Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của đảng ta trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.56 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đặng Thị Hoa

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
LƢƠNG - GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Đặng Thị Hoa

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
LƢƠNG - GIÁO VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT
TOÀN DÂN TỘC THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Chuyên ngành : Triết học
Mã số
: 60 22 03 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ BÁ TRÌNH

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu
trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học trong luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

Đặng Thị Hoa


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa triết học,
Học viện Khoa học xã hội đã quan tâm, tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá
trình thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS Lê Bá Trình thầy
giáo đã chỉ bảo, hướng dẫn tận tình, giúp em hoàn thành luận văn.
Trong khuôn khổ của một luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của quý thầy
cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016

HỌC VIÊN

Đặng Thị Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT LƢƠNG GIÁO .............................................................................................................. 13
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo ...... 13
1.2. Những nội dung cơ bản về đoàn kết lương - giáo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ................................................................................................... 26
Chƣơng 2. SỰ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
LƢƠNG - GIÁO CỦA ĐẢNG TA TRONG VIỆC XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC (TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY) ............... 41
2.1. Sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng đoàn kết lương - giáo của Hồ Chí
Minh thông qua các chủ trương, đường lối của cách mạng Việt Nam......... 41
2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế của việc vận dụng tư tưởng đoàn
kết lương - giáo của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc của Đảng ta........................................................................... 50
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết lương - giáo của Đảng ta trong việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc hiện nay ................................................................. 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, tôn giáo là một hình
thái ý thức xã hội đã tồn tại từ lâu trong đời sống tinh thần của con người.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng đến mọi mặt của
đời sống xã hội của nhiều dân tộc, có nơi, có lúc tôn giáo thống trị và chi phối
các mặt của đời sống xã hội. Bên cạnh đó nhân loại cũng chứng kiến những
cuộc chiến tranh đẫm máu, kéo dài hàng trăm năm giữa các cộng đồng tôn
giáo khác nhau trên thế giới. Thực tế lịch sử chứng minh, tôn giáo thường bị
giai cấp thống trị sử dụng như một thứ công cụ đặc biệt để trấn át về mặt tinh
thần đối với quần chúng nhân dân, nhưng trong nhiều trường hợp tôn giáo lại
là ngọn cờ tư tưởng cho việc tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động
đoàn kết thành một khối thống nhất, bền gan, đồng sức, đồng lòng trong cuộc
đấu tranh chống lại những áp bức, bất công để đòi quyền sống, quyền mưu
cầu hạnh phúc ở thế giới trần tục.
Có một thời gian dài, nhiều người nhìn nhận không đúng về vai trò, vị
trí của tôn giáo. Họ cho rằng cùng với sự phát triển chín muồi của chủ nghĩa
xã hội, tôn giáo sẽ nhanh chóng mất đi. Nhưng thực tế, tôn giáo không những
không mất đi mà trong những năm tháng cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI,
tôn giáo ở nhiều nơi đã hồi sinh trở lại và phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là
những vấn đề phức tạp cần được giải quyết như: những xung đột dân tộc, tộc
người, tôn giáo liên quan đến xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa tôn giáo và
những vấn đề bảo tồn, giữ gìn truyền thống văn hóa của cộng đồng dân tộc,
quốc gia. Cùng với tình hình trên, nhiều hiện tượng niềm tin tôn giáo mang
tính cuồng tín, phản động dẫn tới những hành động khủng bố mang tính hủy
diệt, khiến cả thế giới phải sửng sốt đã xuất hiện.

1


Ở Việt Nam, đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước
(1986) đến nay, cùng với sự phát triển liên tục về kinh tế, xã hội, các tôn giáo,
sinh hoạt tôn giáo ngày càng phát triển góp phần làm phong phú, đa dạng đời
sống tinh thần, tâm linh và các nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bên

cạnh đó cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong đời sống xã hội, nếu
không có giải pháp cụ thể sẽ là mảnh đất tốt để các âm mưu, thế lực lợi dụng
tôn giáo cản trở sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Để xây dựng đất nước đạt mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh" hiện nay, một nhiệm vụ hàng đầu, có ý nghĩa chiến lược
đặt ra là phải đoàn kết dân tộc, trong đó có đoàn kết lương - giáo, xây dựng sự
đồng thuận xã hội để sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng
được phát huy và trở thành sức mạnh nội sinh để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trong khối đại đoàn kết toàn dân ấy, tôn giáo gắn liền với một bộ phận
quần chúng nhân dân và có mối quan hệ chặt chẽ với khối đoàn kết toàn dân
tộc. Thực hiện tốt công tác tôn giáo là một trong những yêu cầu cấp thiết để
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
Để xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật đối với tôn
giáo đặc biệt là vấn đề đoàn kết lương - giáo và việc áp dụng nó trong việc
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ đổi mới, thì nền tảng tư tưởng
- lý luận mà Đảng và Nhà nước ta dựa vào chính là Chủ nghĩa C.Mác V.I.Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm lý luận toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam trong đó có vấn đề đoàn kết lương - giáo, đoàn kết dân tộc.
Việc nghiên cứu các quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo trong đó
có vấn đề đoàn kết lương - giáo và vận dụng một cách đúng đắn, nhuần
nhuyễn quan điểm của Người trong hoạch định cũng như thực hiện các chính
sách, chủ trương về công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay sẽ phát huy những

2


mặt tích cực của tôn giáo, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, văn
hóa, tâm linh của nhân dân, tăng cường nguồn lực và các điều kiện xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực do tôn
giáo mang lại.

Đảng và Nhà nước ta vận dụng tư tưởng đoàn kết lương - giáo của Hồ
Chí Minh để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước (từ năm 1986) đến nay đã đạt nhiều thành
quả rất quan trọng, góp phần thành công của công cuộc đổi mới, nhưng vẫn
còn nhiều vấn đề yếu kém về nhận thức và hành động làm ảnh hưởng đến
nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở nước ta hiện nay.
Vì thế nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết lương - giáo - một trong những nội dung của đoàn kết tôn
giáo, kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được trong thời kỳ đổi mới để
vận dụng vào các chủ trương, chính sách và công tác tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Xuất phát từ những lý do cấp thiết
trên tôi đã chọn đề tài : Tư tưởng Hồ Chí Minh về " đoàn kết lương - giáo"
và sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc thời kỳ đổi mới làm luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc nói chung và đoàn kết
tôn giáo nói riêng trong đó có đoàn kết lương - giáo là một nội dung quan
trọng và có ý nghĩa trong hệ thống tư tưởng của Người. Đây cũng là nội dung
được nhiều nhà khoa học quan tâm, tập trung nghiên cứu. Tùy theo đối tượng,
phạm vi nghiên cứu, các tác giả đã đề cập, khai thác dưới những góc độ khác
nhau tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong đó có vấn đề đoàn kết
lương - giáo. Các công trình được tiếp cận, trình bày dưới nhiều hình thức

3


khác nhau như giáo trình, sách, bài báo, luận văn, luận án,... Có thể khái quát
công trình nghiên cứu của một số tác giả, nhóm tác giả như:
- Một số công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng,

tôn giáo.
Cuốn sách Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng của Viện nghiên cứu
tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội xuất bản lần đầu năm 1996, xuất bản lần thứ
hai năm 1998 có tái bản bổ sung. Cuốn sách đã đề cập đến quan điểm của Hồ
Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng thông qua những giai đoạn lịch sử nhất định
cũng như thông qua cách giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách mạng giải
phóng dân tộc ở nước ta.
Cuốn sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam của
Viện nghiên cứu Tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, 1998, là công trình tập thể của
các nhà khoa học đề cập đến tư tưởng tôn giáo tín ngưỡng của Hồ Chí Minh. Tác
giả Phạm Như Cương đã đặt Hồ Chí Minh trong sự so sánh với các nhà kinh
điển của chủ nghĩa C.Mác - V.I.Lênin về vấn đề tôn giáo để làm rõ sự vận dụng
sáng tạo và phát triển lý luận về tín ngưỡng, tôn giáo của Hồ Chí Minh. Cũng
trong cuốn sách này, tác giả Đỗ Quang Hưng còn cho rằng, Nguyễn Ái Quốc đã
phác họa những đường nét khá cơ bản về tính cách, bản chất, đặc tính một số tôn
giáo, nhân vật tôn giáo của người Việt Nam và Á Đông.
Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Hồ
Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đây là công trình của một tập thể tác giả đã sưu tầm, tuyển chọn những bài
nói, bài viết của Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, hạn chế của
cuốn sách là chỉ dừng lại ở việc sưu tầm những bài viết của Hồ Chí Minh về
vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo mà chưa đi sâu vào phân tích những luận điểm,
quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết tôn giáo trong đó có
đoàn kết lương - giáo.

4


Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta bàn về tôn
giáo do Mã Giang tổng hợp cũng là một ấn phẩm do Tổng cục chính trị - Thư

viện quân đội in ấn và lưu hành năm 2003. Cuốn sách đã trình bày những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo; quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo; vấn
đề tôn giáo trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Văn kiện
Hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành Trung ương khóa IX.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc hội thảo:
Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn
giáo. Các bài viết tham gia hội thảo này được Nxb Tôn giáo ấn hành thành
cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo (2003) do
GS.TS Lê Hữu Nghĩa và TS Nguyễn Đức Lữ đồng chủ biên. Cuốn sách gồm
hai phần: Phần thứ nhất gồm các bài viết Hồ Chí Minh về tôn giáo. Phần thứ
hai, gồm các bài tham luận Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo. Cuốn sách đã
trở thành tài liệu tham khảo tốt cho những người nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo hoặc làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Năm 2008, Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, thuộc Học Viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã có báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ 2007: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và việc vận dụng ở Việt Nam hiện nay do PGS.TS Nguyễn Đức Lữ làm chủ
nhiệm. Đề tài gồm hai phần: Phần một, nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo. Phần hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
Công trình này đã khắc họa được một số tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về
tôn giáo, về vai trò, vị trí và ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống xã hội. Đề
tài cũng chỉ ra sự vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh về tôn giáo trong ứng xử
với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đây là những nghiên cứu rất
giá trị, có ý nghĩa tham khảo quan trọng đối với luận văn.

5


Trong luận án tiến sĩ triết học: Quan điểm Hồ Chí Minh về tín ngưỡng,

tôn giáo (Viện nghiên cứu tôn giáo - Viện khoa học Xã hội Việt Nam, 2007)
của tác giả Phạm Hữu Xuyên. Tác giả đã phân tích cơ sở hình thành, quá trình
phát triển, nội dung quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo của Hồ Chí Minh. Từ đó
đi vào phân tích, trình bày sự vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng cộng sản Việt Nam giai đoạn từ 1969 đến nay.
Luận án là tài liệu tham khảo tốt cho những người nghiên cứu về tôn giáo.
Tuy nhiên, luận án này chưa đề cập sâu được đến vấn đề đoàn kết tôn giáo
trong đó có đoàn kết lương - giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng
tư tưởng đó của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Những nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo.
Trong các công trình có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc, đầu tiên phải kể đến công trình Chiến lược đại đoàn kết Hồ
Chí Minh, do Phùng Hữu Phú (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995; Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh của
các tác giả: Nguyễn Khánh Bật, Bùi Đình Phong, Hoàng Trang, Nxb Nghệ
An, 1995; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và mặt trận đoàn kết của
tác giả Nguyễn Bích Hạnh và Nguyễn Văn Khoan, Nxb Lao động, Hà Nội,
2001; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004...
Trong những công trình trên, các tác giả đã nêu và phân tích khá sâu
sắc có sức thuyết phục các nội dung như: Cơ sở hình thành chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh, chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong cách mạng
giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội
chủ nghĩa, những nội dung cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí

6



Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết và một số nội dung trong tư
tưởng của Người như: Vấn đề tôn giáo trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh, phát huy tiềm năng cách mạng của đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phương pháp đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, và xem đây như một bộ phận, một khía cạnh để thực hiện đại đoàn
kết dân tộc.
Công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo và đại đoàn kết
trong cách mạng Việt Nam, Đỗ Quang Hưng (chủ biên), Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2003. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu có hệ
thống các vấn đề như: Vấn đề dân tộc, tôn giáo; đại đoàn kết dân tộc; những
nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau cách mạng
tháng Tám. Theo các tác giả, vấn đề dân tộc, tôn giáo là những vấn đề lớn, rất
nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội và đến nhiều
quốc gia, trong đó, Việt Nam không là một ngoại lệ. Đảng ta mà đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc, tôn giáo và
đại đoàn kết dân tộc. Đó là cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng thực hiện chiến
lược đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương - giáo để kháng chiến kiến quốc
thắng lợi.
Trong số các luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này, trước hết phải
kể đến luận văn Vấn đề đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí
Minh của Lý Thị Bích Hồng, luận văn thạc sĩ khoa học Tôn giáo, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001. Luận văn đã trình bày từ cơ
sở hình thành cho đến nội dung, phương pháp đoàn kết tôn giáo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, tác giả nêu ra thực trạng vấn đề đoàn kết tôn giáo
theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp. Tuy nhiên, do luận văn
trình bày theo hệ quy chiếu của chuyên ngành tôn giáo học nên đã không thấy
được hết các mối quan hệ biện chứng giữa tôn giáo với các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội.
7



Ngoài ra, còn một số luận văn thạc sĩ khác viết về đoàn kết tôn giáo
trong tư tưởng Hồ Chí Minh dưới các góc độ, phạm vi, đối tượng, không
gian, thời gian khác nhau như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
và sự vận dụng tư tưởng đó vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
Nguyễn Xuân Trung, luận văn thạc sỹ Triết học, Đại học khoa học Xã hội
và Nhân văn, Hà Nội, 2008. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống địch
lợi dụng tôn giáo và công tác đảm bảo an toàn trật tự ở nước ta hiện nay,
Đỗ Xuân Hiển, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2008,...
Các luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề này thời gian gần đây, trước
hết phải kể đến luận án: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương
giáo trong thực hiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Văn
Siu, luận án tiến sĩ chuyên ngành CNXHKH, Học viện Chính trị - Bộ Quốc
phòng, Hà Nội, 2011. Trong luận án này, chủ yếu tác giả đi sâu vào phân tích
thực chất và thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
lương - giáo ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị, giải
pháp để thực hiện tốt hơn chính sách tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết lương - giáo. Khi đề cập đến sự vận dụng của Đảng và Nhà nước về
đoàn kết lương - giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì thực chất tác giả mới chỉ
trình bày đến vấn đề vận dụng về công tác tôn giáo mà chưa đi sâu vào vấn đề
đoàn kết lương - giáo cũng như việc chỉ ra vai trò của đoàn kết lương - giáo
trong khối đại đoàn kết dân tộc.
Luận án tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
và sự vận dụng tư tưởng đó vào thực hiện chính sách đoàn kết tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay của Nguyễn Xuân Trung, chuyên ngành Triết học, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2014. Trong luận án này, tác giả đã đi
sâu vào nghiên cứu trình bày cơ sở hình thành, những nội cơ bản của đoàn kết

8



tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh và việc thực hiện chính sách đoàn kết
tôn giáo hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, đoàn kết tôn giáo nó còn thể hiện ở
rất nhiều mặt và nhiều khía cạnh khác nhau nữa mà trong nội dung và phạm
vi của luận án chưa thể đề cập đến hết được.
Ngoài những công trình khoa học, cuốn sách tiêu biểu liên quan trực
tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong đó có vấn đề đoàn
kết lương - giáo đã trình bày, còn có những bài nghiên cứu trên các tạp chí,
cuộc hội thảo khoa học, đặc biệt là tạp chí chuyên ngành tôn giáo. Tác giả
Nguyễn Đức Lữ với bài " Tư tưởng tín ngưỡng tự do lương giáo đoàn kết ở
Hồ Chí Minh", Tạp chí Dân vận, số 6 - 2003; Về tư tưởng đoàn kết lương giáo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, NCS. Lê Đại Nghĩa, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 1 - 2001; Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tôn giáo với một số lĩnh vực
của đời sống xã hội, TS. Nguyễn Đức Lữ, tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về điểm tương đồng đoàn kết lương giáo và vận
dụng vào tình hình hiện nay, Thượng tá. TS Nguyễn Mạnh Hưởng, tạp chí
Giáo dục lý luận Chính trị quân sự, số 3 - 2003; Hồ Chí Minh với vấn đề tự do
tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo, Văn Thanh Mai, tạp chí Tư tưởng - văn hóa,
số 2 - 2005; Vận dụng quan điểm tôn giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng Việt Nam, Lê Bá Trình, tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 8 - 2011; Bối cảnh và cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết tôn giáo, Nguyễn Xuân Trung, tạp chí giáo dục lý luận, số
204 - 2013,...
Năm 2001, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn Lý luận về
tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam của Đặng Nghiêm Vạn. Cuốn sách
là bản tổng kết những nghiên cứu của các tác giả ở đề tài KHXH - 04 - 06 về
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt
Nam. Nội dung cuốn sách đã khái quát đầy đủ nhất những vấn đề lý luận

9



chung về tôn giáo, vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, thực trạng và
chính sách tôn giáo ở Việt Nam trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo và đoàn kết tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Cuốn sách của PGS.TS Nguyễn Hồng Dương ( chủ biên ) (2012). Quan
điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả làm rõ quá trình nhận
thức của Đảng về công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo qua các cương
lĩnh, văn kiện, nghị quyết của Đảng từ khi đổi mới đến nay. Qua đó, các tác
giả đi đến kết luận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo sẽ vẫn tồn tại cùng dân tộc, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đổi mới
các quan điểm, chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo làm cho chức sắc, tín
đồ yên tâm hành đạo, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân "sống tốt đời, đẹp đạo".
Những kết quả, công trình nghiên cứu này đã có nhiều đóng góp quí giá
cho việc nghiên cứu tôn giáo về phương diện lý luận chung cũng như góp
phần hoạch định những chủ trương, chính sách đối với tôn giáo, công tác tôn
giáo trên bình diện chung của cả nước. Mặc dù tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết tôn giáo trong đó có đoàn kết lương - giáo đã và đang được nhiều
nhà khoa học, nhà quản lý công tác tôn giáo tập trung nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau nhưng do yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi cách
nhìn, vận dụng mới tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo để xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc vừa đảm bảo tính độc lập ổn định và tự chủ
trong phát triển của đất nước, vừa đảm bảo sự hội nhập của nước ta với nền
văn minh thế giới thì chưa có công trình nào đáp ứng được yêu cầu đó. Đây là
nội dung nghiên cứu chính mà luận văn muốn tập trung làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn

kết lương - giáo, sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng ta để xây dựng khối đại

10


đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả việc vận dụng tư tưởng đoàn kết lương - giáo của Hồ Chí Minh để
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát, hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết lương - giáo.
- Đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
lương - giáo của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất giải pháp thực hiện tốt đoàn kết lương - giáo theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhằm củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo, việc vận dụng tư tưởng này của Đảng ta trong việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ đổi mới và nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng
đoàn kết lương - giáo của Hồ Chí Minh để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo, tìm hiểu mối quan hệ giữa đoàn
kết tôn giáo mà cụ thể là đoàn kết lương - giáo với khối đại đoàn kết dân tộc
cũng như những thành quả đạt được của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo trong việc xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp

luận của chủ nghĩa C.Mác - V.I.Lênin, cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng

11


và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương
pháp logic- lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp; kết hợp với các phương
pháp đối chiếu, so sánh,... để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn góp phần khẳng định tính cách mạng và khoa
học của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo và ý nghĩa chỉ đạo
của tư tưởng này trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng
ta trong thời kỳ đổi mới.
- Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo hoặc
làm luận cứ cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách về tôn giáo trong
tình hình hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 5 tiết.

12


Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT LƢƠNG - GIÁO
1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lƣơng - giáo

1.1.1. Cơ sở lý luận
Một là, sự kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp từ gia
đình, từ lịch sử dân tộc và của các nhà cách mạng tiền bối.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với
nhân dân. Cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp tiến,
có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Mặc dù, là người theo nghiệp Nho học
nhưng Cụ không lấy đó làm con đường để ra làm quan, hưởng cuộc sống giàu
sang phú quý. Ở Cụ là một tấm gương lao động cần cù, tấm gương về ý chí
kiên cường, vượt qua gian khổ, khó khăn, đặc biệt là tư tưởng thương dân.
Với đạo đức và khí tiết sáng ngời cùng tính cách khí khái và tư tưởng hết sức
tiến bộ Cụ đã đi đến đối kháng với chế độ đương thời nơi mà con người bị
đàn áp, bóc lột cùng cực ngay chính trên mảnh đất quê hương của mình.
Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của người cha kết hợp với tình
mẫu tử, tấm gương sáng ngời về nhân cách đạo đức, về lòng hy sinh tận tụy
quên mình vì chồng, vì con của người mẹ - Bà Hoàng Thị Loan đã định hình
trong Hồ Chí Minh rất sớm những tư tưởng về bình đẳng, tự do, nhân ái và
khoan dung.
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú, bền vững, với
những truyền thống tốt đẹp, cao quý. Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và
ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là
dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao
nhất đứng đầu bảng giá trị văn hóa - tinh thần Việt Nam. Mọi học thuyết tôn
giáo, đạo đức từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc
xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
13


Tiếp theo, là tinh thần nhân nghĩa; truyền thống đoàn kết; tương thân,
tương ái; "lá lành đùm lá rách" trong hoạn nạn khó khăn của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam. Truyền thống này được hình thành cùng một lúc với sự
hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên
nhiên và với giặc ngoại xâm. Là một nước nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới
ẩm gió mùa, nhiều sông, suối, núi, rừng, trông ra biển Đông, có vị trí địa lý
thuận lợi, khí hậu, tài nguyên nhiệt đới phong phú. Bên cạnh nhiều mặt thuận
lợi do thiên nhiên ưu đãi, người Việt cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn
thử thách, đó là sự khắc nghiệt do tự nhiên mang lại như hạn hán, bão lũ... và
các cuộc xâm lược của các thế lực ngoại bang lớn mạnh. Cuộc đấu tranh
chinh phục, cải tạo tự nhiên như đắp đê, trị thủy và đấu tranh chống ngoại
xâm đã tạo nên những giá trị tinh thần cao quý. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn, tính cố kết cộng đồng chặt chẽ, ý chí độc lập tự chủ, lòng dũng cảm, đức
tính cần cù, sáng tạo, năng động, lạc quan,...
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kế thừa những giá trị tốt đẹp từ truyền
thống quý báu đó của dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX ở trong cảnh "dường như trong đêm tối không có đường
ra", bị bế tắc, khủng hoảng cả về lãnh đạo và đường lối cứu nước. Trước tình
hình đó, một loạt các phong trào cách mạng diễn ra nhằm xây dựng một xã
hội mới như các phong trào cách mạng của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh. Tuy nhiên, tư tưởng cải lương của Phan Châu Trinh
hay tư tưởng dựa vào sự giúp đỡ của Nhật để đuổi Pháp của Phan Bội Châu
đều không khả thi và hết sức sai lầm vào lúc đó. Hồ Chí Minh phê phán con
đường cứu nước của các bậc tiền bối nhưng không có nghĩa là Người phủ
nhận sạch trơn những quan điểm tiến bộ của các cụ (trong đó có những quan
điểm về tín ngưỡng, tôn giáo). Người đã tiếp thu, kế thừa và phát triển những
tư tưởng về tôn giáo của các nhà cách mạng tiền bối.
14


Ngay từ đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu và các sĩ phu tân học yêu nước

đã có những tư duy tiến bộ trong việc tiếp thu tư tưởng "tự do tín ngưỡng" của
các nhà tư tưởng phương Tây. Đặc biệt là Phan Bội Châu, ông đã có những tư
tưởng rất tiến bộ trong quan niệm về tôn giáo, tín ngưỡng và cách ứng xử với
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Ông phân biệt rõ những người tín hữu
chân chính của tôn giáo với các thế lực phản động có âm mưu lợi dụng tôn
giáo để chia rẽ nhân dân ta. Đồng thời, ông cũng thấy được những điều tốt
đẹp, nhân văn, nhân đạo của các tôn giáo, tín ngưỡng và hết lời ca ngợi
chúng. Phê phán đấu tranh với những tệ nạn mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu.
Đặc biệt, ông hiểu được rằng kẻ địch muốn lợi dụng tôn giáo để nô dịch và
chia rẽ nhân dân ta, vì thế nếu đảm bảo được tự do tín ngưỡng tôn giáo của
nhân dân thì sẽ tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc thành một khối vững
chắc để đánh giặc cứu nước và xây dựng đất nước giàu đẹp.
Như vậy chúng ta có thể thấy, Hồ Chí Minh đã kế thừa ở một mức độ
nhất định những quan điểm tiến bộ về tín ngưỡng, tôn giáo của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh và các sĩ phu tân học yêu nước đầu thế kỷ XX và phát
triển nó lên ở tầm cao hơn.
Hai là, tiếp thu những giá trị của văn hóa Đông - Tây và quan
điểm của chủ nghĩa C. Mác - V.I. Lênin về tôn giáo, về tập hợp lực lượng
cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam xuất
thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Truyền thống ấy tác động
không nhỏ đến Người. Vị danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh là người
đã tiếp thu và kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị tinh hoa của các nền văn
hóa Đông - Tây. Mà nói đến văn hóa phương Đông, ai cũng rõ Nho giáo
chiếm một phần quan trọng và Người đã tiếp thu những giá trị tích cực của

15


đạo đức Nho giáo. Học thuyết của Khổng Tử được Hồ Chí Minh đánh giá rất

cao với cốt tủy là tư tưởng trung, hiếu và sự tu dưỡng bản thân. Người còn kế
thừa những tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như
thể thương thân, nếp sống trong sạch, giản dị, chăm lo cho điều thiện và tinh
thần bình đẳng chống mọi phân biệt đẳng cấp của nhà Phật và nhất là những
tư tưởng của chủ nghĩa C.Mác và V.I.Lênin về đoàn kết, tập hợp lực lượng
cách mạng với những khẩu hiệu nổi tiếng, có tính chất chiến lược như: "Vô
sản tất cả các nước đoàn kết lại" (C.Mác). "Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức, đoàn kết lại" (V.I.Lênin).
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa C.Mác - V.I.Lênin
theo phương pháp nhận thức mácxít đồng thời theo lối "đắc ý, vong ngôn" của
phương Đông, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất, chứ không tự trói buộc
trong cái vỏ ngôn từ. Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa C.Mác - V.I.Lênin để luận giải các vấn đề của dân tộc và
thời đại, trong đó có vấn đề đoàn kết tôn giáo và đoàn kết lương - giáo là một
trong những nội dung cơ bản của nó. Xuất phát từ quan điểm quần chúng
nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, là lực lượng và động lực
chính của cuộc cách mạng, tín đồ các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của
quần chúng nhân dân. C.Mác - Ph. Ăngghen - V.I.Lênin đã sớm nhận thấy
tầm quan trọng cũng như sự ảnh hưởng của quần chúng tín đồ tôn giáo đối
với đời sống xã hội và với cách mạng vô sản của giai cấp công nhân. Vì thế,
khi tuyên truyền, vận động họ đi theo cách mạng phải thật khéo léo và tránh
xúc phạm đến đức tin của họ.
Trong nhiều bài viết và trong khi dự thảo Cương lĩnh của Đảng, V.I.Lênin
đã đề cập sâu sắc về quyền tự do tín ngưỡng hoàn toàn của mọi người: mỗi
người có quyền theo và truyền bá bất cứ tín ngưỡng nào và thay đổi tín ngưỡng,

16


không có một quan chức nào có quyền đòi hỏi bất cứ ai về tín ngưỡng của mình,

tất cả mọi nhà thờ, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, ra đời từ rất sớm và tồn tại lâu dài
trong đời sống xã hội của con người. Tuy nhiên, tầm quan trọng và sự ảnh
hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội của con người trong mỗi giai đoạn
lịch sử lại không hề giống nhau. Vì vậy, phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi
xem xét, đánh giá và giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để phá hoại
cách mạng. Vì thế, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần phân biệt rõ hai mặt
chính trị và tư tưởng. Mặt tư tưởng thể hiện thuần túy tín ngưỡng trong tôn
giáo. Nhưng, mặt chính trị bên cạnh ước nguyện giải phóng mình ra khỏi sự
khổ ải ở chốn trần gian, trong đó có sự nô dịch của các thế lực thống trị bóc
lột, mặt chính trị còn thể hiện ở việc lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp
cách mạng của quần chúng nhân dân. Trong thực tế, hai mặt chính trị và tư
tưởng trong tôn giáo thường đan xen lẫn nhau, rất khó có sự phân biệt rạch
ròi. Những tư tưởng tôn giáo nhiều khi đã là sự lợi dụng của giai cấp thống trị
để nô dịch giai cấp bị trị và được ngụy trang khéo léo bằng những lời răn hoặc
những phạm trù đạo đức trong tôn giáo. Nhiều khi mâu thuẫn về mặt chính trị
lại được các thế lực phản động ngụy trang bằng sự khác nhau về tư tưởng và
ngược lại.
Các luận điểm trên đây của chủ nghĩa C.Mác - V.I.Lênin về tôn giáo và
đoàn kết quần chúng nhân dân được Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh Việt Nam. Người cố gắng khai thác những giá trị văn hóa,
đạo đức, nhân văn, tinh thần tốt đẹp của các tôn giáo nhằm đoàn kết tất cả
mọi người theo hay không theo tín ngưỡng tôn giáo vào trong khối đại đoàn
kết dân tộc, vì mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.

17



1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Một là, đặc điểm của đời sống văn hóa, tinh thần và tâm linh của dân
tộc Việt Nam.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên
tương đối phong phú và đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa
vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên đã sớm
gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều
tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở
thành quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở
số lượng các vị thần mà điều đáng nói là các vị thần ấy cùng đồng hành trong
tâm thức một người Việt. Đó chính là tính hỗn dung tôn giáo trong đặc điểm
tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt. Đồng bào dân tộc Kinh có tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên; thờ Thành hoàng; thờ những người có công với cộng đồng,
dân tộc; thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa
nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số có hình thức tín ngưỡng nguyên thủy
như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa man giáo phản ánh đời sống tinh thần, tâm
linh hết sức phong phú, đa dạng của các dân tộc Việt Nam.
Đức tính khoan dung, khoan hòa được coi là một căn tính cơ bản, nổi
trội của người Việt và khoan dung tôn giáo đã trở thành một thái độ, một lối
ứng xử, một thứ triết lý sống, triết lý nhân sinh của người Việt. Do đó, đặc
điểm khoan dung trong tôn giáo Việt Nam cũng là cơ sở quan trọng để hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo.
Hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hóa cũng như phương thức sản xuất khác
nhau đã quy định tâm thức tôn giáo của người Việt Nam khác tâm thức của
người phương Tây. Ở đấy có sự khoan dung, hòa quyện giữa các tôn giáo, tín
ngưỡng. Người Việt chúng ta được xem là một dân tộc có phương thế sống
dung hợp, có khả năng tiếp biến rất cao văn hóa ngoại sinh, bất cứ lý thuyết

18



hay tôn giáo nào nếu giúp con người thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tri thức và
đạt được mục đích sinh tồn, phát triển thì đều được chấp nhận. Từ Nho giáo,
Phật giáo, đến Công giáo... khi vào Việt Nam đều bị bản địa hóa thông qua
lăng kính của chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Vì thế, cách tiếp cận tôn giáo
ở Việt Nam thường không theo con đường cạnh tranh hoặc đối kháng. Các tư
tưởng, tôn giáo ngoại lai muốn cắm rễ và trở thành yếu tố của văn hóa bản địa
đều phải khúc xạ, thay đổi và hòa nhập với các tôn giáo và tư tưởng bản địa
nhưng không đe dọa đến bản sắc văn hóa và độc lập dân tộc. Đó là sự khoan
dung giữa tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo dân tộc. Đặc điểm đó đã phản ứng
đúng tâm thức tôn giáo của người Việt Nam, đồng thời là cơ sở để nước ta tồn
tại nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.
Có thể nói, tính bao dung tín ngưỡng, tôn giáo và tư tưởng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo thuộc nếp sống, nếp nghĩ bình thường của người Việt Nam,
là cơ sở của sự đoàn kết lương - giáo trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Do đó, ở Việt Nam không có tình trạng kỳ thị tôn giáo,
ngoại trừ những lúc tôn giáo bị các thế lực phản động lợi dụng để làm phương
tiện thực hiện âm mưu chính trị của mình.
`

`Tôn giáo nào cũng dạy con người làm điều lành; tránh điều dữ; gạt

điều dở; giữ điều hay; hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Đó cũng
chính là điều mà trong tâm thức mọi người dân Việt Nam luôn muốn hướng
đến. Họ muốn có cuộc sống thanh thản, bình an về mặt tinh thần, sống lương
thiện, nhân hậu, đạo đức; sống theo lẽ phải, làm nhiều việc thiện, tu nhân tích
đức, không làm việc xấu, không hành động độc ác, dối trá trái với lương
tâm... Họ tin vào luật "nhân nào quả ấy", "gieo gió gặp bão", "Ở hiền gặp
lành". Đó là một trong những cơ sở từ thực tiễn của cuộc sống hình thành nên
quan điểm đoàn kết lương - giáo của Hồ Chí Minh.


19


Hai là, thực tiễn vấn đề đoàn kết tôn giáo trong đó có đoàn kết lương giáo ở Việt Nam, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XX nhằm chống lại âm
mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ dân tộc, chống phá cách mạng của kẻ thù.
Chống phá cách mạng Việt Nam là âm mưu không bao giờ thay đổi của
các thế lực thù địch trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại. Việc lợi dụng tôn giáo
như một chiêu bài nhằm kích động, chia rẽ nhân dân, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc là một trong những thủ đoạn của chúng.
Trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam, tôn giáo tồn tại và phát triển không thể tách rời chính trị,
càng không thể đứng ngoài chính trị. Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần nhiều
thiền sư tham gia tích cực vào đời sống chính trị, xã hội; có uy tín và địa vị
cao trong triều đình; là những cố vấn đắc lực cho nhà vua trong những quyết
định trọng đại có liên quan đến sự tồn vong của đất nước. Trong thời nhà
Nguyễn và sau này cũng có nhiều linh mục, tu sĩ đi với dân tộc, góp phần
canh tân đất nước, tham gia vào công cuộc canh tân đất nước như Nguyễn
Trường Tộ, Đậu Quang Lĩnh,... Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ thần thánh của dân tộc ta thì sự đóng góp công sức của
đồng bào các tôn giáo vào sự thắng lợi chung của toàn dân tộc là không thể
phủ nhận. Điều đó cho ta thấy, tín đồ các tôn giáo là một bộ phận quan trọng
trong quần chúng nhân dân, đã cùng với cộng đồng dân tộc đấu tranh để dựng
nước và giữ nước. Nhưng tôn giáo vốn là lĩnh vực nhạy cảm, lại thường
xuyên bị kẻ thù xâm lược lợi dụng để thực hiện âm mưu chia rẽ khối đoàn kết
dân tộc, phục vụ cho mưu đồ chính trị của chúng. Vì thế, khi xâm lược Việt
Nam, các thế lực đế quốc đều tìm mọi thủ đoạn lợi dụng các tôn giáo với các
mục tiêu cụ thể như chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo,
giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; kích động đồng bào các dân tộc
thiểu số; tín đồ chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách tôn giáo của Đảng


20


×