng môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi
cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh và cộng đồng doanh nghiệp, đẩy mạnh thu hút
đầu tư cho sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam
ln chú trọng xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư nhằm tạo ra một khung pháp
lý hồn thiện và phù hợp.
Các khu cơng nghiệp hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc đổi
mới, mở cửa nền kinh tế được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ VI. Qua các nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm
1986 đến nay đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát
triển khu cơng nghiệp; khẳng định vai trị của khu cơng nghiệp là một trong những
nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại.
Tính đến hết tháng 12/2013, cả nước có 288 khu cơng nghiệp được cấp giấy
chứng nhận đầu tư cho dự án phát triển kết cấu hạ tầng khu cơng nghiệp, trong đó có
190 khu công nghiệp đã thành lập và đi vào hoạt động. Như vậy, cịn 98 khu cơng
nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản [3].
Việc thiết lập một cơ chế về ưu đãi đầu tư phù hợp, bình đẳng, hiệu quả là một
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, địi hỏi nhà nước phải áp dụng tổng hợp và linh hoạt

nhiều cơ chế khác nhau phù hợp với thực tế của quốc gia và địi hỏi của hội nhập…
Trong đó hồn thiện các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với khu công
nghiệp là yêu cầu đặc biệt quan trọng.
Hơn 7 năm thực hiện Luật Đầu tư – đạo luật từng được xem là “một bước
tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư
tại Việt Nam”, đến nay Luật Đầu tư 2005 đã cho thấy khá nhiều điểm bất cập và

1


hạn chế trong đó các quy định về ưu đãi đầu tư. Yêu cầu sửa đổi Luật đầu tư đang là
một địi hỏi thiết yếu để hồn thiện đạo luật với vị trí là một trong những văn bản
quan trọng nhất về kinh doanh và đầu tư. Thiết nghĩ, việc xem xét, đánh giá một
cách có hệ thống và tồn diện về pháp luật ưu đãi đầu tư đối với khu cơng nghiệp
khơng chỉ góp phần hồn thiện pháp luật về ưu đãi đâu tư nói riêng mà cịn góp
phần xây dựng khung pháp luật đầu tư nói chung.
Thực tế trên đặt ra một yêu cầu cơ bản là làm sao để xây dựng một thể chế về
ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được vận hành tốt để
các chính sách đề ra phát huy hết các mặt mạnh của nó và đưa đến kết quả cuối cùng
là tăng trưởng ngày càng nhanh, càng mạnh cho nền kinh tế quốc gia. Với đề tài
“Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp hiện
nay – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” tác giả phác họa bức tranh tổng thể các
quy định về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp của Việt
Nam hiện nay. Trong luận văn này, tác giả cũng đề cập đến thực tiễn thi hành các quy
định của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu cơng nghiệp
từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống các quy phạm pháp luật về ưu đãi
đầu tư nói chung, trong đó tập trung cụ thể vào nghiên cứu chi tiết và toàn diện các
quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư, các biện pháp ưu đãi đầu tư đối với các

doanh nghiệp trong khu công nghiệp, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn triển khai các
quy định này trên thực tế để từ đó đánh giá đúng hiệu quả và kiến nghị các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư của Việt Nam nói chung và pháp luật về ưu đãi
đầu tư đối với các doanh nghiệp tại địa bàn đặc thù là các khu công nghiệp nói riêng.
Xuất phát từ mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài được xác định là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về ưu đãi đầu tư nói chung, ưu đãi đầu tư đối với các
doanh nghiệp trong khu cơng nghiệp nói riêng và vai trị của pháp luật có liên quan;
- Phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư đối với các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp và thực tiễn áp dụng;

2


- Trên cơ sở phân tích những điểm hạn chế trong quy định và thực tiễn áp
dụng các ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp từ đó đưa ra
một số kiến nghị hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Với mong muốn chủ động đóng góp ý kiến để hồn thiện mơi trường pháp lý
minh bạch, bình đẳng, phù hợp với thực tế, thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp,
Luận văn này hy vọng nhận được sự đánh giá, ủng hộ của các thầy cơ trong hội
đồng, theo đó thúc đẩy việc sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành trong thời
gian sớm nhất, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo doanh nghiệp. Đây cũng là một
trong những hành động thiết thực thực hiện theo phương châm chuyển từ một Nhà
nước quản lý điều hành sang một Nhà nước kiến tạo và phát triển.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Về ưu đãi đầu tư, từ trước đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau như: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Lệ Thu; “Pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh Quảng
Ngãi”, của tác giả Phạm Thị Thanh Ngọc; “So sánh luật khuyến khích đầu tư
trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của Phạm Thị Hải Yến;
“Hồn thiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước” của Hoàng Minh Sơn;

“Hội nhập khu vực quốc tế về kinh tế và những vấn đề đặt ra với khung pháp lý về
đầu tư” của Lê Thanh Nga v.v…
Các cơng trình nghiên cứu trên từ các góc độ khác nhau đã phân tích, đánh
giá pháp luật về ưu đãi đầu tư nói chung. Tuy nhiên, mỗi cơng trình có sự nhìn nhận
từ các khía cạnh khác nhau, cũng có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến các
vấn đề về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu cơng nghiệp song chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, báo quát và đi sâu vào đánh giá các
quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp hiện nay.
Đây là luận văn thạc sĩ luật học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về
pháp luật ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay. Luận văn: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp

3


trong Khu công nghiệp hiện nay – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” có những
đóng góp cơ bản sau:
- Giải quyết tương đối đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận cơ
bản về ưu đãi đầu tư và pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
trong khu công nghiệp;
- Chứng minh sự cần thiết của các quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư đối
với môi trường đầu tư tại các khu cơng nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung;
- Đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp của Việt Nam đồng thời nêu lên những kết quả
đã đạt được và các bất cập tồn tại trong thực tiễn thực hiện các quy định về ưu đãi
đầu tư tại các khu công nghiệp;
- Từ những vấn đề lý luận, yêu cầu của thực tiễn, tác giả đưa ra một kiến
nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về các ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư áp dụng đối với các dự án đầu tư vào Khu công nghiệp bao gồm nhưng
không giới hạn trong các quy định về biện pháp ưu đãi đầu tư (ưu đãi về sử dụng
đất, thuế, khấu hao tài sản cố định, chuyển lỗ) và các hỗ trợ đầu tư khác, quy định
về thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư....
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số
nước trên thế giới, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng, triển khai các quy định về
ưu đãi đầu tư tại một số khu cơng nghiệp từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện quy
định của pháp luật về vấn đề nêu trên.
5. Tổng quan tài liệu
Dựa trên cơ sở các quy định của Pháp luật về Đầu tư, các văn bản pháp luật
về Đất đai, Thuế, các văn bản pháp luật về khu công nghiệp, dự thảo Luật Đầu tư …

4


cùng với các báo cáo tổng kết, rà soát, đánh giá thực tiễn, các bài viết, ý kiến tranh
luận của các chun gia và các cơng trình nghiên cứu khác… Tài liệu tham khảo
từng nội dung cụ thể được trích dẫn trong Luận văn.
6. Nội dung nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chỉ tập trung vào tìm hiểu 2 vấn đề
lớn: (i) Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về ưu đãi đầu tư đối với các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp; (ii) Thực tiễn triển khai các quy định này tại
các khu cơng nghiệp. Ngồi ra, luận văn cịn tìm hiểu các quy định về vấn đề này
trong pháp luật một số nước khác trên thế giới để so sánh, làm sáng tỏ hơn vấn đề
cần nghiên cứu từ đó kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu
tư nói chung và thu hút đầu tư tại các khu cơng nghiệp nói riêng.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cơ bản vận dụng để thực hiện Luận văn là:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng.
- Phương pháp luận duy vật lịch sử.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
8. Địa điểm nghiên cứu
Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp luận văn bên cạnh việc tập hợp số
liệu từ các báo cáo, các nghiên cứu, phân tích khoa học, nguồn internet… luận văn
tập trung chủ yếu vào khai thác các số liệu từ một số khu cơng nghiệp. Do thời gian
nghiên cứu có hạn, hơn nữa luận văn chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu của cá nhân
nên trong phạm vi đề tài địa điểm khảo sát thực tế của luận văn chủ yếu tập trung ở
một số khu công nghiệp ở các tỉnh phía bắc bao gồm nhưng khơng giới hạn trong
các khu công nghiệp: KCN Quế Võ và Quế Võ mở rộng – Bắc Ninh; KCN Đại
Đồng Hoàn Sơn – Bắc Ninh; KCN Nam Sơn Hạp Lĩnh – Bắc Ninh; KCN Quang
Châu – Bắc Giang; KCN Tràng Duệ - Hải Phòng; KCN Tràng Cát – Hải Phòng;
KCN Phương Nam – Quảng Ninh…

5


9. Kết cấu đề tài
Ngồi lời nói đầu, kết luật và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về ưu đãi đầu tư và pháp luật về ưu đãi đầu
tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp
trong khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Định hướng chung và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ƢU ĐÃI ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ƢU ĐÃI ĐẦU TƢ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
TRONG KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Tổng quan về khu công nghiệp và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại khu công nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật
ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm nhiều hình
thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau.
Theo nghĩa thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập, tập trung nhiều
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, tùy điều kiện từng nước mà KCN có
những nội dung hoạt động kinh tế khác nhau. Do vậy, ở các nước khác nhau có những
quan niệm khác nhau về KCN và mơ hình phát triển KCN khác nhau. Ở một số
nước, KCN được hiểu là các công viên công nghiệp (Industrial Park) hoặc là các
cụm cơng nghiệp (Industrial Clusters). Có những KCN hoạt động chuyên về sản
xuất hàng xuất khẩu với quy chế miễn thuế nhập khẩu được gọi là Khu chế xuất
(KCX) (Export Processing Zones) hoặc có những KCN là Khu cơng nghệ cao
(Hight tech centres) hoặc khu công nghệ cao là một bộ phận của KCN. Ngồi ra,
KCN cịn có những hình thái biến tướng như khu cơng nghệ sinh học (Bio
Technology Park), khu công nghệ sinh thái (Eco Industrial Park)….
Tuy nhiên, tựu chung lại, hiện nay, trên thế giới về cơ bản tồn tại hai mơ
hình phát triển KCN:
Mơ hình thứ nhất: KCN là khu vực lãnh thổ rộng tập trung nhiều hoạt động
kinh tế: sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại,
văn phòng, nhà ở... KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính - kinh
tế đặc biệt như KCN thương mại Indonesia, các công viên công nghiệp ở Đài Loan,

Thái Lan, Philippin và một số nước Tây Âu. Ở Thái Lan và Philippin, KCN được
quan niệm như một thành phố cơng nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và

7


độc lập. Ngoài việc cung cấp kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích cơng cộng hồn
chỉnh và xử lý chất thải, KCN cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng,
trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho cơng nhân… Các KCN
ở Thái Lan và Inđơnêxia thường có 3 bộ phận chủ yếu: Khu sản xuất hàng tiêu thụ nội
địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Mơ hình thứ hai: “KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghệ và dịch vụ sản xuất công nghiệp, khơng có dân
cư sinh sống”. Theo quan điểm này, ở một số nước như Malaixia, Indonesia, Thái
Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều KCN với qui mơ khác nhau.
Hai mơ hình trên, dẫn đến hai định nghĩa khác nhau về KCN. Tuy nhiên,
ngồi định nghĩa trên, cũng có quan niệm lại cho rằng, KCN là một khu vực phụ,
không nhất thiết phải có sự ngăn cách, biệt lập bởi trên thực tế có nhiều tập đồn và
tổ hợp cơng nghiệp với một chuỗi đồ sộ các xí nghiệp, nhà máy liên kết với nhau
trên một khu vực rộng lớn. Việc bố trí mặt bằng các khu sản xuất trên quy mơ lớn
như vậy hình thành một loại hình tổ chức mới của KCN mà khơng nhất thiết phải có
quy mơ đặc thù.
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) trong tài liệu KCX ở các nước đang phát triển cơng bố năm 1990, thì
KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm
mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách
cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư mậu dịch thuận
lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà.
Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (WEPZA) thì KCX là tất cả
các khu vực được chính phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự

do, Khu mậu dịch tự do, KCN tự do hay bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực
khác được tổ chức này công nhận. Thực tế cho thấy, do nhu cầu phát triển của
thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng xuất phát từ u cầu bức
thiết của q trình cơng nghiệp hố hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển
nên khái niệm trên đã được bổ sung thành những quan niệm mới như Khu kinh tế mở,
Đặc khu kinh tế, Thành phố mở….

8


Tuy những quan niệm trên có một số khác nhau về nội hàm KCN song về cơ
bản đều thống nhất ở những đặc trưng sau:
Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục tiêu
xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có mơi trường kinh doanh
đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách ưu đãi kinh tế (đặc
biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là nơi có vị trí thuận lợi cho
việc phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ đầu tư trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết
cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính, chính sách tài chính
tiền tệ, mơi trường đầu tư…
Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự phát
triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa lý riêng biệt
thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở
tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép xây dựng và phát triển.
Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách hướng
ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngồi vào phát triển các loại hình sản xuất
kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính sách KT - XH mở
cửa của một nước.
Như vậy, KCN là một thuật ngữ chỉ một vùng lãnh thổ quốc gia được xác
định ranh giới địa lý rõ ràng. Trong đó, các doanh nghiệp cơng nghiệp tập trung đầu
tư, hoạt động, phát triển do có kết cấu hạ tầng tốt, có mơi trường kinh doanh tốt (ưu

đãi của nhà nước về đất đai, tài chính) và có thị trường tốt (thị trường đầu vào, đầu
ra và dịch vụ). Đây là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung, chun mơn hóa sản
xuất cơng nghiệp theo lãnh thổ, là hình thức tổ chức sản xuất cơng nghiệp phù hợp
với u cầu của q trình CNH, HĐH nền kinh tế.
Ở Việt Nam, Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, Tập 2, Hà Nội, 2002. Thì:
"Khu cơng nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp, do chính phủ thành lập hay cho phép thành lập" [34].
Khái niệm về KCN được quy định trong Khoản 20, Điều 1, Luật Đầu tư
2005 thì: "Khu cơng nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện

9


các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập
theo quy định của Chính phủ" [44].
Nghị định 29/2008/NĐ-CP quy định về KCN, KCX và khu kinh tế cũng đưa ra
khái niệm KCN như sau: “Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này” [10, Điều 2].
Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là KCN tập trung, khơng
có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề hạ tầng và ô nhiễm mơi trường, có
phân biệt với các vùng cơng nghiệp (bao gồm nhiều KCN), với các khu kinh tế (có bộ
máy quản lý hành chính độc lập). Theo quan niệm của Việt Nam, các KCX (chuyên
sản xuất hàng hóa xuất khẩu và dịch vụ cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu), khu cơng
nghệ cao (tập trung các doanh nghiệp có cơng nghệ cao hoặc doanh nghiệp dịch vụ cho
các doanh nghiệp có cơng nghệ cao) chỉ là hình thái đặc thù của KCN. KCN có thể
được thành lập bởi cơ quan nhà nước ở Trung ương (theo quyết định của thủ tướng
Chính phủ) hoặc các KCN, cụm cơng nghiệp do chính quyền địa phương (UBND tỉnh)
thành lập. Trong phạm vi Luận văn này, tác giả chỉ đề cập tới vấn đề ưu đãi đầu tư của
các KCN được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

1.1.1.2. Đặc điểm của các khu cơng nghiệp
Các KCN nói chung có thể có sự khác nhau về quy mô, địa điểm, thẩm
quyền thành lập và phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng nói chung các KCN
có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Về tính chất hoạt động: KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà khơng có dân cư (gọi
chung là doanh nghiệp KCN). KCN được thành lập theo quy hoạch và có ranh giới
riêng tách biệt với các khu vực lân cận khác. Đó là nơi xây dựng để thu hút các đơn
vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị doanh nghiệp dịch vụ gắn liền
với sản xuất công nghiệp.
- Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá; hệ thống

10


điện, nước, điện thoại... đạt các tiêu chuẩn quy định phục vụ trực tiếp cho hoạt động
của các doanh nghiệp trong KCN. Ở Việt Nam, thông thường việc phát triển cơ sở
hạ tầng trong KCN do là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các Công ty phát triển cơ sở
hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng và sau đó được phép cho các doanh
nghiệp khác thuê lại đất đã có cơ sở hạ tầng để phát triển dự án đầu tư.
- Về tổ chức quản lý: Các Khu Công nghiệp thường được đặt dưới sự quản lý của
một cơ quan quản lý nhà nước chuyên biệt. Ví dụ như Trung Quốc: Luật doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi của Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa (Law of the People’s
Republic of China on Foreign-Capital Enterprise) đã phân cấp thẩm quyền quản lý các
dự án đầu tư vào KCN cho Ban quản lý KCN. Chính phủ Trung Quốc còn cho phép
thành lập các Ban quản lý riêng cho những KCN có diện tích lớn (trên 500 ha).
Ở Việt Nam, hầu hết các KCN đều thành lập hệ thống Ban quản lý KCN cấp
tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý

Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN. Ngoài ra tham gia vào
quản lý tại các KCN cịn có nhiều cơ quan quản lý nhà nước như: Bộ kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng...
1.1.1.3. Phân loại khu cơng nghiệp
Có nhiều cách phân loại KCN, nhưng tác giả đồng ý với các cách phân loại
như sau:
- Phân loại KCN theo tính chất ngành nghề: gồm 4 loại
+ KCN chuyên ngành: được hình thành từ các xí nghiệp cơng nghiệp cùng
một ngành hoặc một số ít ngành cơng nghiệp khác nhau nhưng cùng sản xuất ra một
số loại sản phẩm, chủ yếu hình thành từ các ngành chủ đạo như hố chất-hố dầu,
điện tử-tin học, vật liệu xây dựng, chế tạo và lắp ráp cơ khí (gang thép Thái Ngun,
hố chất Việt trì, lọc dầu Dung Quất).
+ KCN đa ngành: gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều ngành cơng nghiệp khác
nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn được yêu cầu về lãnh thổ cho sản xuất công
nghiệp, song trong quy hoạch xây dựng cần lưu ý vấn đề môi trường nhằm hạn chế tác
động ảnh hưởng xấu giữa các xí nghiệp khác nhau, tiết kiệm đầu tư hạ tầng.

11


+ KCN sinh thái: là mơ hình mang tính cộng sinh công nghiệp. Các ngành
công nghiệp được lựa chọn sao cho các nhà máy có mối liên hệ với nhau, hỗ trợ và
tương tác với nhau tạo nên môi trường sạch và bền vững. Với mơ hình này thì phế
liệu của nhà máy này có thể làm nguyên liệu cho nhà máy kia, hoặc sản phẩm của
nhà máy này sẽ là nguyên liệu, vật tư của nhà máy kia.
+ KCN hỗn hợp: là KCN có đầy đủ các yếu tố của KCN đa ngành, trong đó
chia ra các khu chuyên ngành, khu có u cầu cơng nghệ cao, có tổ chức dịch vụ
như vui chơi, giải trí, bệnh viện, trường học… đảm bảo đời sống của người lao
động trong KCN và dân nhập cư.
- Phân loại theo quy mô diện tích phân làm các loại KCN nhỏ, trung bình,

lớn và rất lớn. Theo tiêu chí này phụ thuộc quan điểm của từng nước về kích cỡ
KCN, chủ yếu để nhằm phân biệt xếp hạng KCN.
- Phân loại theo đặc điểm quản lý thì có các loại:
+ KCN tập trung: Có thể là đa ngành, chun ngành, có quy mơ diện tích
khác nhau, được hình thành với các điều kiện khác nhau.
+ KCX: Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
+ KCNC: Là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các
đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao gồm nghiên cứu, triển
khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan.
+ CCN: Cụm công nghiệp là tên gọi chung cho các cụm công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, thực chất là KCN tập trung nhưng có quy mơ nhỏ do UBND cấp tỉnh
quyết định thành lập (hoặc phân cấp quyết định thành lập) theo quy hoạch phát triển
công nghiệp trên địa bàn để bố trí các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và ngành nghề truyền thống trong diện di dời khỏi nội thành, nội thị hoặc các
khu dân cư tập trung, và thu hút các dự án đầu tư mới với quy mô vừa và nhỏ.
1.1.2. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
KCN là khu vực tập trung các hoạt động sản xuất công nghiệp nên hình thức
đầu tư của các nhà đầu tư khi đầu tư vào KCN thường là thành lập các doanh nghiệp

12


sản xuất. Mặt khác, KCN là địa bàn thu hút đầu tư không chỉ trong nước mà chủ
yếu là nguồn đầu tư nước ngoài nên xét theo quan hệ sở hữu vốn doanh nghiệp có
thể phân biệt các doanh nghiệp trong KCN thành hai nhóm là các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Ở tại Trung Quốc, để phân biệt với doanh nghiệp trong nước, pháp luật về
đầu tư nước ngồi cịn đưa ra ba hình thức đầu tư cụ thể như sau:
- Liên doanh vốn (Equity Joint Venture)(“EJV”);

- Hợp tác liên doanh (Cooperative Joint Venture)(“CJV”);
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (wholly foreign-owned enterprise
(“WFOE”).
Ở Việt Nam, các KCN là khu vực tập trung thu hút rất nhiều doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi được thành lập theo hình thức có thể là cơng ty 100% vốn
nước ngồi hoặc cơng ty liên doanh với liên doanh Việt Nam.
Như vậy, xét về nguồn vốn thì ở các KCN của Việt Nam đang tồn tại ba
nhóm doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài;
- Doanh nghiệp liên doanh giữa nhà ĐTTN và nhà ĐTNN;
- Doanh nghiệp trong nước.
Dù khác biệt về nguồn vốn đầu tư nhưng khi đầu tư vào KCN các doanh
nghiệp này đều được quản lý theo một quy chế chung, hưởng các tiện ích và điều
kiện chung. Những điều kiện này tạo ra sự khác biệt nhất định so với các doanh
nghiệp ngoài địa bàn KCN, cụ thể:
* Khác biệt giữa các doanh nghiệp trong KCN và doanh nghiệp ngoài KCN
Về cơ cấu ngành: Trong KCN có cả các ngành truyền thống mà trong nước
có lợi thế so sánh và cả các ngành công nghiệp mới như điện tử, công nghệ thông
tin, công nghệ lắp ráp v.v.. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp ngồi KCN, doanh
nghiệp trong các KCN thường có phạm vi hoạt động hẹp hơn. Nguyên nhân do mỗi
khu công nghiệp thường chuyên biệt về sản xuất trong một số lĩnh vực riêng được
ghi nhận trong điều lệ KCN đó. Việc quy hoạch chuyên biệt một hoặc một số điều

13


kiện cụ thể nhằm đảm bảo sự đáp ứng thống nhất về điều kiện hạ tầng, kiểm soát,
quản lý chất thải, bảo vệ môi trường và công tác quản lý…
Về điều kiện cơ sở vật chất: Các doanh nghiệp trong KCN sử dụng chung kết
cấu hạ tầng như hệ thống cung cấp điện, nước; chung hệ thống xử lý nước thải, khí

thải và các loại chất thải khác; chung giá thành sử dụng cơ sở hạ tầng và các dịch vụ
liên quan. Đầu ra của các doanh nghiệp cịn có thể gắn bó với nhau như sản phẩm
của nhà máy này còn là linh kiện phụ tùng cho sản phẩm của nhà máy kia, hoặc là
nguyên liệu cho nhà máy kia…Vì vậy, các xí nghiệp này tiết kiệm tối đa chi phí sản
xuất, hạ giá thành của sản phẩm.
Các ưu đãi từ phía Chính phủ: Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng
quy chế riêng và ưu đãi riêng theo quy định của Chính phủ và cơ quan nhà nước tại
địa phương sở tại với chính sách kinh tế đặc thù hoặc các ưu đãi nhằm thu hút vốn
đầu tư từ bên ngồi, tạo mơi trường đầu tư thuận lợi hấp dẫn cho phép các nhà đầu
tư trong và ngoài nước sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong KCN để
thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ
tục xin phép và thuê đất, miễn hoặc giảm thuế.
So sánh với KCX: KCX là khu vực thu hút các dự án đầu tư sản xuất hàng
hóa để xuất khẩu. Quan hệ giữa các doanh nghiệp chế xuất với thị trường nội địa là
quan hệ ngoại thương cũng giống như quan hệ giữa thị trường trong nước và thị
trường nước ngồi. KCX là khu thương mại tự do, bởi vì hàng hố từ KCX ra nước
ngồi và từ nước ngồi vào KCX không phải chịu thuế xuất nhập khẩu và ít bị ràng
buộc bởi hàng rào phi thuế quan. Còn quan hệ giữa các doanh nghiệp KCN với thị
trường nội địa là quan hệ nội thương (trừ doanh nghiệp chế xuất trong KCN được
hưởng ưu đãi như doanh nghiệp trong KCX). Các nhà đầu tư nước ngoài thường
quan tâm đến hình thức KCN, nhằm tận dụng lợi thế về thị trường nội địa.
Về tổ chức quản lý: Khác với các doanh nghiệp bên ngoài KCN, hoạt động
quản lý nhà nước đối với các KCN thường được thực hiện bởi các cơ quan quản lý
nhà nước chuyên biệt.
Ở Việt Nam, Ban quản lý KCN do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành

14


lập và chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế, chương trình kế hoạch cơng

tác và kinh phí hoạt động của UBND cấp tỉnh; chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm
tra về chuyên môn nghiệp vụ của các Bộ, ngành.
Như vậy, doanh nghiệp trong KCN và doanh nghiệp ngồi KCN có những
đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay
mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. KCN thường được nhận một sự ưu tiên
nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ với vai trò thúc đẩy phát
triển kinh tế vùng (địa phương).
Hiện nay, ở nước ta đã xuất hiện hàng trăm các KCN vừa và nhỏ do Trung
ương thành lập và các cụm CN ở các địa phương của chính quyền địa phương (cấp
tỉnh, thành phố). Mặc dù có một số đặc điểm đặc thù như quy mô thường nhỏ hơn,
ảnh hưởng thường hẹp hơn nhưng về bản chất không có sự khác biệt so với các
KCN của Trung ương.
Nói tóm lại, sự ra đời của các KCN nhằm mục đích cung cấp các điều kiện
về kết cấu hạ tầng tốt nhất cho việc xây dựng và vận hành của các cơ sở sản xuất
công nghiệp đặc biệt là hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào nước sở tại
sẽ có được đầy đủ điều kiện mặt bằng, đường sá, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ
thống xử lý nước thải… để sản xuất kinh doanh mang lại lợi ích cho cả hai phía.
1.1.3. Vai trị điều chỉnh pháp luật về khu cơng nghiệp
Việc hình thành các KCN là một địi hỏi tất yếu khơng chỉ đáp ứng mục tiêu
phát triển sản xuất cơng nghiệp nói chung mà xét về khía cạnh pháp lý, đặc biệt là
quản lý nhà nước, các quy định pháp luật về khu cơng nghiệp cịn giữ vai trị quan
trọng, cụ thể:
Thứ nhất, góp phần tạo lập và duy trì khu kinh tế tập trung:
Các quy định pháp luật về khu công nghiệp là cơ sở để thiết lập và phát triển
một khu vực kinh tế đặc thù - tập hợp các doanh nghiệp sản xuất cơng nghiệp.
Trong đó, việc thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài vào những khu vực riêng
biệt với những quy chế đặc thù, hình thức hoạt động khác biệt là một hoạt động cần
thiết phục vụ mục tiêu nhất định của quốc gia sở tại như phát triển sản xuất công

15



nghiệp, bảo vệ môi trường… Như vậy, các quy định pháp luật về KCN góp phần
thiết lập và duy trì các KCN là khu vực được xác định không chỉ về ranh giới địa lý
mà cịn có một ranh giới pháp lý rõ ràng. Tại các KCN, Nhà nước có thể áp dụng
đồng bộ một cơ chế quản lý hành chính đơn giản, thuận tiện, hiệu quả phù hợp với
yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động đặc thù của KCN.
Thứ hai, góp phần tạo ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp:
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và thường được
xây dựng tập trung theo chiều dọc (sản phẩm của nhà máy này là ngun liệu của
nhà máy khác). Mơ hình bố trí như vậy giúp các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết
đầu vào và tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong KCN. Trên thực tế,
nhiều khu công nghiệp là tập hợp của một chuỗi liên hoàn các doanh nghiệp sản
xuất để làm ra ra một sản phẩm nhất định. Chuỗi doanh nghiệp này sẽ bao gồm một
doanh nghiệp sản xuất chính và các doanh nghiệp vệ tinh (chuyên sản xuất linh kiện
và các thiết bị phụ tùng cho sản phẩm chính).
Thứ ba, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội: Xây dựng các
KCN đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề một cách đồng bộ như: quy hoạch, xây
dựng cơ sở hạ tầng trong và ngồi KCN, sử dụng đất đai có hiệu quả, đào tạo và
tuyển dụng lao động, đảm bảo an ninh trật tự, cung cấp các dịch vụ, tổ chức đời
sống văn hố, giáo dục, tác động đơ thị hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng thơn…
giải quyết tốt các mối quan hệ trên chính là tạo sự phát triển bền vững.
Thứ tư, góp phần giải quyết vấn đề về môi trường tại địa phương: Xây dựng
KCN không những thu hút đầu tư mới mà cịn có điều kiện để di dời các sở sở công
nghiệp xây dựng ở các vị trí khơng thích hợp. Đó là các nghiệp cơng nghiệp được
xây dựng trước đây do không quy hoạch dài hạn, nên khi có nhu cầu đẩy mạnh phát
triển cơng nghiệp thì các doanh nghiệp này khơng có địa bàn mở rộng quy mơ hoặc
các doanh nghiệp bố trí xen lẫn với khu dân cư, khu hành chính, trường học… gây
ra tình trạng ơ nhiễm mơi trường. Việc tập trung các doanh nghiệp sản xuất vào các
KCN vừa tạo điều kiện quản lý tập trung các doanh nghiệp sản xuất vừa tạo điều

kiện kiểm soát được tốt hơn mức độ ô nhiễm bằng các quy định pháp luật về vấn đề

16


xử lý môi trường ngay từ khâu quy hoạch. Hơn nữa việc quản lý và xử lý vấn đề về
môi trường ở một khu vực tập trung như KCN sẽ tích kiệm chi phí tốt nhất do có sự
liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nước.
1.2. Khái quát về ƣu đãi đầu tƣ và pháp luật về ƣu đãi đầu tƣ đối với các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp
1.2.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của ưu đãi đầu tư
1.2.1.1. Khái niệm ưu đãi đầu tư
Trước khi bỏ vốn để đầu tư một dự án thì nhà đầu tư phải tìm hiểu hiện tại:
Lĩnh vực nào được nhà nước ưu đãi?, địa bàn nào đang được ưu đãi ?, mức ưu đãi,
thời hạn ưu đãi quy định cụ thể ra sao? …để có thể lựa chọn và quyết định đầu tư
một cách có hiệu quả và mang lại lợi nhuận tối đa. Hầu hết các quốc gia đều sử
dụng các công cụ ưu đãi, khuyến khích đầu tư dưới hình thức này hay hình thức
khác vì các cơng cụ ưu đãi đầu tư đều có khả năng sử dụng rất đa dạng để thu hút sự
quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngồi nước đối với nền kinh tế, kích thích nhà
đầu tư bỏ vốn đầu tư vào những lĩnh vực, khu vực nhất định. Một mặt khác, thực
hiện ưu đãi đầu tư cũng chính là hoạt động quản lý của nhà nước trong lĩnh vực đầu
tư. Vậy ưu đãi đầu tư là gì?
Theo định nghĩa của Diễn đàn của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) thì: Khuyến khích đầu tư hay cịn gọi là ưu đãi đầu tư là các biện pháp
được Chính phủ sử dụng để thu hút đầu tư, hướng các dự án đầu tư vào các ngành các
khu vực cần thiết hoặc ảnh hưởng đến tính chất của đầu tư. Có thể hiểu ưu đãi đầu tư
là tập hợp của nhiều biện pháp xúc tác rất đa dạng và phong phú để thu hút đầu tư.
Nhìn chung, trên thế giới, ưu đãi đầu tư có thể quy về hai nhóm chính: chính sách thuế
khóa (tax policy) và chính sách khác khơng phải là thuế (non-tax policy) [4].
Ở Việt Nam, hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất và chính thức về

“ưu đãi đầu tư”. Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam còn tồn tại song song
nhiều thuật ngữ khác nhau như: “Ưu đãi đầu tư”, “hỗ trợ đầu tư” được sử dụng
trong Luật đầu tư 2005; “khuyến khích đầu tư” được sử dụng trong các văn bản
pháp luật về thuế… Tuy nhiên, những ưu đãi đầu tư đều được cụ thể hóa bằng

17


những quy định mang tính hiện thực và được xác định rõ trong các văn bản pháp
luật để nhà đầu tư xác định rõ, nắm bắt và thực hiện. Có thể thấy rằng, ưu đãi đầu tư
mang tính chất là một sự khẳng định đã được luật hóa, là những cam kết rõ ràng về
việc các nhà đầu tư sẽ được đối xử một cách ưu đãi khi bỏ vốn đầu tư vào một hoặc
một số lĩnh vực, khu vực nhất định. Từ đó, có thể hiểu một cách khái quát khái
niệm về ưu đãi đầu tư như sau: Ưu đãi đầu tư là những cam kết cụ thể của nhà nước
dành cho các nhà đầu tư khi đầu tư tại nước tiếp nhận đầu tư, đồng thời để được
hưởng ưu đãi đầu tư thì nhà đầu tư phải đáp ứng được một số điều kiện do pháp
luật nước tiếp nhận đầu tư quy định.
Pháp luật về ưu đãi đầu tư là hệ thống những quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư,
thương mại. Mục đích của pháp luật ưu đãi đầu tư trước hết là nhằm thu hút các nhà
đầu tư bỏ vốn của họ đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cụ thể. Việc
hướng các quan hệ trong lĩnh vực đầu tư theo một trật tự có định hướng, đảm bảo
đầy đủ các quyền và lợi ích cho nhà đầu tư là nội dung quan trọng của quản lý nhà
nước trong lĩnh vực này. Nhà nước không chỉ quản lý hoạt động đầu tư bằng các
nghị quyết, chủ trương, đường lối mà cần phải cụ thể hoá các nghị quyết, chủ
trương ấy thành pháp luật, đảm bảo một hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư
phát triển. Có làm được điều này, Nhà nước mới có thể phát huy hết quyền lực và
vai trị quản lý của mình trong lĩnh vực đầu tư. Pháp luật về ưu đãi đầu tư có hợp lý
và hiệu quả thì mới đảm bảo được mơi trường bình đẳng mà ở đó các nhà đầu tư có
thể phát huy hết năng lực của mình.

1.2.1.2. Bản chất của ưu đãi đầu tư
Ưu đãi đầu tư phản ánh mối quan hệ lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư:
Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể quyết định các biện pháp ưu đãi; nhà
đầu tư là chủ thể nhận ưu đãi; khách thể của quan hệ này chính là các ưu đãi cụ thể
như các khoản lợi về thuế, tiền thuê đất… Mục đích của việc cấp ưu đãi là nhà nước
mong muốn chủ thể được nhận ưu đãi - các nhà đầu tư - đầu tư vào một số địa bàn
và lĩnh vực nhất định theo định hướng phát triển kinh tế.

18


Dưới một góc độ khác, chúng ta có thể hiểu, ưu đãi đầu tư là các cam kết
của Nhà nước đối với nhà đầu tư: Các ưu đãi cụ thể đó có thể thay đổi theo từng
thời kỳ tùy theo tình hình kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể nhưng cam kết của Nhà
nước là không thay đổi bởi nó được đảm bảo bằng một bản “hợp đồng” được ký kết
giữa Nhà nước và nhà đầu tư, đó chính là các điều khoản quy định về ưu đãi tại
Giấy chứng nhận đầu tư mà Nhà nước cấp cho nhà đầu tư.
1.2.1.3. Vai trò của ưu đãi đầu tư
Việc soạn thảo, sử dụng và thực thi các chính sách ưu đãi đầu tư nhằm
khuyến khích, hỗ trợ, thu hút và định hướng các hoạt động kinh doanh hiện nay vẫn
cịn nhiều tranh luận khơng có hồi kết về mục tiêu và hiệu quả thực sự của các chính
sách ưu đãi đầu tư.
Quan điểm ủng hộ việc sử dụng các chính sách và biện pháp ưu đãi đầu tư
khẳng định nhu cầu cần thiết của việc sử dụng những chính sách này để có thể cạnh
tranh một cách hiệu quả với các quốc gia khác và chính sách ưu đãi có thể sử dụng
để làm giảm thiểu những nhược điểm cơ bản của một số địa phương. Nói cách khác,
các chính sách ưu đãi có vai trị hỗ trợ để bù đắp và phần nào khắc phục những
nhược điểm của thị trường. Ví dụ, các chính sách ưu đãi đầu tư được sử dụng để
khuyến khích đầu tư ngồi quốc doanh vào những địa phương kém phát triển kinh
tế (hoặc để khuyến khích các doanh nghiệp di rời ra khỏi các khu vực có mật độ đầu

tư quá dày); một số hình thức kinh doanh đặc biệt mang lại lợi ích cho sự phát triển
kinh tế hoặc xã hội; các ngành công nghiệp chế tạo hướng về xuất khẩu; các ngành
sản xuất sử dụng nhiều lao động và tạo ra nhiều công ăn việc làm…[35, tr.5].
Quan điểm phê phán chính sách ưu đãi đầu tư hầu như đồng ý rằng trong
trường hợp tốt nhất, các chính sách ưu đãi đầu tư chỉ có vai trị như một giải pháp
mang tính ngắn hạn. Nhưng vì là các giải pháp mang tính tình thế cho nên các chính
sách đầu tư khơng thể giúp chính quyền giải quyết các nhược điểm cơ bản của địa
phương, thậm chí có thể làm sao nhãng việc giải quyết các nhược điểm này. Quan
điểm này cho rằng: Các chính sách đầu tư thường khơng đạt hiệu quả cao so với các
chi phí mà Nhà nước bỏ ra. Mặt khác, các nhân tố cơ bản chi phối các quyết định

19


×