Nét đẹp trong lễ cưới Việt Nam
Ngày đăng: 20/02/2008
Nét đẹp trong lễ cưới Việt Nam
“Ma chê, cưới trách” là lời nhắc cho các gia đình đừng để xảy ra điều gì
khiến phải chê trách trong đám cưới. Bởi người dân Việt Nam coi đám
cưới là một việc thiêng liêng, trọng đại trong đời người…
Trình tự tiến hành lễ cưới của người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ miền
ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất
như sau:
Sự mối manh: Đầu tiên phải có người trung gian, đóng vai trò bắc cầu
cho hai bên gia đình… Đó thường là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh
nghiệm.
Lễ chạm ngõ
Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải
có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu cau mới được, vì câu chuyện trầu
cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng
ruột thịt. Không có trầu là không theo lễ.
Lễ vấn danh (ăn hỏi)
Chữ Hán gọi chữ này là lễ vấn danh (hỏi tên tuổi, so đôi lứa). Gọi như
thế thôi chứ người ta đã biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh
1
Mô hình đám cưới
Việt
coi như đã có chồng (dù chưa cưới). Cô đã phải biết bổn phận rồi, và
những nhà khác cũng phải biết, đừng lai vãng mối lái gì nữa. Nhân dân
nói một cách mộc mạc mà rất có ý vị. Đó là ngày bỏ hàng rào. Nghĩa là
con gái nhà này đã được gài, được đánh dấu rồi, xin đừng ai hỏi đến
nữa. Còn một cái tên nôm na để dịch lễ vấn danh: lễ ăn hỏi.
Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật
nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà (pha đủ một
ấm), một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay
phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của
nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ
cần thiếp báo hỉ thôi. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.
Lễ cưới
Lễ nạp tài: Là ngày nhà trai phải đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ
gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Ý
nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà
gái và cô dâu biết đã có sẵn cho cô dâu đầy đủ. Đồ nữ trang cho cô dâu
làm vốn sau này, cô có thể yên tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không
đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.
Do khong hiểu ý nghĩa này, mà nhiều nơi đã xảy ra nạ thách cưới. Nhà
gái đòi điều kiện của cải, bù vào việc nhà mình mất người. Rồi còn xảy
ra tệ nạn sau khi cô dâu về, bà mẹ chồng đã thu lại các của cải để bù
vào việc đi vay mượn trước đó. Thách cưới đã thành hủ tục, giờ đây đã
được bỏ đi.
Lễ xin dâu
Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo
đoàn đón dâu sẽ đến.
Lễ rước dâu
Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành từng đoàn, có cụ già cầm hương đi
trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái cho mời cụ già thắp hương
vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đoàn nhà trai vào. Cô dâu đứng sẵn
2
để cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ tiên. Sau đó hai người
cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng quà cho con gái
mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn cho cả họ nhà gái chung vui.
Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đoàn rời nhà gái, để
đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là
các cô phù dâu.
Rước râu vào nhà
Đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vôi, tránh
mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào nhà. Hiện tượng này được giải thích
theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa
khắc phục những chuyện cay nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau
này.
Lễ tơ hồng
Cả hai họ cùng ngồi ăn uống xong, tất cả ra về, trừ người thân tín thì ở
lại. Họ chờ cho cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho rằng vợ
chồng lấy được nhau, là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho.
Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng tơ hồng đơn giản
nhưng rất thanh lịch, không có cỗ bàn nhưng có rượu và hoa quả. Có
thể cúng trong nhà, mà cũng có thể cúng dưới trời . Ông cụ già cầm
hương lúc đón dâu, hoặc ông cụ già cả nhất của họ hàng, chứng kiến
buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao
bái). Các đám cưới quý tộc thì việc tổ chức có quy cách hơn.
Trải giường chiếu
Xong lễ tơ hồng, thì cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng cô dâu.
Trong lúc này trên chiếc giường cưới đã có sẵn đôi chiếu mới úp vào
nhau. Bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu,
phúc hậu, hiền từ, sẽ trải đôi chiếu lên giường, trải cho ngay ngắn, xếp
gối màn cẩn thận.
3
Lễ hợp cẩn
Đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày
trầu rượu và một đĩa bánh. Loại bánh này gọi là bánh phu thê (sau này
ta đọc thành bánh xu xê). Ông cụ già đứng lên rót rượu vào chén rồi
mời đôi vợ chồng cùng uống, phải cùng cạn chén, cùng ăn hết cái bánh
- chỉ co hai vợ chồng, không chia cho ai, không để thừa.
Mọi người ra ngoài, để hai vợ chồng cùng tâm sự. Ở một số nhà khá giả,
thiên về hoạt động văn hoá, thì những bạn bè văn chương chữ nghĩa với
chàng rể còn mang hoa, thắp đền sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ
cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do
đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.
Lễ lại mặt
Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng trẻ sẽ
trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xôi,
lơn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số
trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai không bằng lòng sau đêm
hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện không hay. Nhưng trường hợp
này rất hiếm.
Lễ cheo
Lễ cưới Việt Nam còn có một hiện tượng độc đáo, đó là lễ cheo. Lễ cheo
có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo
là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm
có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng công nhận, lễ cheo là để
xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng. Thật ra
đây cũng là thủ tục như bây giờ chúng ta đăng ký ở Uỷ ban. Song người
Việt không cho đó chỉ là thủ tục, mà là một lễ nghi hẳn hoi. Người theo
4
chữ nghĩa sách vở thì gọi lễ cheo này là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra
là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai
đến đón dâu ở nhà gái.
Cách thức tổ chức, trình tự tiến hành của một đám cưới Việt Nam ngày
xưa là như vậy. Những đám cưới theo kiểu mới hiện nay, theo phong
trào, theo quan niệm mới (thật ra thì chưa thành quan điểm), ta cứ làm
mà thực ra thì chưa ưng lắm. Gần đây đời sống của ta có tươi hơn,
chuyện xã giao, chuyện theo đà cũng rầm rộ hơn, khiến cho nhiều người
biết là không ổn mà vẫn cứ phải theo những kiểu cách phô trương (có
cả trục lợi).
Nhìn lại các phong tục cổ truyền của đám cưới ngày xưa, phải thành
thực nhận rằng nhiều người trong chúng ta chưa thật tiếp cận đúng với
tinh thần, ý nghĩa nên chỉ thấy phần thiếu sót: nhiều nghi lễ phiền
phức, mang tính phong kiến nặng nề; nhiều hủ tục: chuyện thách cưới,
chuyện ở rể, chuyện đăng môn hộ đối… làm giảm đi ý nghĩa của hôn
nhân, đám cưới phô trương cỗ bàn, khoe khoang y phục, hát xướng…
Thật ra người dân ta, ngày xưa có ưa gì những đám cưới loè loẹt đâu.
Nhưng một mặt khác, lại phải thấy rằng, cách tổ chức ngày xưa quả
thực có ý nghĩa sâu sắc và có những nét đẹp. Các đám cưới mới của
chúng ta ngày nay, phải xin phép để nói rằng, nhiều trường hợp đã
không thể hiện được cái đẹp, cái hay đã có.
Về ý nghĩa sâu sắc, có tính cách triết học, có thiên về tâm linh, người ta
hiểu rằng: hôn nhân là việc hệ trọng, là thiêng liêng. Vì thế người ta
thấy cần phải theo lễ. Phải gọi là lễ cưới chứ không chỉ là đám cưới
5
suông. Lấy vợ, lấy chồng là một việc thiêng liêng của đời người. Lấy
nhau vì tình, nhưng cũng còn vì nghĩa nữa. Nhiều cô cậu ngày nay chỉ
biết yêu nhau mà lấy nhau, để thoả mãn sự gắn bó, có lẽ không khẳng
định là dài hay ngắn.
Cưới vợ cưới chồng ở Việt Nam la có sự chứng kiến của thần thánh tổ
tiên (có tơ hồng). Đó là thần quyền. Rồi phải có làng xóm, pháp luật
công nhận (lễ nộp cheo. Đó là pháp quyền. Và trước nhất anh chị phải
yêu nhau, phải thấy hợp nhau, hợp tuổi tác. Đó là nhân quyền. Những
đám cưới có hai cô cậu biết nhau (mời bạn bè đến ăn) cũng chỉ là quan
hệ cá nhân mà thôi. Chỉ biết yêu, chứ không biết đó là thiêng liêng, nên
sự ràng buộc chỉ là mức độ.
Đám cưới Việt phải có trầu, cau mới thể hiện được sự ràng buộc của tình
nghĩa vợ chồng và linh ứng của thần linh. “Ba đồng một mớ trầu cay –
Sao anh không hỏi những ngày còn không…” là ý nghĩa như thế.
Lễ vật đám cưới truyền thống - ở các nhà bình dân – không có mâm cao
cỗ đầy, không ai đếm món: mâm này năm trăm, mâm kia sáu trăm,
nhà các quan to thì lắm xe đưa đón. Nhưng người dân Việt Nam biết
chọn các lễ vật đẹp. Những cốm, hồng, những dây lụa chăng đường,
những bài thơ, bài hát. Thật là đẹp đẽ và cảm động. Cái đẹp của lễ cưới
Việt Nam là như thế.
Theo Thời Trang Trẻ
Lễ lại mặt có ý nghĩa gì ?
Ngày đăng: 14/07/2008
6
Lễ thành hôn, tơ hồng, hợp cẩn xong xuôi, hai vợ chồng tân hôn trở về
nhà gái mang theo lễ vật để tạ gia tiên ông bà cha mẹ, đi chào họ
hàng thân nhân bên nhà gái sau đó đón bố mẹ và vài thân nhân sang
nhà chú rể. Kể từ buổi đó, mẹ cô dâu mới chính thức tới nhà chú rể và
nhà thông gia, vì trong lễ cưới, mẹ cô dâu (có nơi cả bố) không đi đưa
dâu. Lễ lại mặt thường tiến hành vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau
ngày cưới (gọi là nhị hỷ hoặc tứ hỷ) tuỳ theo khoảng cách xa gần và
hoàn cảnh cụ thể mà định ngày. Thành phần chủ khách rất hẹp, chỉ gói
gọn trong phạm vi gia đình.
Phỏng theo tục cổ Trung Quốc: nếu trong lễ lại mặt, có cái thủ lợn cắt
lỗ tai tức là ngầm báo với nhà gái rằng nhà trai trả lại, vì con gái ông
bà đã mất trinh (Đêm tân hôn có lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh,
để xem người con gái còn trinh tiết hay không. Nếu còn trinh thì trên
giấy bản sẽ có mấy giọt máu. Mã Giám Sinh sau khi cưỡng ép phá
trinh nàng Kiều xong dùng "Nước vỏ Lựu", "Máu mào gà" hòng lường
gạt làng chơi tưởng nhầm là Kiều vẫn còn trinh).
Trường hợp hai nhà xa xôi cách trở, ông già bà lão thì nên miễn cho
nhau, cô dâu chú rể nếu bận ông tác cũng nên được miễn thứ. Nếu
điều kiện cho phép thì nên duy trì, vì lễ này mang nhiều ý nghĩa tốt
đẹp:
- Nhắc nhủ con đạo hiếu, biết tạ ơn sinh thành, coi bố mẹ vợ cũng như
bố mẹ mình.
-Thắt chặt và mở rộng mối quan hệ thông gia, họ hàng ngay từ buổi
đầu, tình cảm được nhân đôi.
- Hai gia đình cùng trao đổi rút kinh nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và
bàn bạc về trách nhiệm của hai bên bố mẹ trong việc tác thành cuộc
sống cho đôi trẻ trong tương lai.
NgayCuoi.com
Theo Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam
7
Cũng gọi là ngày nhị hỉ, lễ cưới xong, sáng hôm sau, hai vợ chồng
trẻ sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng
có trầu, xôi, lơn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái
mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra chuyện gì mà nhà trai
không bằng lòng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những
chuyện không hay. Nhưng trường hợp này rất hiếm.
Lễ xin dâu có ý nghĩa gì ?
Ngày đăng: 14/07/2008
Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người,
thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu
đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng
đón tiếp.
Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay:
Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành
phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt,
nên mới định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ.
Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà
gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận "Tiền trạm".
Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao
thông, gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để
chủ động làm lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò.
Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có
thể thoả thuận với nhau miễn là bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón
dâu làm một.
Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp
lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một
người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu... ) vào trước,đặt
lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính
8
thức đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái
vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra
luôn để đón đoàn nhà trai vào.
NgayCuoi.com
Theo Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam
Miếng trầu là đầu câu chuyện
Ngày đăng: 14/07/2008
Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều
tình cảm ý nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. Miếng
trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không ăn trầu cách mặt nghĩa là đã
tiếp thì tiếp cho khắp:
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là
"Đầu trò tiếp khách" là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng
Tú Xương mới "Bác đến chơi nhà ta với ta"
Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu
nhưng "cau sáu ra thành mười".
Đặc biệt "trầu là đầu câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai gái:
"Lân la điếu thuốc miếng trầu, đường ăn ở dễ chiều lòng bạn lứa".
Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Mời trầu không ăn thì trách móc nhau:
Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình,
9
nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh:
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
"Có trầu, có vỏ, không vôi" thì môi không thể nào đỏ được, chẳng khác
gì "có chăn, có chiếu không người năm chung".
Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm.
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Miếng trầu không đắt đỏ gì "ba đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng
trầu nên dâu nhà người".
Ngày nay để răng trắng nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở
thành phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi
xong cũng đem cau trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì
miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay không cũng chẳng ai
chối từ
Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bỏ "bùa mê", "bùa yêu" nên người ta có thói
quen:
Ăn trầu thì mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
Các cụ càng già càng nghiện trầu, nhưng không còn răng nên "đi đâu
chỉ những cối cùng chày" (Nguyễn Khuyến). Cối chày giã trầu làm bằng
đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vỏ nhưng trạm trổ rất
công phu, ngày nay không còn thấy có trên thị trường nên các cụ quá
phải nhở con cháu nhá hộ.
Vì trầu cau là "đầu trò tiếp khách" lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ
biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ
mừng... Nên têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới có
10