Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

bài tổng kết nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.44 KB, 25 trang )

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài:
- Sinh viên thực hiện:
- Lớp:

Khoa:

Năm thứ:

Số năm đào tạo:

- Người hướng dẫn:
2. Mục tiêu đề tài:
3. Tính mới và sáng tạo:
4. Kết quả nghiên cứu:

5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài:

6. Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ họ tên
tác giả, nhan đề và các yếu tố về xuất bản nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã
áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
Ngày
tháng


năm
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)

Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực
hiện đề tài (phần này do người hướng dẫn ghi):

Xác nhận của lãnh đạo khoa

Ngày
tháng
Người hướng dẫn

năm


(ký, họ và tên)

(ký, họ và tên)

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:

Ảnh 4x6

Họ và tên:
Sinh ngày:

tháng

năm

Nơi sinh:
Lớp:

Khóa:

Khoa:
Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại:

Email:

II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm
đang học):
* Năm thứ 1:
Ngành học:

Khoa:

Kết quả xếp loại học tập:
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 2:

Ngành học:

Khoa:

Kết quả xếp loại học tập:
Sơ lược thành tích:
...

Xác nhận của lãnh đạo khoa

Ngày
tháng
năm
Sinh viên chịu trách nhiệm chính


(ký, họ và tên)

thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)

Các thành viên tham gia nghiên cứu đề tài :
1. Lê Trần Phước An

Lớp D13QM02

2. Lưu Thị Mận

Lớp D13QM02


3. Cao Thị Mai Phương

Lớp D13QM02

4. Nguyễn Văn Vũ

Lớp D13QM02

5. Nguyễn Thành Ngọc Lâm

Lớp D13QM02

MỤC LỤC
I.
II.
III.

Danh mục bảng biểu
Danh mục những từ viết tắt
Mở đầu:
III.1
Lý do chọn đề tài:
Dân số Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn tập trung ở khu vực nông thôn,
chiếm
gần 70% (TCTK, 2010). Trong những năm gần đây, ở khu vực nông thôn,
mặc dù tỷ lệ dân số có giảm, nhưng vẫn ở mức cao. Quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động tương đối chậm, tuy nhiên cơ cấu ngành sản xuất
ở nông thôn đang ngày càng đa dạng và được đẩy mạnh.
Song song với sự chuyển biến tích cực, nông thôn Việt Nam vẫn còn bộc lộ
những hạn chế, yếu kém: phát triển thiếu quy hoạch, tự phát, kết cấu hạ tầng

kỹ thuật và hạ tầng xã hội còn lạc hậu, vệ sinh môi trường nông thôn còn
nhiều vấn đề bất cập, cả nước hiện còn hơn 400 nghìn nhà ở tạm bợ. Hầu hết
nhà ở nông thôn được xây không có quy hoạch, quy chuẩn. Chính những hạn
chế, yếu kém này kéo theo tình trạng ô nhiễm môi trường nông thôn đang ở
mức báo động ở nhiều nơi.
Một trong những nguyên nhân chính của ô nhiễm môi trường nông thôn là
do CTR từ hoạt động nông nghiệp, chăn nuôi, sự lạm dụng thuốc bảo vệ
thực vật, phân bón trong sản xuất nông nghiệp, CTR từ hoạt động làng nghề
và rác thải từ sinh hoạt. Bắc Tân Uyên là huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh
Bình Dương, với diện tích tự nhiên 40.087,67 ha với dân số khoảng trên
58.439 người; Bắc Tân Uyên lấy nông nghiệp là ngành mũi nhọn để phát
triển kinh tế, cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp chiếm 46,20%. Điều kiện khí
hậu, đất đai, thổ nhưỡng thuận lợi cho quá trình phát triển nền kinh tế nông


nghiệp; trong đó thế mạnh là phát triển các cây công nghiệp có giá trị kinh tế
cao như cao su, cam, tiêu, điều và một số cây ăn trái…
Chính vì những lợi thế về phát triển nông nghiệp của huyện Bắc Tân Uyên
dẫn đến sự phát sinh ra lượng chất thải rắn từ các hoạt động sản xuất nông
nghiệp gây ô nhiễm nặng nề đến môi trường nông thôn. Do đây là vùng sâu
của tỉnh nên các biện pháp xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải rắn nông
nghiệp chưa được áp dụng rộng rãi. Một phần là do người dận chưa biết
được tầm quan trọng và lợi ích của việc tái chế và tái sử dụng chất thải rắn
trong nông nghiệp, đặc biệt là các chất thải trong lĩnh vực chăn nuôi.
Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn thực hiện đề tài: “Khảo sát hiệu suất tái
sử dụng, tái chế chất thải rắn nông nghiệp trên địa bàn huyện Bắc Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương” ” nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách nêu trên và
ứng dụng vào thực tiễn.
III.2
Mục tiêu của đề tài:

Đánh giá hiệu suất tái sử dụng, tái chế chất thải rắn nông nghiệp (CTRNN)
trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Từ đó, đề xuất giải
pháp quản lý hiệu quả rác thải nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu giúp các
nhà quản lý có thể dễ dàng quản lý cũng như kiểm soát các vấn đề ô nhiễm
môi trường.
Mục tiêu đề tài:
Đánh giá hiệu suất tái sử dụng, tái chế chất thải rắn nông nghiệp (CTRNN) trên
địa bàn huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Từ đó, đề xuất giải pháp quản lý hiệu
quả rác thải nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Hiện trạng chất thải rắn nông nghiệp trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu
Không gian: huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
Thời gian: Từ tháng 10/2015 đến 01.2016

III.3

Các phương pháp nghiên cứu:


*Phương pháp nghiên cứu cơ sở lý thuyết
Tìm hiểu các tài liệu liên quan đến CTRNN như nguồn gốc, phân loại và thành
phần CTRNN và ảnh hưởng của nó tới môi trường và sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra,
nhóm nghiên cứu còn tìm hiểu các hoạt động tái chế, tái sử dụng CTRNN từ các giáo
trình cũng như các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan. Qua tìm hiểu sơ bộ,
nhóm tác giả xin thống kê một số nội dung liên quan đến đề tài theo sơ đồ sau:
Bao
Bao bì
bì hóa

hóa chất
chất thuốc
thuốc
BVTV, phân
phân bón
bón
BVTV,
CTR
CTR sinh
sinh hoạt
hoạt
Trồng
Trồng trọt
trọt

Phế
Phế phẩm
phẩm nông
nông nghiệp
nghiệp
(Rơm, rạ,
rạ, trấu,...)
trấu,...)
(Rơm,
CTR
CTR nông
nông thôn
thôn

CTR

CTR làng
làng nghề
nghề

Bao
Bao bì

CTR
CTR nông
nông nghiệp
nghiệp

Chăn
Chăn nuôi
nuôi

Thức
Thức ăn
ăn thừa
thừa

Nuôi
Nuôi trồng
trồng thủy
thủy hải
hải sản
sản

Phân
Phân thải

thải

Sản
Sản xuất
xuất phân
phân compost
compost

Khí
Khí sinh
sinh học
học (biogas)
(biogas)

Chế
Chế biến
biến thức
thức ăn
ăn nuôi
nuôi trồng
trồng
thủy sản
sản
thủy
Các
Các giải
giải pháp
pháp tái
tái chế,
chế, tái

tái sử
sử
dụng CTRNN
CTRNN
dụng
Sản
Sản xuất
xuất nhiên
nhiên liệu
liệu (than
(than trấu)
trấu)

Thu
Thu mua
mua tái
tái chế
chế

Tái
Tái sử
sử dụng
dụng (bao
(bao bì,
bì, làm
làm thức
thức
ăn chăn
chăn nuôi)
nuôi)

ăn


Hình 1. Thành phần CTR nông nghiệp, nông thôn và Các giải pháp tái chế, tái
sử dụng CTRNN
*Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp:
Thu thập tài liệu có liên quan như: Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Đặc biệt, quan tâm đến số liệu liên quan
đến hoạt động nông nghiệp trên địa bàn, như:
Hoạt động trồng trọt: Cây lâu năm, hàng năm, lâm nghiệp,…
Hoạt động chăn nuôi: Đại gia súc, gia súc, gia cầm,…
Thu thập số liệu về công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTRNN tại huyện
Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Số liệu sơ cấp:
Điều tra, khảo sát đồng thời thu thập các số liệu, thông tin về CTRNN phát sinh
từ các trang trại, hộ gia đình trên địa bàn.
Điều tra, khảo sát đồng thời thu thập các số liệu về hình thức cũng như lượng tái
chế, tái sử dụng CTRNN từ các trang trại, hộ gia đình và các cơ sở, nhà máy tái chế
(Nhà máy sản xuất phân compost, nhà máy chế biến thức ăn nuôi trồng thủy sản,
nhà máy sản xuất than trấu,…),…..
*Phương pháp khảo sát thực tế
Đối tượng khảo sát: hệ thống thu gom, vận chuyển và xử lý CTRNN trên địa
bàn huyện Bắc Tân Uyên; Các trang trại, hộ gia đình và các cơ sở tái chế CTRNN.
Thời gian khảo sát: từ 10/2015 đến 01/2016
Nội dung khảo sát:
Tham quan tìm hiểu thực tế hệ thống thu gom và trung chuyển, vận chuyển và xử lý
CTRNN trên địa bàn huyện Phú Giáo.
Tình hình phân loại, thu gom và xử lý CTRNN từ các trang trại và hộ gia đình.
Tình hình tái chế, tái sử dụng CTRNN từ các trang trại, hộ gia đình và cơ sở thu

mua, tái chế.
Lộ trình thực hiện: khảo sát các trang trại, hộ dân và các cơ sở thu mua, tái chế
CTRNN trên địa bàn theo thứ tự địa giới hành chính (Có ghi chép và đánh dấu lộ trình
thực hiện trên nhật ký).
Phương tiện thực hiện: gồm máy chụp hình, sổ tay, bút.


*Phương pháp xã hội học
Lập phiếu điều tra phỏng vấn xã hội học, gồm những nội dung sau: nguồn gốc,
thành phần, khối lượng phát sinh CTRNN từ các trang trại, hộ gia đình,…
Đối tượng phỏng vấn: Các trang trại trồng trọt, trang trại chăn nuôi, hộ gia đình và
các cơ sở thu mua, nhà máy tái chế CTRNN,…
Đối với trang trại, hộ gia đình: tiến hành điều tra, phỏng vấn trên tất cả các xã, thị
trấn trong địa bàn (1 thị trấn, 10 xã). Với mỗi xã, thị trấn, nhóm sẽ lựa chọn phỏng vấn
các đối tượng đại diện theo quy mô hoạt động ở hai lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.
Quy mô hoạt động được trình bày như bảng dưới đây:

Bảng 1. Định mức quy mô hoạt động trồng trọt và chăn nuôi
STT

Hoạt
động

Quy

Tran
g trại

1


Trồng
trọt
Hộ
gia
đình

2

Chăn
nuôi

Loại hình

Định mức

Cây lâu năm
Cây hàng năm
Lâm nghiệp
Khác (Trồng hoa, cây cảnh, trồng
nấm,…)
Cây lâu năm
Cây hàng năm

> 5 ha
> 3ha
> 10 ha
> 50 triệu
đồng/ năm
Nhỏ hơn
các định

mức của
trang trại
chăn nuôi
> 50 con
> 100 con
>
2000
con
> 50 triệu
đồng/ năm
Nhỏ hơn
các định

Khác (Trồng hoa, cây cảnh, trồng
nấm,…)
Đại gia súc
Gia súc

Tran
g trại

Gia cầm
Khác (Nuôi ong, nuôi yến,…)

Hộ
gia

Đại gia súc
Gia súc
Gia cầm



đình

Khác (Nuôi ong, nuôi yến,…)

mức
trang

của
trại

Nguồn: Thống kê theo thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNNPTNT-TCTK của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn -Tổng cục Thống kê về hướng dẫn tiêu chí
để xác định kinh tế trang trại.
Đối với cơ sở thu mua, nhà máy tái chế CTRNN: phỏng vấn tất cả các cơ sở, nhà
máy trên địa bàn.
Số lượng: Dựa vào bảng 1, số mẫu đại diện tối thiểu cần thực hiện điều tra, phỏng
vấn đối với mỗi xã, thị trấn là 7 mẫu (đối với hoạt động trồng trọt) và 8 mẫu (đối với
hoạt động chăn nuôi). Như vậy, với số lượng 10 xã và 1 thị trấn, nhóm ước tính lượng
phiếu xã hội học cần cho nghiên cứu là khoảng 500 phiếu.
Phạm vi phỏng vấn: trên địa bàn huyện Phú Giáo.
Nội dung phỏng vấn:
Đối với trang trại, hộ gia đình: tình hình sử dụng thuốc BVTV, phân bón, thức ăn
chăn nuôi (lượng, loại, số ngày sử dụng trong năm,…); Khối lượng, thành phần phát
sinh và tình hình tái sử dụng và xử lý CTRNN,…
Đối với cơ sở thu mua, nhà máy tái chế CTRNN: nguồn gốc, khối lượng, thành
phần CTRNN thu mua, tái chế; tần suất thu mua, tái chế,…
Hình thức phỏng vấn: phỏng vấn trực tiếp, phát phiếu điều tra.
*Phương pháp ước tính

Tổng khối lượng CTRNN phát sinh trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên trong một
ngày
MPS = MTTPS + MCNPS
MTTPS = MTTBB + MTTPP
MCNPS = MCNBB + MCNTA + MCNP
Trong đó,
MPS là tổng khối lượng CTRNN phát sinh trên địa bàn trong một ngày


MTTPS, MCNPS lần lượt là tổng khối lượng CTRNN phát sinh trong một ngày của tất
cả các trang trại, hộ gia đình hoạt động trồng trọt và chăn nuôi trên địa bàn.
MTTBB, MTTPP lần lượt là tổng khối lượng bao bì thuốc BVTV, phân bón và tổng khối
lượng phế phẩm nông nghiệp phát sinh trên địa bàn trong 1 ngày.
MCNBB, MCNTA, MCNP lần lượt là tổng khối lượng bao bì thức ăn chăn nuôi, tổng khối
lượng thức ăn thừa và tổng khối lượng phân thải từ hoạt động chăn nuôi phát sinh
trên địa bàn trong 1 ngày.
Tổng khối lượng CTRNN trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên được tái sử dụng, tái
chế trong một ngày:
MT = MT1 + MT2+ MT3+ MT4
Trong đó,
MT là tổng khối lượng CTRNN trên địa bàn được tái sử dụng, tái chế trong một
ngày
MT1, MT2, MT3 và MT4 lần lượt là tổng khối lượng CTRNN trên địa bàn được tái sử
dụng bởi tất cả các trang trại, hộ gia đình trong 1 ngày; tổng khối lượng CTRNN được
thu mua tại các cơ sở thu mua phế liệu trong 1 ngày; tổng khối lượng CTRNN được tái
chế bởi hộ gia đình (biogas, phân hữu cơ, thức ăn chăn nuôi,..) trong 1 ngày và tổng
khối lượng CTRNN được tái chế bởi các nhà máy, cơ sở tái chế (sản xuất phân
compost, sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản, sản xuất than trấu làm nhiên liệu,…)
trong 1 ngày.
Hiệu suất tái chế, tái sử dụng CTRNN:

H = MT / MPS x 100
Lượng CTRNN thất thoát:
MTT = MPS - MT


*Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu về khối lượng CTRNN phát sinh tại các trang trại, hộ gia đình sẽ được
tổng hợp lại bằng phần mềm excel, sau đó đưa ra một số liệu thống nhất trình bày dưới
dạng bảng với các thông số đại diện phục vụ cho các mục đích xử lý khác nhau.
IV.

Cơ sở lý thuyết:
IV.1
Tổng quan về chất thải rắn nông nghiệp:
IV.1.1 Nguồn gốc phát sinh, thành phần và phân loại CTRNN:

CTR nông nghiệp là CTR phát sinh từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: trồng
trọt, thu hoạch bảo quản và sơ chế nông sản, các CTR sinh ra từ hoạt động chăn nuôi,
giết mổ động vật, chế biến sữa…
Nguồn gốc phát sinh CTRNN từ nhiều nguồn khác nhau.
Thành phần CTRNN gồm nhiều chủng loại khác nhau, phần lớn là các thành phần có
thể phân hủy sinh học như phân gia súc, rơm rạ, chất thải từ chăn nuôi, giết mổ động
vật và một phần là các chất thải khó phân hủy và độc hại. CTRNN phụ thuộc nhiều vào
nguồn phát sinh và mang đặc tính của các loại hình nông nghiệp.
Thành phần chính của CTRNN gồm: phế phụ phẩm từ trồng trọt, rơm rạ, trấu, cám
thân, lá cây, vỏ, lõi ngô; phân động vật, phân gia súc (lợn, trâu, bò, dê), phân gia cầm
(gà, vịt, ngan) ; bao bì đóng gói, chai lọ đựng thuốc BVTV, đựng thuốc trừ sâu; lọ
đựng thuốc thú y, túi đựng hóa chất nông nghiệp, phân bón; các bệnh phẩm, xác động
vật chết như gà toi, lở mồm lang móng, bò điên chứa các vi trùng gây bệnh, lông gia
súc;…

CTRNN thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về giống, thời vụ, yếu tố địa lý, tỉ trọng
các loại hình sản xuất và tập quán sản xuất.
Ứng với mỗi loại hình sản xuất nông nghiệp thì phát sinh các loại chất thải với đặc tính
lý hóa học cũng như sinh học là khác nhau. Ở các xã tỷ trọng trồng lúa chiếm đa số
hơn chăn nuôi nên CTRNN chủ yếu là rơm, rạ, trấu,vỏ thuốc sâu,vỏ bao phân còn ở
các xã chuyên chăn nuôi động vật thì CTRNN chủ yếu là phân chuồng . Ở các xã
chuyên trồng về cao su thì CTRNN chủ yếu lại là các thân, cây, lá,thuốc trừ sâu, bao
phân….Ở những nơi mà người dân có thói quen đốt rơm rạ ngay tại đồng ruộng để lấy
tro bón ruộng thì lượng rơm rạ được thu gom giảm đi đáng kể. Những nơi mà bà con
nông dân lạm dụng quá nhiều thuốc trừ sâu trừ cỏ thì thành phần CTNH sẽ cao (các vỏ
chai, lọ , túi đựng hoá chất, phân bón)...
-

Về phân loại: CTRNN được phân loại theo nguồn gốc phát sinh, tính nguy

hại, thành phần hóa học cũng như khả năng phân hủy sinh học.
 Theo nguồn gốc phát sinh, CTRNN gồm các phế phụ phẩm trồng trọt, từ


chăn nuôi và từ các bao bì đựng các hoá chất sử dụng trong nông nghiệp. Các phế phụ
phẩm trồng trọt gồm các loại phế thải trong quá trình thu hoạch và chế biến nhiều loại
cây trồng khác nhau như: các loại rơm rạ sau thu hoạch lúa tại các cánh đồng, các loại
lá, thân cây, cỏ dại tại các vườn cây, các phần giập úa và không sử dụng được ở các
ruộng rau khi thu hoạch.
Thông thường các phế phẩm nông nghiệp được người dân tận dụng tối đa để tái sử
dụng làm chất đốt, làm giá nấm, làm thức ăn gia súc, vật liệu độn chuồng hoặc vùi trở
lại vào đất, do đó khả năng tồn lưu gây ô nhiễm môi trường sẽ được loại bỏ.
Chất thải chăn nuôi là các loại phân chuồng từ chăn nuôi gia súc, gia cầm... Ở các khu
vực nông thôn mỗi năm phát sinh hàng trăm nghìn tấn phân động vật các loại. Số phân
động vật này chủ yếu được sử dụng cho mục đích bón cây, bón ruộng. Tuy nhiên việc

bố trí chuồng trại chăn nuôi chưa hợp lý nên đã gây ảnh hưởng tới môi trường sống của
các hộ dân. Ngoài ra, chất thải từ chăn nuôi còn bao gồm xác động vật ốm chết do dịch
bệnh, các thành phần không có hoặc ít có giá trị dinh dưỡng sau khi mổ động vật được
thải bỏ như: lông (gà, lợn, vịt), xương, vây cá và một phần chất thải từ chăn nuôi được
biết đến, đó là các phần thừa của rau củ làm thức ăn gia súc.
Chất thải từ các bao bì đựng các hoá chất sử dụng trong nông nghiệp gồm các chai lọ
can bằng thuỷ tinh hoặc nhựa được dùng làm vỏ đựng thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ,
thuốc diệt côn trùng, thuốc chữa bệnh cho động vật sau khi đã qua sử dụng được thải
bỏ, các túi nilon hoặc túi dứa, túi giấy dùng đựng phân bón vi sinh, phân lân, đạm và
kể cả các hoá chất BVTV đã quá hạn sử dụng... Đây là các vật phẩm có tính nguy hại
cao, cần phải có biện pháp thu gom và xử lý thích hợp.
 Theo tính chất nguy hại, CTRNN gồm 2 loại: CTRNN nguy hại và CTRNN
thông thường
CTRNN nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc các hợp chất gây nguy hại trực tiếp
hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất
khác gây nguy hại gián tiếp đến môi trường và sức khoẻ con người. Chúng có một
trong các thành phần như: các bệnh phẩm của động vật nhiễm bệnh (gà rù, lợn lở mồm
long móng, gà cúm, trâu bò điên...) ; đồ dùng thuỷ tinh (chai lọ đựng hoá chất BVTV
hoặc thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng, bả chuột; chai lọ đựng thuốc thú y đã qua sử
dụng, xylanh hỏng..) ; đồ nhựa (bình xịt hoá chất bảo vệ động thực vật, găng tay bảo
hộ...) ; kim loại ( bơm kim tiêm, dao mổ, các vật sắc nhọn khác,...) ; dược phẩm ( thuốc
thú y quá hạn sử dụng, thuốc còn sót trong vỏ đựng...) Nếu những chất thải này không
được tiêu huỷ sẽ gây nguy hại cho môi trường và sức khoẻ con người.


CTRNN thông thường gồm các CTRNN không chứa các chất và hợp chất có một trong
những đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại gián
tiếp tới môi trường và sức khoẻ con người.
Thực tế ở Bắc Tân Uyên, chúng ta rất khó để phân biệt được 2 loại chất thải rắn này.
Đặc biệt đối với những nông trại mà việc quản lý và phân loại ngay tại nguồn không

được chú trọng hoặc trong điều kiện có đại dịch bùng phát (như dịch cúm gà, dịch lợn
lở mồm long móng...)
 Theo thành phần hoá học, CTRNN còn được phân thành CTRNN hữu cơ,
CTRNN vô cơ. CTRNN hữu cơ bao gồm: các phế phụ phẩm trồng trọt (rơm, rạ, thân
ngô, lõi ngô, trấu, bã mía...), phân bón trong chăn nuôi và phụ phẩm quá trình giết mổ
động vật. Khoảng 95% lượng CTR hữu cơ trong nông nghiệp có khả năng tận dụng
làm phân bón hoặc thu hồi nhiệt lượng. CTRNN vô cơ bao gồm các túi đựng phân bón
hoá học, túi đựng thuốc trừ sâu,BVTV, chai lọ đựng thuốc trừ sâu, bình phun hoá chất
bảo vệ mùa màng đã hỏng... Tuy chúng chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng CTRNN
xong vấn đề đáng quan tâm nhất đối với các loại chất thải này đó là tính nguy hại của
chúng. Sau quá trình sử dụng các vật phẩm này luôn chứa một phần dư thừa của các
hoá chất nguy hại còn sót lại, mặt khác việc vứt bừa bãi các chất thải này trên đồng
ruộng đã và đang trở thành một mối nguy hiểm không nhỏ đối với những người nông
dân vì khi vỡ chúng trở thành các vật sắc nhọn dễ gây sát thương.

 Theo khả năng phân hủy sinh học: CTRNN còn được phân thành chất có khả
năng và không có khả năng phân hủy sinh học.
Khả năng phân hủy sinh học của CTRNN là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tiềm
năng tận dụng lại về năng lượng và nguyên liệu thong qua các quá trình phân hủy của
chúng.
Chất thải có khả năng phân hủy sinh học là các loại chất thải có thành phần hữu cơ cao
và chứa thành phần dinh dưỡng thuận lợi cho quá trình sinh trưởng của các vi sinh vật.
Các chất thải có khả năng phân hủy sinh học tốt như: phân động vật trong chăn nuôi,
cỏ dại, lá cây…, các chất có khả năng phân hủy sinh học kém hơn như: rơm rạ, than
cây.
Chất thải không có khả năng phân hủy sinh học là các chất vô cơ như: kim loại, nhựa,
thủy tinh.
CTR mang lại giá trị rất lớn về năng lượng và vật chất, chúng tạo nên giá trị kinh tế
đáng kể. Về năng lượng, hiện nay lượng CTRNN của nước ta ước tính hàng năm
khoảng 30 triệu tấn ( rơm rạ trấu bã mía ). Nếu tính giá trị sử dụng năng lượng thì nó

tương đương khoảng 20 triệu tấn than cám hoặc trên 9 triệu tấn dầu thô. Chính vì vậy,


nếu chúng ta sớm có kế hoạch khai thác sử dụng hợp lý với các chính sách phát triển
thích hợp thì nó sẽ trở thành một nguồn năng lượng đáng kể mang lại hiệu quả cao cả
về kinh tế-xã hội lẫn môi trường, bởi lẽ:
- Đây là nguồn năng lượng tái tạo, sản lượng khai thác năm sau cao hơn năm trước
(không mất đi khả năng dự trữ).
- Khí đốt, trung hoà về phát thải CO2
- Lượng phát thải SO2 coi như không có.
- Lượng NOx không đáng kể (đốt cháy ở nhiệt độ thấp).
- Nhiệt trị của một số loại CTRNN chủ tếu tương đối cao:
+ Nhiệt trị của trấu: 3.330 Kcal/kg
+ Nhiệt trị của rơm + ngọn, lá mía: 2.500 Kcal/kg
+ Nhiệt trị của bã mía là: 1.850 Kcal/kg
Theo số liệu thống kê của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và báo cáo đánh giá
nguồn trấu để sản xuất năng lượng thì cả nước hiện có 128 nhà máy xay xát công suất
trên 10 tấn/ca và hàng trăm điểm (cụm xay xát tư nhân) có công suất 2,5 tấn/h. Các
điểm này chỉ cách nhau khoảng 1km nên rất dễ dàng thu gom thành nơi tập trung để
xây dựng nhà máy cấp điện/ hơi cho các vùng nông thôn. Tuy nhiệt trị của các phế thải
nông nghiệp nói trên tương đối cao (hiện nay hầu hết ở các tỉnh miền Bắc và miền
Trung trừ một vài tỉnh như Phú Yên, Bình Định ) đều sử dụng làm chất đốt cho đun
nấu hộ gia đình, làm phân bón và 1 số việc khác..., nhưng ở các tỉnh phía Nam, chỉ một
phần nhỏ được sử dụng để đốt gạch, số còn lại đến nay chưa có kế hoạch sử dụng và
chủ yếu đổ ra sông ngòi.
Bên cạnh những lợi ích kinh tế của các chất thải phát sinh trong quá trình trồng trọt và
thu hoạch, chế biến nông sản thì chất thải chăn nuôi cũng mang lại giá trị năng lượng
lớn có thể tận dụng gián tiếp thông qua quá trình lên men thu hồi biogas. Hiện nay trên
phạm vi cả nước có hàng triệu hầm biogas. Khu vực nông thôn phía Bắc, chỉ tính riêng
huyện Đan Phượng, Hà Tây năm 2002 đã xây dựng được 3000 hầm, đạt mục tiêu dự án

thí điểm của chính phủ.
IV.1.2 Tác hại của chất thải rắn nông nhiệp:
Tác hại của CTRNN đến môi trường đất là không đáng kể vì thành phần của chúng chủ
yếu là chất hữu cơ có tác dụng tốt đối với đất và cây trồng. Tuy nhiên nếu các biện
pháp sử dụng lại CTRNN làm phân bón không hợp lý như sử dụng phân tươi động vật
chưa qua ủ hoặc sử dụng quá nhiều sẽ dẫn đến ảnh hưởng xấu đến môi trường đất, làm
gia tăng dịch bệnh và cây trồng không có khả năng hấp thụ trực tiếp các chất dinh
dưỡng. Ngoài ra việc thải bỏ bừa bãi các loại chất thải vô cơ, đặc biệt là các chất thải


mang tính nguy hại một cách bừa bãi sẽ góp phần làm thoái hoá đất, giảm độ xốp và
màu mỡ.
Các tác động của CTRNN tới môi trường nước là các loại phân gia súc, gia cầm, các
loại chất thải nguy hại (các chai lọ dính hóa chất thuốc BVTV) không được thu gom
hợp lí bị rửa trôi, xâm nhập là tác nhân ô nhiễm vào các nguồn nước mặt cũng như
nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt.
Thói quen chăn nuôi chuồng trại gần nhà, không chú ý tiêu thoát nước thải từ chăn
nuôi đã gây ô nhiễm nguồn nước: tăng hàm lượng coliform, tăng hàm lượng các hóa
chất độc hại ; phân bón sử dụng tràn lan trên các đồng ruộng gây ra hiện tượng phì
dưỡng tại các mương tưới tiêu nội đồng.
Quá trình lưu trữ và tận dụng lai chưa hợp lí CTRNN cũng dẫn đến những ảnh hưởng
xấu đến môi trường không khí. Khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và mưa nhiều ở nước ta là
điều kiện thuận lợi cho các thành phần hữu cơ phân hủy, thúc đẩy nhanh quá trình lên
men, thối rửa và tạo mùi khó chịu cho con người. Các chất khí: H2S NH4, SO2,… phát
sinh trong quá trình phân hủy chất thải hữu cơ nông nghiệp ngay trên đồng ruộng,
trong các chuồng trại hoặc tại các đống phân xanh ủ là các tác nhân chủ yếu tác động
tới môi trường không khí của CTRNN.
IV.1.3 Các hình thức quản lý CTRNN:
Hình thức quản lý CTRNN có ý nghĩa lớn về môi trường, xã hội và kinh tế thông qua
hình thức thu gom, phân loại và vận chuyển; ngăn ngừa; tái sử dụng; tái chế chất thải.

Việc đưa ra các biện pháp quản lý thích hợp đối với chất thải nông nghiệp không chỉ
mang lại ý nghĩa to lớn về môi trường mà còn tận dụng được giá trị vật chất và năng
lượng một cách hiệu quả. Khi sử dụng các loại hoá chất BVTV, các loại phân bón, các
bình phun... cần tuân thủ đúng các quy trình an toàn sau khi sử dụng đối với bao bì
đựng chúng.
Các loại CTR nguy hại cần được thu gom riêng vào các thùng đựng chuyên dụng có
nắp đậy an toàn. Vị trí đặt các thùng chứa này có thể là ngay tại đồng ruộng nơi làm
việc để thuận tiện thu gom, sau đó cần đóng gói cẩn thận rồi đem đi tiêu huỷ (chú ý
khokng sử dụng lại vào các mục đích khác).
Cần thu gom, phân loại ngay khi chúng phát sinh, việc phân loại chủ yếu căn cứ vào
mục đích sử dụng lại để từ đó có biện pháp thu gom thích hợp.
Những thành phần chất thải có nhiệt trị cao (rơm rạ, trấu...), nếu sử dụng cho mục đích
đun nấu trực tiếp hoặc làm nhiên liệu cho phát điện tập trung thì cần được thu gom tập
trung và tách riêng các thành phần khác. Rơm,rạ sau khi thu hoạch được thu gom sơ bộ


và phơi khô nhằm bay hơi nước có trong chất thải. Cần có biện pháp che đậy thích hợp
khi thời tiết có mưa, tránh phát tán bừa bãi khi có gió.
Các chất thải có nhiệt trị cao khác như: trấu, bã mía ...cần tập trung thu gom ngay sau
khi chế biến nông sản tại các nhà máy xay xát hoặc các nhà máy đường. Sau đó, các
loại chất thải này được vận chuyển bằng ô tô tải tới các nhà máy nhiệt điện hoặc được
chuyên chở bằng các Phương tiện thô sơ hơn: xe công nông hoặc xe bò về các hộ gia
đình để sử dụng đun nấu.
Những thành phần chất thải có hàm lượng dinh dưỡng cao, dễ phân huỷ sinh học tạo
sản phẩm khí biogas và phân bón hữu cơ thì cần được thu gom riêng rồi đưa vào các
quá trình xử lý kỵ khí hoặc hiếu khí để đạt sản phẩm mong muốn.
Việc thu gom, phân loại và vận chuyển cần tránh rơi vãi, không lấn chiếm hành lang
an toàn giao thông (không phơi rơm, rạ trên lòng đường...) và chú ý không để tạo ra
các ổ dịch bệnh phát sinh và nơi cư trú của các sinh vật có hại.
Chọn giống tốt là một biện pháp giảm thiểu phát sinh chất thải ô nhiễm. Cần lựa chọn

các giống cây trồng có sức đề kháng tốt: tỷ lệ cây trồng sống cao, tránh được phát sinh
nhiều phế phụ phẩm trong quá trình sinh trưởng của cây trồng. Năng suất cao giúp
giảm được tỷ lệ phế phẩm và nông sản sau thu hoạch. Ngoài ra, việc chọn giống cây
trồng tốt sẽ không phải dùng nhiều các hoá chất BVTV, do vậy giảm được lượng CTR
nguy hại phát sinh.
Ngoài ra, việc áp dụng tiến bộ khoa học trong trồng trọt và chăn nuôi, không lạm dụng
các hoá chất trong nông nghiệp nhằm giảm được lượng bao bì sử dụng. Có các biện
pháp thu gom triệt để lượng phế phụ phẩm trồng trọt và phân động vật, tránh phát tán
ra môi trường.
Tăng cường giáo dục ý thức môi trường cho người dân thu gom triệt để lượng chất thải
phát sinh, không đổ bừa bãi phế phẩm nông nghiệp ra sông ngòi( hiện tượng này rất
phổ biến ở khu vực phía Nam). Cần tận dụng triệt để chất thải có thể sử dụng lại được
Tái sử dụng chất thải làm nguyên liệu và năng lượng: Dùng rơm, rạ để làm giá thể nuôi
nấm rơm; làm vật liệu độn chuồng. Sử dụng chúng làm phân bón, làm thức ăn cho
chăn nuôi.
Việc sử dụng lại về mặt năng lượng đối với CTNN mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt vì
tiềm năng về nhiệt lượng là rất lớn. Giá trị năng lượng của CTRNN có thể được thu hồi
trực tiếp thông qua các quá trình tạo khí sinh học. Một số quá trình sử dụng lại năng
lượng của CTRNN: dùng cho đun nấu ở hộ gia đình, đốt thu hồi nhiệt lượng sản xuất
hơi nước, sản xuất nhiệt điện..., phân huỷ kỵ khí thu hồi khí mêtan. CT còn được tái
chế, một số vật liệu có khả năng tái chế tốt trong CTR, đó là các vật liệu được làm từ
thuỷ tinh, nhựa, kim loại. Tuy nhiên, các thành phần trong CTRNN được làm những


vật liệu này lại mang tính nguy hại cao (các chai lọ đựng thuốc BVTV, đựng thuốc trừ
sâu) do đó chúng không thích hợp cho tái chế mà cần có các biện pháp xử lý đặc biệt.
Hiện nay, việc tái chế CTRNN vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều ở nước ta,
ngoại trừ công nghệ sử dụng bã mía để sản xuất giấy và gỗ ván ép.
Theo tính toán kỹ thuật, chỉ cần sử dụng 40KWh điện để xay xát 1 tấn thóc, trong khi
đó trấu được tạo ra từ 1 tấn thóc có thể sản xuất ra 100KWh, như vậy lượng dư thừa sẽ

là 60KWh (60%) có thể cung cấp lên lưới hoặc các hộ tiêu thụ xung quanh, giảm được
tổn thất chuyển tải từ các trung tâm nguồn. Đối với bã mía thì cũng tương tự: mỗi tấn
mía tươi sau khi ép sẽ tạo ra khoảng 300kg bã mía và có thể sản xuất được 100KWh
điện, trong khi đó lượng điện sử dụng của nhà máy ép mía đó chỉ khoảng 40-50%. Rõ
ràng, với tiềm năng sinh khối lớn như nước ta hiện nay, nếu có chính sách và chiến
lược phát triển phù hợp thì hằng năm có thể sản xuất được 2,0 tỷ KWh điện (chỉ tính
riêng đốt cho nguồn tập trung ở các nhà máy xay xát và ép mía), nó sẽ góp phần đáp
ứng nhu cầu phát triển điện năng của nước ta, giảm sư phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu
độc hại. Ngoài ra, lượng chất thải này sau khi đốt để sản xuất nhiệt điện còn tạo ra một
lượng tro rất lớn (chiếm khoảng 16%) mà thành phần tro chủ yếu là silic (90%) có thể
sử dụng làm phân bón, vật liệu cách nhiệt và công nghiệp điện tử... Các CTRNN hữu
cơ khác cũng có giá trị sử dụng năng lượng rất lớn. Nếu tính trung bình 1 KWh có giá
bán là 1500 đ/KWh thì giá trị kinh tế đem lại từ tái sử dụng CTNN để phát điện là:
1500x tổng ctrnn ( hơn ..tỷ đồng chưa bao gồm chi phí vận hành và khấu hao thiết bị
sản xuất điện). Việc sử dụng CTRNN hiệu quả còn thể hiện qua việc sử dụng khí sinh
học từ quá trình phân huỷ kị khí các chất hữu cơ. Hiện nay, với giá thành trên 2 triệu
đồng cho một thiết bị khí sinh học là có thể phân huỷ được khoảng 50-60 kg phân và
cung cấp lượng khí sinh học đủ cho đun nấu từ 6-7h của một hộ gia đình, tiết kiệm
được chi phí mua than củi hay gas. Việc sử dụng bã thải sinh học làm nguồn phân bón
hoặc thức ăn cho chăn nuôi góp phần giảm chi phí về phân bón và thức ăn chăn nuôi,
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Việc tận dụng bã mía làm nguyên liệu chế biến gỗ và ván
ép có hiệu quả lớn và tính khả thi rất cao vì hiện nay trên thế giới có nhiều nước đã áp
dụng công nghệ sản xuất giấy và gỗ ván ép từ bã mía.
IV.2

Tổng quan về tình hình nông nghiệp tại Bắc Tân Uyên:

Nông nghiệp đang giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế huyện nhà, tính đến cuối
tháng 6/2015 đất sản xuất nông nghiệp là 35.206 ha (chiếm hơn 80% diện tích đất tự
nhiên); giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 1.898 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,6% trong cơ

cấu kinh tế. Tỷ trọng trồng trọt – chăn nuôi là 85,6% - 14,4%. Giá trị sản xuất bình
quân đạt 65 triệu đồng/ha đất canh tác/năm; riêng giá trị sản xuất của vùng cây ăn trái
có múi đạt trung bình gần 1 tỷ đồng/ha/năm.
Về trồng trọt, đã hình thành khá rõ nét những vùng chuyên canh cây trồng trên
địa bàn, như: Cây cao su với diện tích 21.907ha (chiếm 60% diện tích đất nông nghiệp)


tập trung ở địa bàn các xã có địa hình cao, đất gò; vùng chuyên canh cây ăn quả có múi
(bưởi, cam, quýt) với diện tích trên 1.200 ha, tập trung ở địa bàn các xã dọc theo sông
Bé và sông Đồng Nai; ngoài ra còn có các loại cây trồng khác như hoa màu, lúa chỉ
chiếm một phần nhỏ với diện tích khoảng 4.096ha (trong đó, đất lúa là 810ha), trồng
phân tán trong nhân dân và giá trị kinh tế không cao.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi tiếp tục là thế mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp
của Huyện. Đến hết tháng 6/2015, trên địa bàn Huyện có tổng đàn heo khoảng 60 ngàn
con, đàn gia cầm 1,7 triệu con; đàn trâu, bò 2.000 con. Giá trị sản xuất đạt 251 tỷ đồng.
Đã từng bước hình thành các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, các trang
trại chăn nuôi lớn, tập trung theo đúng quy hoạch, áp dụng phương pháp, kỹ thuật mới
và hiệu quả kinh tế cao (30 trại nuôi heo, 22 trại gà, 01 khu nông nghiệp công nghệ
cao); hiện nay, hơn 90% heo và gia cầm được nuôi trong các trang trại tập trung, gần
10% được nuôi phân tán, nhỏ lẻ trong các hộ dân.
Trong những năm qua, nhờ đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, hệ thống thủy lợi hoạt động có hiệu quả, thời tiết thuận lợi, công tác phòng trừ dịch
bệnh được thực hiện tốt; cùng với giá cao su, giá các loại trái cây có múi, gia súc, gia
cầm cao và tương đối ổn định (riêng giá cao su từ năm 2012 đến nay xuống thấp), nên
hiệu quả kinh tế từ trồng trọt, chăn nuôi đem lại khá lớn, đã góp phần quan trọng vào kết
quả tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nhanh hơn quá trình giảm nghèo, nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân, nhiều hộ đã thoát nghèo và vươn lên làm giàu.
Công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, trồng cây trong nhân dân được quan tâm chỉ
đạo. Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao quản lý, sử dụng là 5.598 ha, trong đó
đất thuộc quy hoạch 3 loại rừng là 815,5 ha, với 605 hộ dân đang canh tác, sản xuất.

Kinh tế tập thể tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội ở nông thôn. Trên địa bàn Huyện có 09 hợp tác xã hoạt động sản xuất kinh doanh
trên các lĩnh vực nông nghiệp, thương mại - dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Có 109
trang trại; các trang trại đã giải quyết việc làm cho 1.131 lao động, tổng thu bình quân
01 trang trại đạt 3 tỷ đồng/năm.
Đảng bộ Huyện xác định xây dựng nông thôn mới là mục tiêu lớn và rất quan
trọng. Bên cạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền sâu rộng về mục đích, ý nghĩa
và giá trị to lớn của việc xây dựng nông thôn mới, Đảng bộ, chính quyền các cấp đã tiến
hành rà soát, đánh giá thực trạng địa bàn từng xã và có kế hoạch cụ thể, triển khai thực
hiện hợp lý cho từng giai đoạn; đồng thời, tập trung huy động các nguồn lực xã hội cùng
tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới của địa phương. Đến nay, 10/10 xã đạt
trên 10 tiêu chí, xã cao nhất đạt 16/19 và thấp nhất đạt 12/19 tiêu chí. Phấn đấu đến cuối
năm 2015, Huyện có 05 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Về kinh tế trang trại:


Toàn huyện hiện có 109 trang trại, tập trung chủ yếu ở các xã phía Bắc: Hiếu
Liêm: 27 trang trại, Tân Định: 20 trang trại, Tân Lập: 17 trang trại…. Bao gồm: 55
trang trại trồng cây lâu năm, 51 trang trại chăn nuôi và 3 trang trại tổng hợp.
IV.3

Tình hình tái chế, tái sử dụng chất thải rắn nông nghiệp:
IV.3.1 Tái chế:

Tái chế là việc sử dụng rác thải, vật liệu thải làm nguyên liệu sản xuất ra các vật chất,
các sản phẩm mới có ích, nhằm giảm việc tiêu thụ những vật liệu thô mới, giảm sử
dụng năng lượng, giảm ô nhiễm không khí (do đốt chúng) và ô nhiễm nước (do chôn
lấp).
Các vật liệu có thể tái chế như chai thuốc sâu
Có nhiều cách để tái chế như:

+ Tìm các tác dụng khác cho vật liệu.
+ Đun nóng chảy chai nhựa để làm thành vật khắc.
+ Sử dụng tiếp đồ cũ nếu còn dùng được.
 Lợi ích của những hoạt động tái chế

- Tiết kiệm được nguồn tài nguyên thiên nhiên do sử dụng những vật liệu tái chế
thay cho những nguồn tài nguyên thiên nhiên cần phải khai thác (tái chế giấy - giảm
khai thác rừng, tái chế nhiên liệu giảm áp lực khai thác các nguồn nhiên liệu hoá
thạch).
- Giảm được lượng rác cẩn phải xử lý, giảm chi phí cho các quá trình này.
- Một số chất thải trong quá trình tái chế tiết kiệm năng lượng hơn các quá trình
sản xuất từ các nguyên liệu thô ban đầu (tái chế Nhôm tiết kiệm 95% năng lượng so
với Nhôm nguyên liệu từ quá trình luyện kim)
- Giảm tác động đến môi trường do lượng rác thải gay ra.
- Có thể thu được nguồn lợi nhuận từ lượng rác vứt bỏ.
- Tạo công ăn việc làm cho một lực lượng lao động
 Những khó khăn gặp phải khi tái chế chất thải rắn.

- Đối với những quá trình tái chế hầu hết đều mang lại lợi nhuận thấp hoặc
không có hiệu quả kinh tế, do vậy các chương trình tái chế đều phải được sự hổ trợ của
các cấp chính quyền.
- Những sản phẩm tái chế thường có chất lượng không cao bằng các sản phẩm
sản xuất từ những nguyên liệu tinh ban đầu


- Thị trường tiêu thụ các sản phẩm này thường gặp nhiều khó khăn.
- Chất thải phải được phân loại càng chính xác càng có lợi cho quá trình tái chế
(Yêu cầu phân loại chất thải).
- Quy trình công nghệ tái chế (Yêu cầu công nghệ để tái chế chất thải).
IV.3.2 Tái sử dụng

Tái sử dụng là việc sử dụng lại sản phẩm hoặc nguyên, nhiên vật liệu mà không có sự
thay đổi hình dạng vật lý, ví dụ như các chai lọ thủy tinh được sử dụng lặp lại nhiều lần
để đựng các sản phẩm khác, các dung dịch mạ kim loại thu hồi (hứng lại) sau khi sản
phẩm mạ rời khỏi bể mạ,…Tái sử dụng thông thường lien quan đến việc sử dụng cho
cùng một mục đích hoặc mục đích tương tự, ví dụ chai đựng thuốc sâu được sử dụng
lại đựng cùng loại thuốc sâu đó.
Tái sử dụng nằm trong mục đích phòng ngừa, giảm thiểu chất thải bằng cách kéo dài
tuổi thọ hữu ích của sản phẩm, nguyên nhiên vật liệu, giúp tiết kiệm chi phí sản xuất
cũng như chi phí thải bỏ. Chính vì vậy việc tái sử dụng là hữu ích đối với lợi ích kinh
tế và môi trường. Ở nhiều nước, việc tổ chức các điểm thu gom chất thải hoạt động rất
có hiệu quả, trong đó có phân loại chất thải cho mục đích tái sử dụng. Tuy nhiên việc
tái sử dụng các sản phẩm cũng có những giới hạn và hạn chế nhất định. Đó là để tái sử
dụng cần phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định, ví dụ như để thu gom, làm sạch (chai
lọ thủy tinh ) hoặc sửa chữa một vài chi tiết của sản phẩm.
IV.4

Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước:
IV.4.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Cây trồng hút dinh dưỡng từ đất để sinh trƣởng và phát triển. Ngoài các bộ
phận thu hoạch ra, trong các sản phẩm phụ cũng chứa đựng các chất dinh dưỡng mà
cây lấy từ đất. Sau mỗi vụ thu hoạch, cây trồng lại để lại cho đất một lượng lớn các
phụ phẩm hữu cơ. Thông qua các quá trình chuyển hoá vật chất trong đất mà các
sản phẩm này trở thành nguồn dinh dƣỡng đáng kể cho cây trồng vụ sau.
Tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, kết quả điều tra của Zhao và cộng sự
(2005) [24] cho thấy: tình hình sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp ủ thành phân
bón hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp tăng dần. Khoảng 77% nông dân sử dụng
60% sản phẩm phụ của cây trồng vụ trước cho các cây trồng vụ sau, 18% hộ nông
dân sử dụng 90% sản phẩm phụ cho cây trồng vụ sau.
Edwards D.G and Bell L.C. (1989) [22] cho rằng trong rơm rạ chứa khoảng

0,6% N, 0,1% P, 0,1% S, 1,5% K, 5% Si và 40% C. Vì chúng sẵn có với số lượng


khác nhau dao động từ 2-10 tấn/ha nên đó là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cây.
Gần như tất cả K và 1/3 N, P, S nằm trong rơm rạ. Do vậy, rơm rạ chính là nguồn
cung cấp chất dinh dƣỡng rất tốt cho cây.
Các vùng trồng mía lớn trên thế giới (Ấn Độ, Trung Quốc, Cuba,...) cũng có
cách thức trả lại ngọn lá mía cho đất để làm dinh dưỡng cho vụ sau thông qua kỹ
thuật ủ tạo phân hữu cơ. Van Dillewijn (1952) [31] phân tích thấy bộ phận ngọn và
lá mía chiếm 62% N, 50% P2O5 và 55% K2O trong tổng số của bộ phận thu hoạch.
Như vậy có nghĩa nếu trả lại ngọn lá mía bón lại cho vụ sau thì cung cấp một lượng
dinh dưỡng tương đối lớn cho cây.

IV.4.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Theo TS. Ngyễn Thị Ngọc Bình và Ctv 2009 [1], các phế phụ phẩm nông
nghiệp chủ yếu ở nước ta bao gồm vỏ trấu, lõi ngô, bã mía, mùn cưa, vỏ dừa, bã thải
nhà máy đường, nhà máy sắn... Tổng sản lượng phế thải sinh khối hằng năm ở nước ta
có thể đạt 8 - 11 triệu tấn. Trong đó, riêng công nghiệp mía đường khoảng 2,5 - 3
triệu tấn bã mía, 0,25 - 0,3 triệu tấn bùn mía; Công nghiệp cà phê mỗi năm tạo ra
khoảng 0,2 - ,025 triệu tấn vỏ cà phê. Vùng Tây Bắc có tới 55.000-60.000 tấn mùn
cưa từ việc khai thác và chế biến gỗ. Tính riêng lượng vỏ sắn thải ra từ các nhà máy
sắn đóng trên địa bàn 3 tỉnh: Phú Thọ, Yến Bái, Tuyên Quang mỗi năm lần lượt là
4.500; 11.000
Việc sử dụng phân hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh nói riêng có tầm quan trọng
đặc biệt đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam, không những làm cho môi
trường trở nên sạch, đất tơi xốp, dễ canh tác, giữ nước và chống được xói mòn, mà
còn trả lại cho đất những phần dinh dưỡng mà cây lấy đi, giảm thiểu được việc lạm
dụng phân bón hóa học, góp phần xây dựng một nền nông nghiệp hữu cơ sạch, an
toàn.


1.Phần tính toán: tổng khối lượng CTRNN phát sinh trong một ngày của tất cả các
trang trại, hộ gia đình hoạt động trồng trọt trên địa bàn.
-

Cao su là ngành nông nghiệp chính của huyện, nó chiếm hơn 60 % tổng diện
tích đất nông nghiệp của huyện Bắc Tân Uyên. Tổng diện tích cao su của huyện
là 21907 ha. Trong khi đó cứ 1 ha đất trồng cao su trung bình sẽ cần:
+ 200 bao phân bón trong 1 năm. Nên số lượng bao tải xả ra môi trường của
1ha cao su sẽ là 20kg (1 bao nặng 100g). Vậy 21907 ha đất cao su sẽ xả khoảng
438140 kg/năm ≈ 1200 kg/ngày.


-

-

-

+1 ha đất sẽ trồng được khoảng 600 cây cao su => khối lượng củi và lá khô thu
được sẽ ≈1,5 tấn/năm. Vậy 21907 ha đất cao su sẽ có khối lượng củi và lá khô
≈ 32860,5 tấn/năm ≈90,083 tấn/ngày ≈ 90083kg/ngày
+ Trung bình mỗi năm huyện sẽ xả ra ≈ 1,8 kg chai thuốc trừ sâu cho 1 ha do
đó 21907 ha cao su sẽ xả ra khối lượng chai là 39432,6 kg/năm ≈ 108,035
kg/ngày. (1)
Diện tích lúa của huyện Bắc Tân Uyên = 810 ha.
+ Khi trồng lúa người dân sẽ phải bón phân chủ yếu là đạm và kali, 1 vụ
khoảng 2 lần và mỗi lần khoảng 8 bao cho 1 ha lúa, do đó với 1 ha lúa người
dân xả ra môi trường 1,6 kg bao trong 1 năm=> 810 ha lúa sẽ thải 1296 kg/năm
= 3,551 kg/ngày.
+ Ngoài việc bón phân thì lúa cần phải được xịt thuốc trừ sâu; thuốc trừ cỏ dại;

phòng trừ bệnh hại như đạo ôn bạc lá, khô vằn; phòng trừ chuột; mỗi vụ lúa
người dân xịt từ 1 đến 2 chai thuốc mỗi loại cho 1 ha lúa, nên lượng chai thuốc
sâu loại bỏ ≈ 2,8 kg chai/ năm => 810 ha lúa sẽ đưa vào môi trường khối lượng
chai là 2268 kg/năm≈ 6,2 kg/ngày.
+Sau khi thu hoạch lúa thì lượng rơm còn lại cũng sẽ được thu hoạch để sử
dụng cho các mục đích khác, khi đó 1 ha lúa sẽ thu được 8 tấn lúa trong khi 1
tấn lúa lại thu được 1,2 tấn rơm => 1 ha đất trồng lúa sẽ thu được 9,6 tấn rơm.
Vậy 810 ha sẽ thu được 7776 tấn rơm rạ trong 1 năm => 21,3 kg rơm/ ngày. (2)
Diện tích cây ăn quả của huyện là 1200 ha. Trong đó 1 ha đất sẽ thải ra môi
trường
+ 2,2 kg bao trong 1 năm nên 1200 ha sẽ có 2640 kg/năm = 7,23 kg/ ngày.
+ 2 kg chai trong 1 năm nên 1200 ha sẽ có 2400 kg/ năm = 6,57 kg/ ngày
+ Trái rụng và cành cây lá khô rụng là 1562,5 kg/năm nên 1200 ha sẽ có
1875000 kg/năm = 5136,98 kg/ ngày trái và cành lá khô rụng. (3)
Diện tích hoa màu của huyện là 3286 ha. Các loại hoa màu chủ yếu của huyện
là: cải, rau lang, rau muống,…Trong khi đó 1 ha đất hoa màu sẽ thải ra môi
trường
+196,9 kg bao/năm nên 3286 ha sẽ thải ra môi trường khối lượng bao 647013,4
kg/năm ≈ 1772,64 kg/ ngày.
+Hoa màu là loại cây trồng thải ra nhiều chai thuốc sâu nhất của huyện, bao
gồm các loại thuốc phòng trừ sâu hại, phòng trừ bệnh hại, phòng bệnh chết cây
con, phòng bệnh thối bẹ. Tổng khối lượng các loại chai lọ thuốc sâu cho 1 ha
đất trong vòng 1 năm bằng 97,6 kg nên 3286 ha đất sẽ thải bỏ 320713,6 kg chai
lọ trong 1 năm tương đương 878,67 kg/ ngày. (4)

Từ (1),(2),(3),(4) chúng ta sẽ tính được tổng lượng chất thải rắn phát sinh từ quá trình
trồng trọt trong 1 ngày của huyện là: MTTPS =1200 kg/ngày+90083
kg/ngày+108,035kg/ngày+3,551 kg/ngày+ 6,2 kg/ngày+21,3 kg rơm/ ngày+7,23
kg/ ngày+6,57 kg/ ngày+5136,98 kg/ ngày +1772,64kg/ ngày+878,67 kg/ ngày=
99224,176 kg/ngày



Vậy MTTPS =99224,176 (*)
Dưới đây là bảng thống kê lại các số liệu đã tính toán ở trên:
Các loại cây nông
nghiệp của huyện

Bao bì

Cao su
Lúa
Cây ăn quả
Hoa màu

1200
3,551
7,23
1772,64

Khối lượng CTRNN (kg/ngày)
Vỏ chai,lọ
Phế phụ phẩm
(rơm,rạ,cành,lá
khô,..)
108,035
90083
6,2
21,3
6,57
5136,98

878,67
-

2.Phần tính toán: tổng khối lượng CTRNN phát sinh trong một ngày của tất cả các
trang trại, hộ gia đình hoạt động chăn nuôi trên địa bàn.
Lượng chất thải rắn phát sinh từ hoạt động chăn nuôi gia súc chính là bò, trâu, lợn và
các loại gia cầm như gà, vịt rất lớn. Để tính lượng phát thải (chủ yếu là phân thải) từ
động vật nuôi có thể lấy lượng thải trung bình/con nhân với tổng số lượng vật nuôi. Do
việc xác định chính xác lượng phân thải ra cho từng loại vật nuôi rất phức tạp và khó
khăn, do vậy trong nghiên cứu này sử dụng kết quả nghiên cứu được công bố của Cục
Chăn nuôi để tính. Theo số liệu mới nhất của huyện thì trên địa bàn Huyện có tổng sô
heo là 60 ngàn con, tổng số gia súc, gia cầm vào khoảng 1,7 triệu con và tổng số trâu
bò là 2000 con.
+Đối với trâu, bò : tổng lượng thải của 1 con trâu là 15 kg trong 1 ngày, tổng lượng
thải của 1 còn bò là 10 kg trong 1 ngày do đó tổng lượng thải trung bình của cả trâu và
bò là 12,5 kg/con/ngày. Huyện Bắc tân Uyên có tổng cộng 2000 con cả trâu và bò nên
số lượng chất thải rắn sinh ra trong 1 ngày sẽ là 12,5x2000= 25000 kg/ngày= 9125
tấn/năm.
+Đối với gia cầm: tổng lượng chất thải rắn phát sinh trong 1 ngày của 1 con là 0,2kg,
trong khi đó huyện có 1,7 triệu con gia cầm => 1700000x0,2=340000 kg/ngày=124100
tấn/năm.
+Đối với lợn (heo): huyện có tổng cộng 60 ngàn con, mỗi con heo sẽ phát thải ra 2kg
chất thải rắn trong 1 ngày nên lượng chất thải rắn phát sinh từ 60 ngàn con heo trong 1
ngày của huyện là: 60000x2=120000 kg/ngày=43800 tấn/năm
Bảng : Khối lượng chất thải rắn chăn nuôi của Hà Nội
Loài vật nuôi CTR bình quân Tổng số đầu con
Tổng CTR/năm
(Kg/con/ngày)* **
(nghìn tấn)



(nghìn con)
Trâu, bò

12,5

2000

9125

Lợn

2

60000

124100

Gia cầm

0,2

1700000

43800

1762000

177025


Tổng cộng

Từ các số liệu đã thống kê ở trên chúng ta sẽ tính được tổng lượng chất thải rắn phát
sinh từ quá trình chăn nuôi trong 1 ngày là:
MCNPS=25000 kg/ngày+340000 kg/ngày+120000 kg/ngày=485000 kg/ngày (**)
Từ (*)và(**) => Tổng khối lượng CTRNN (tổng khối lượng CTR phát sinh từ quá
trình chăn nuôi và trồng trọt) phát sinh trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên trong một
ngày

MPS = MTTPS + MCNPS
MPS= 99224,176 +485000= 584224,176 kg/ngày

3.Tổng khối lượng CTRNN trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên được tái sử dụng,
tái chế trong một ngày (MT)
 Lượng bao bì hóa chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp ít hơn nhiều so với
CTR nông nghiệp thông thường. Tuy nhiên đây lại là CTR nguy hại, lượng phát thải
thường tản mát, nhỏ lẻ nên việc thu gom và xử lý thường gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên theo khảo sát sát của nhóm sinh viên chúng em thì hầu hết người dân tại huyện
Bắc Tân Uyên đã ý thức được tính nguy hại của loại chất thải này nên các loại bao bì
đựng thuốc trừ sâu, đựng các loại hóa chất BVTV được thu gom ngay sau khi đã qua
sử dụng. Để hạn chế tới mức thấp nhất tác hại của chất thải này thì cần phải có các biện
pháp thu gom triệt để, tránh tiếp xúc trực tiếp với các loại chất thải này. Sau đó đem xử
lý tập trung như đối với các chất thải nguy hại khác. Có rất nhiều phương pháp khác
nhau để xử lý chất thải nguy hại nhưng phổ biến là phương pháp thiêu đốt trong lò đốt
chất thải nguy hại và phương pháp trơ hóa (đổ bê tông) rồi đem chôn lấp. Tuy nhiên,
các biện pháp xử lý đối với loại chất thải này đòi hỏi chi phí cao và quy phạm kỹ thuật


nghiêm ngặt. Hiện tại huyện đã có thể thu gom hoàn toàn 100% các bao bì phân bón
cũng như các bao bì chai lọ đựng thuốc BVTV.

 Hình thức xử lý chất thải chăn nuôi, đặc biệt là ở các trang trại hiện nay chủ yếu
là sử dụng hầm ủ biogas. Tính đến nay, trên địa bàn Huyện Bắc Tân Uyên đã xây dựng
được khoảng 120 công trình khí sinh học (hầm biogas). Trong đó, số công trình mà các
hộ gia đình tự xây dựng chỉ có 90 hầm với quy mô nhỏ còn lại 30 hầm với quy mô lớn
do các trang trại xây dựng.
Theo khảo sát thì các thức ăn thừa trong chăn nuôi được người dân hay công nhân thu
gom lại và đem cho ăn lại vào bữa ăn kế tiếp.
 Qua kết quả khảo sát cho thấy rơm rạ và các loại phụ phẩm khác như cành cây
lá khô, trái rụng,… được người dân sử dụng vào các mục đích khác nhau như đun
nấu,ủ phân vi sinh, độn chuồng gia súc, lót lên đất để trồng cây,... Tuy nhiên, vẫn còn
một lượng lớn các phụ phẩm này bị đốt bỏ vừa gây lãng phí, vừa gây ô nhiễm môi
trường. Nhìn chung, ở nhiều nơi, nông dân vẫn chưa biết rơm đã và đang là một nguồn
nguyên liệu quý giá có thể dùng để sản xuất phân hữu cơ vi sinh và nhất là dùng để sản
xuất nấm.
 Từ những cơ sở trên chúng ta sẽ tính tổng lượng chất thải rắn được tái chế, tái
sử dụng trong 1 ngày của huyện Băc Tân Uyên là:
+Khối lượng tái chế tái sử dụng từ hoạt động trồng trọt:
MT1=1200+3,551+7,23+1772,64+6,57+878,67+6,2+108,035=3982,9 kg/ngày
+Khối lượng tái chế tái sử dụng từ hoạt động chăn nuôi:
MT2=255000+10000+108000=373000kg/ngày
*Vậy tổng khối lượng CTRNN được tái chế, tái sử dụng là:
MT=376982,9 kg/ngày
 Hiệu suất tái chế, tái sử dụng CTRNN trên địa bàn huyện Bắc tân uyên là:
H = MT / MPS x 100
H =376982,9/584224,176 x100=64,5%


Lượng CTRNN thất thoát:

MTT = MPS - MT

MTT=584224,176 - 376982,9=207241,276 kg/ngày


×