Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Câu Hỏi Ôn Thi Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.78 KB, 14 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN

CÂU 1: PHÂN TÍCH PHẠM TRÙ VẬT CHẤT THEO QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VÀ CHO BIẾT Ý
NGHĨA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY.
- Tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật
chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta sao lại, chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Ví dụ: Các sự vật như: nguyên tử, phân tử, các thiên hà, siêu thiên hà trong vũ trụ… các hiện tượng như mưa,
nắng, thủy triều… chúng tồn tại một cách khách quan.
Phân tích:
- Từ định nghĩa vật chất của Lênin ta có vật chất là một phạm trù triết học cho ta thấy vật chất là một phạm trù rộng
nhất, khái quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể
hay trong đời sống hằng ngày. - Vật chất còn là kết quả của sự khái quát trừu tượng háo những thuộc tính, những mối
liên hệ vốn có của sự vật, hiện tượng, nó phản ánh cái chung, cái vô hạn, vô tận không sinh ra không mất đi. Vì vậy
không thể đồng nhất vật chất với các vật thể cụ thể hay một thuộc tính nào đó của vật chất.
- Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy nó tồn
tại độc lập ngoài ý thức không phụ thuộc vào ý thức con người dù cho con người có nhận thức được hay không nhận
thức được nó.
- “Thực tại khách quan” là tất cả những gì tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người.
Đây là thuộc tính quan trọng nhất của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật
chất. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài, độc lập với cảm giác, ý thức, và đem lại cho chúng ta trong cảm giác, trong ý
thức là vật chất.
- “Thực tại khách quan” được đem lại cho con người trong cảm giác”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Điều đó
khẳng định vật chất có trước, cảm giác và ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức.
- “Thực tại khách quan” được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh”. Điều này khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất. Vật chất là cái có thể
gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người, ý thức con người là
sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
=> Kết luận: Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được ý thức con người


phản ánh, do đó về nguyên tắc, không thể có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng
vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
Ý nghĩa nghiên cứu:
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã:
+ Bao quát cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo về phạm trù vật chất.

1


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

+ Khắc phục được tính chất siêu hình, cơ giới, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
trước Mác.
+ Chống lại quan điểm của nghĩa chủ nghĩa duy vật tầm thường, là đồng nhất vật chất với ý thức.
+ Có ý nghĩa trong việc chống lại thuyết không thể.
+ Liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một thể thống nhất.
+ Mở đường cho các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu và khám phá những kết cấu phức tạp của thế giới vật
chất.
- Trong thời đại ngày nay khi khoa hoc kỹ thuật là sự lớn mạnh của quá trình cơ khí hóa về tự động hóa sản xuất cơ
cấu lao động xã hội ngày càng phức tạp trình độ trí thức của con người phải càng ngày được nâng cao.
- Vào thế kỉ XXI khoa học biến thành sức sản xuất trực tiếp do đó xảy ra hiện tượng sản xuất mang ý nghĩa khoa học.
Việc kết hợp hữu cơ thành một hệ thống tự động duy nhất tất cả các quá trình sản xuất. (Máy công tác + Động cơ +
Phương tiện vận tải) cũng chịu tác động của những nguyên tắc chung về điều khiển và tự điều khiển.
- Những biến động chất lượng về cơ sở công nghệ của sản xuất có nghĩa là chức năng của tri thức được con người
trong các khâu của quá trình sản xuất trực tiếp cả việc điều khiển và kiểm tra quá trình đó.
- Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật công nghệ trên phạm vi toàn thế giới các loại hình thức
công nghệ mới ra đời nắm vững nguyên tắc khoa học sản xuất và đảm bảo hoạt động của sản xuất phát triển sản xuất

trên cơ sở các thành tựu khoa học kỹ thuật.
- Sản xuất chuyển từ phát triển bề rộng sang phát triển về bề sâu nhờ áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật biểu
hiện của nó là năng suất sản xuất đã tăng vọt.
- Khoa học hiện đại phân ngành mạnh thâm nhập lẫn nhau kết hợp với kỹ thuật công nghệ thành một thể thống nhất
không thể tách rời. Nó mở ra phạm vi nghiên cứu thế giới những vấn đề ở thế giới vi mô tìm ra hạt vật chất cơ cấu trực
thuộc tính tương tác theo quan hệ khác nhau.
- Những mặt trái của việc nghiên cứu khoa học hiện đại là có thể gây ra mặt hậu quả không thể lường trước ảnh hưởng
tới toàn cầu. Đó là những quan niệm nhân văn không đúng đắn sẽ làm cạn kiệt tài nguyên đe dọa đời sống con người
tàn phá nền đạo đức văn hóa xã hội.
=> Kết luận: Nghiên cứu về nội dung định nghĩa của vật chất cũng như đặc điểm của khoa học ngày nay và ảnh
hưởng của phạm trù vật chất đến khoa học ta nhận xét rằng: Phạm trù vật chất đến khoa học rất rộng lớn phản ánh cả
về bê rộng lẫn bề sâu. Bằng phương pháp nghiên cứu vật chất trong phép duy vật biện chứng và hệ thống hóa các
phạm trù và quy luật của mình khoa học phản ánh các thuộc tính hiện tượng quá trình của thế giới từ vi mô đến vĩ
mô từ vô sinh đến hữu sinh từ sinh vật đến con người và xã hội con người.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

2


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

CÂU 2: DỰA TRÊN QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG HÃY KHÁI QUÁT
VỀ NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, KẾT CẤU CỦA Ý THỨC. PHÂN BIỆT CÁC THÀNH TỐ: TRI
THỨC, TÌNH CẢM, LÝ TRÍ, TỰ Ý THỨC, VÔ THỨC. LIÊN HỆ BẢN THÂN TRONG QUÁ
TRÌNH HỌC TẬP.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức được hình thành từ hai nguồn gốc.
Nguồn gốc của ý thức:

 Nguồn gốc tự nhiên:
- Là quá trình hình thành bộ óc con người và sự hình thành bộ óc con người.
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao đó là bộ óc con người.
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước, độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh không mất.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ với nhau.
- Nhận thức thế giới con người, giải thích tính đa dạng của thế giới, con người tiếp tục nhận thức tính đa dạng của
thế giới để cải tạo thế giới.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong tác động qua lại giữa
chúng.
- Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh, vật lý, hóa học, sinh
học.
- Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho giới hữu sinh là tính kích thích. Ở động vật bậc cao có hệ thần kinh
trung ương là tâm lý, phản ánh năng động sáng tạo ở dạng cao nhất là bộ óc con người. Phản ánh có tính chủ động,
lựa chọn thông tin, xử lý thông tin, tạo thông tin mới. Sự phản ánh năng động gọi là ý thức.
- Ý thức là chức năng của bộ óc và là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc ngày càng hoàn thiện
thì hoạt động sinh lý thần kinh càng có hiệu quả, ý thức con người càng sâu sắc.
- Quan hệ giữa con người hướng tới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
 Nguồn gốc xã hội:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, đó chính là lao động và cùng
với lao động là ngôn ngữ.
- Lao động là con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên và làm thay đổi giới tự nhiên phù
hợp với nhu cầu của con người.
- Trong quá trình lao động đã làm cho cấu trúc có thể thay đổi tạo ra dáng đi thẳng, giải phóng hai tay và các khí
quan não bộ phát triển.
- Khi con người tác động vào thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ thuộc tính, kết cấu, bộc lộ
những quy luật vận động con người có thể quan sát được và thông qua sự hoạt động của các giác quan đã tác động
tới bộ óc, làm cho bộ óc hoạt động, bộ óc tạo ra khả năng hình thành tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
=> Kết luận:
- Sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan và thông qua hoạt động cải tạo lao động.

- Bản chất của ý thức:
+ Là sự phản ánh hiện thực khách quan có vai trò trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo, là hình
ảnh của thế giới khách quan, thể hiện quá trình hoạt động tâm lý, sinh lý của con người.
+ Là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định nhưng nó không còn y
nguyên như thế giới khách quan mà được cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người.
Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

3


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

+ Là hiện tượng xã hội mang bản chất xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn.
- Mác khẳng định: “Ý thức chẳng qua là vật chất được di chuyển vào trong não người và được cải biến đi trong đó”.
Kết cấu của ý thức:
- Ý thức có kết cấu: tri thức, tình cảm, lý trí.
+ Tri thức là những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, tư duy. Nó là kết quả của quá trình nhận thức
và mọi hoạt động của con người cần có tri thức và được tri thức định hướng. Như vậy tri thức là phương thức
tồn tại và là điều kiện để ý thức phát triển.
+ Tình cảm là biểu hiện rung động, thái độ của con người trong các mối quan hệ.
+ Lý trí là khả năng huy động sức mạnh tinh thần của con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc
sống.
+ Tự ý thức là ý thức của cá nhân về hành vi, tình cảm, tư tưởng, động cơ của bản thân trong xã hội.
+ Vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí, ý thức con người không kiểm soát được.
Liên hệ bản thân: (sinh viên tự bổ sung :3)
- Cần có phương pháp học cụ thể như:
- Đặt ra những mục tiêu có thời hạn ngắn để có thể thực hiện tốt.
- Quản lý thời gian bằng thời khóa biểu…


CÂU 3: PHÂN TÍCH CÁC CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG-CÁI CHUNG VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA
CÁI RIÊNG-CÁI CHUNG. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY.
- Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với những sự vật, hiện tượng, qúa trình khác nhau như cái bàn,
cái nhà, cái cây cụ thể… Mỗi sự vật đó được gọi là một cái riêng, đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng lại có
những mặt giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có màu sắc, hình dạng. Mặt giống nhau đó người ta
gọi là cái chung của những cái bàn.
=> Vậy ta có thể định nghĩa cái riêng dùng để chỉ một vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định. Còn cái chung
dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố nhưng nó lại tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
- Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
+ Phái duy thực cho rằng cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có
cái chung mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào cái
riêng, mà còn sinh ra cái riêng. Theo Platon, cái chung là cái tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có
tính chất tạm thời. Ví dụ bên cạnh cái cây riêng lẻ còn có cái cây nói chung. Cái cây riêng lẻ có ra đời, tồn tại
tạm thời và mất đi nhưng ý niệm cái cây nói chung thì tồn tại mãi mãi. Từ đó, Platon cho rằng cái cây riêng lẻ
là do ý niệm cái cây nói chung sinh ra. Như vậy, theo Platon cái riêng do cái chung sinh ra.
+ Phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng tồn tại thật sự, còn cái chung là những tên gọi trống rỗng do con
người đặt ra không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của
các khái niệm. Chẳng hạn họ cho khái niệm vật chất, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm… là những từ
không có ý nghĩa. Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa và con người
không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học nữa.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

4


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY


=> Họ đều sai lầm ở chỗ họ không thấy được cái riêng – cái chung đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con
người và chúng có mối liên hệ với nhau thể hiện qua:
+ Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện sự tồn tại của mình. Điều đó có
nghĩa là cái chung thực sự tồn tại nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ không tồn tại
biệt lập, bên ngoài cái riêng. Ví dụ như không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt cụ thể.
Nhưng đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ và được phản ánh trong khái niệm “cái cây”.
+ Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn
tại độc lập đó không có nghĩa cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng
nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng
thuộc loại khác.
+ Thứ ba, cái riêng toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung vì bên cạnh các thuộc tính được lặp lại các sự
vật khác, tức là bên cạnh cái chung bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái đơn nhất tức là những
thuộc tính chỉ vốn có ở nó và không tồn tại ở bất kỳ sự vật nào khác.
+ Cuối cùng, cái chung thể hiện tính phổ biến, quy luật của nhiều cái riêng.
Ý nghĩa nghiên cứu:
- Cần nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng.
- Chống bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc, cục bộ.
- Không thể tách cái chung ra khỏi cái riêng, không được tuyệt đối hóa cái chung. Nếu tuyệt đối hóa cái chung sẽ mắc
phải quan điểm sai lầm tả khuynh, giáo điều. Muốn tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng, thông qua cái
riêng. Phê phán quan điểm sai lầm của phái duy thực.
- Không được tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hóa cái riêng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm
hữu khuynh. Phê phán quan điểm sai lầm của phái duy danh.
=> Phải phát triển cái mới tiêu biểu cho sự phát triển và tạo điều kiện cho nó phát triển trở thành cái chung. Ngược lại,
hạn chế và xóa bỏ những cái cũ lỗi thời, lạc hậu.

CÂU 4: PHÂN TÍCH NỘI DUNG TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ
THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY.
- Trong đời sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật
tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù

của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là mối liên hệ khách quan bản chất tất nhiên, lặp đi lặp lại giữa các yếu tố,
thuộc tính trong mỗi sự vật hiện tượng với nhau. Thế giới tồn tại nhiều quy luật: quy luật riêng, quy luật chung và quy
luật phổ biến. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại là quy luật
phổ biến, chỉ rõ phương thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất
quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật
này sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích lũy về lượng, muốn có ngay sự thay
đổi về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn
bản về chất.
+ Chất là dùng để chỉ những thuộc tính, quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất
hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó để phân biệt nó với cái khác, chỉ những thuộc tính cơ mới tạo thành chất.
+ Lượng chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng của sự vật tức là sự vật đó
lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp… đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng số
tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác. Ví dụ tốc độ
của ánh sáng là 300.000 km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, một nước có 50 triệu dân.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

5


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
- Sự vật, hiện tượng nào cũng là thống nhất hai mặt chất và lượng, tác động qua lại.
- Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự chuyển hóa về chất, nhưng sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất
giới hạn đó gọi là độ.
- Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định dẫn đến sự thay đổi về chất giới hạn đó gọi là điểm nút. Khi đạt tới
điểm nút thì sự ra đời của chất mới đó chính là bước nhảy vọt của quá trình vận động, phát triển của sự vật.

- Quy luật chuyển hóa giữa chất và lượng là một quy luật hoàn toàn xác định, mối quan hệ này hình thành một cách
khách quan chứ không thể gán ghép một cách tùy tiện đồng thời sự chuyển hóa lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc
vào những điều kiện nhất định. - - Quy luật lượng và chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến
hóa và cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hóa, còn sự thay đổi về chất
theo hướng tiến hóa lên gọi là cách mạng, tiến hóa chuẩn bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hóa, chế độ xã hội
chưa có sự thay đổi căn bản về chất, còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hóa, chấm dứt một quá trình này mở
ra một quá trình tiến hóa mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xóa bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế.
Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề này:
- Trong hoạt động thực tiễn phải coi trọng cả hai chỉ tiêu chất và lượng.
- Khắc phục sự nôn nóng, tả khuynh như khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy, khắc phục tính
hữu khuynh là chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không thực hiện bước
nhảy.
- Vận dụng linh hoạt các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi
điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.
- Nhận thức được sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

CÂU 5: HÀNG HÓA LÀ GÌ? PHÂN TÍCH HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HÓA. PHÂN BIỆT
HÀNG HÓA THÔNG THƯỜNG VÀ HÀNG HÓA SỨC LAO DỘNG.
Khái niệm:
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người được sản xuất ra để trao đổi, mua
bán.
Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa:
- Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như cây bút, cục tẩy… hay dạng vô hình như dịch vụ, thương mại của giáo viên,
nghệ sĩ, bác sĩ…
=> Vậy cho nên hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng của hàng hóa:
- Là công dụng của nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người một cách trực tiếp hay gián tiếp.
- Một hàng hóa có nhiều giá trị sử dụng và số lượng này được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của
khoa học kĩ thuật.

- Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính của tự nhiên quy định, vì vậy nó là phạm trù vĩnh viễn.
- Trong kinh tế trao đổi hàng hóa thì giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

6


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

b) Giá trị của hàng hóa:
- Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là những tỉ lệ theo đó một hàng
hóa này đổi thành một hàng hóa khác.
Ví dụ: 1 m vải bằng 5 kg thóc.
=> Vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau nhưng lại trao đổi được cho nhau vì các hàng hóa
này đều là sản phẩm của quá trình lao động, tức là sức lao động của con người đã kết tinh vào sản phẩm. Sỡ dĩ
nó trao đổi theo một tỉ lệ ngang bằng vì hao phí lao động để làm ra 1 m vải đã ngang bằng với hao phí lao
động làm ra 5 kg thóc.
=> Vậy lao động hao phí là cơ sở chung của trao đổi gọi là giá trị của hàng hóa.
- Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Giá trị hàng hóa chỉ được biểu hiện thông qua bên ngoài thông qua trao đổi mua bán, vì vậy giá trị hàng hóa là
một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa.
PHÂN BIỆT HÀNG HÓA THÔNG THƯỜNG VÀ HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG:
Khái niệm
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người được sản xuất ra để trao đổi, mua
bán.
- Sức lao động là toàn bộ năng lực bao gồm thể lực, trí lực tồn tại trong cơ thể sống của con người, là khả năng lao
động của con người. Trong xã hội, sức lao động là yếu tố rất cơ bản của quá trình sản xuất.

- Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện sau:
+ Người có sức lao động phải được tự do về thân thể và tự do bán sức lao động của mình nhưng chỉ bán sức
lao động trong một thời gian nhất định.
+ Người lao động không có tư liệu sản xuất để tự mình tiến hành sản xuất để có thu nhập tồn tại buộc họ phải
bán sức lao động của mình.
Phân biệt
- Giống nhau: Cả hai đều là hàng hóa và đều có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
- Khác nhau:
+ Hàng hóa sức lao động khi đưa vào sử dụng thì giá trị sử dụng không bị biến đi như hàng hóa thông thường
mà còn tăng thêm. Trong một thời gian sử dụng, các hàng hóa thông thường đều bị mất dần giá trị sử dụng của
nó cho đến hết. Ngược lại, đối với hàng hóa sức lao động, trong quá trình lao động sản xuất, sức lao động
chuyển hóa toàn bộ những lao động quá khứ của tư liệu sản xuất và lao động mới của nó sang sản phẩm mới,
vì thế nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của nó. Đây chính là giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hóa
sức lao động, nguồn gốc của sự tăng giá trị trong sản xuất, nguồn gốc của giá trị thặng dư.
+ Hàng hóa sức lao động có thể mua bán chịu, mua dứt bán dứt. Người lao động có thể ứng trước một khoản
tiền trong số tiền lương của anh ta trước khi nhận được lương để đáp ứng một nhu cầu sinh hoạt của bản thân
và gia đình anh ta.
+ Hàng hóa sức lao động bao gồm yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó có nghĩa là số lượng và cơ cấu nhu cầu
của người công nhân phụ thuộc vào quá trình phát triển lịch sử của một nước nhất định, vào những điều kiện
trong đó giai cấp công nhân hình thành, vào trình độ văn hóa của họ. Do đó ở những nước khác nhau, nhu cầu
của giai cấp công nhân cũng khác nhau.Ngay cả ở trong cùng một nước nhưng ở các thời đại khác nhau, nhu
cầu của giai cấp công nhân cũng khác nhau. Hơn nữa bản thân các nhu cầu của người lao động vể thức ăn,
quần áo, nhà ở, điện nước… cũng khác nhau tùy theo điều kiện khí hậu và tự nhiên ở các nước.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

7


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”


GIA DINH UNIVERSITY

+ Hàng hóa sức lao động không thể tách rời người chủ lao động. Khác với hàng hóa thông thường sau khi
được sản xuất ra sẽ được mang ra thị trường bán, sức lao động không thể tách rời người chủ lao động bởi toàn
bộ thể lực và trí lực là những thứ phi vật chất bên trong người lao động.
HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG

HÀNG HÓA THÔNG THƯỜNG

- Người mua có quyền sử dụng, không có quyền sở
hữu, người bán phải phục tùng người mua.

- Người mua và ngươi bán hoàn toàn độc lập với
nhau.

- Mua bán có thời hạn.

- Mua dứt, bán dứt.

- Giá cả nhỏ hơn giá trị.

- Giá cả có thể tương đương với giá trị.

- Giá trị bao gồm cả yếu tố tinh thần, vật chất và
lịch sử.

- Chỉ thuần túy là yếu tố vật chất.

- Giá trị sử dụng đặc biệt: tạo ra giá trị mới lớn hơn

giá trị của bản thân nó, đó chính là giá trị thặng dư.

- Giá trị sử dụng thông thường.

- Là nguồn gốc của giá trị thặng dư.

- Biểu hiện của của cải.

CÂU 6: PHÂN TÍCH SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG
HÓA VÀ Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU QUY LUẬT NÀY.
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa.

 Nội dung: Thông qua lỗ và lãi thì nó tác động đến chủ thể sản xuất kinh doanh, buộc chủ thể là phải điều
chỉnh phương thức kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất.
 Yêu cầu:
- Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở của nó, tức là dựa trên cơ sở thời gian
lao động xã hội cần thiết. Cụ thể trong sản xuất, quy luật giá trị yêu cầu hao phí lao động cá biệt phải nhỏ hơn
hoặc bằng hao phí lao động xã hội.
- Trong lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu phải trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Nguyên tắc ngang giá là giá
mua bán thực tế trên thị trường là giá có thể được hàng, giá được người mua hàng chấp nhận.
- Giá cả trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị và trở thành cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
- Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh và quan hệ cung cầu.
 Tác dụng:
 Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.


Trên thị trường, mặt hàng nào có giá trị cao, người sản xuất sẽ thu được nhiều lời và sẽ mở
rộng quy mô sản xuất, ngược lại mặt hàng nào có giá trị thấp sẽ thu được ít lời hoặc thua lỗ và
sẽ thu hẹp quy mô sản xuất.




Theo tác động của quy luật giá trị thông qua giá cả thị trường mà quy mô sản xuất mặt hàng
này được mở rộng ra còn mặt hàng kia bị thu hẹp lại.



Đưa hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao để bán, đưa hàng hóa từ nơi cung lớn hơn cầu
đến nơi cung thấp hơn cầu.



Đó chính là tác động điều tiết của quy luật giá trị.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

8


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

 Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã
hội phát triển.


Các hàng hóa được sản xuất ra theo các giá trị cá biệt nhưng khi bán trên thị trường lại bán
theo giá trị xã hội. Nhà sản xuất nào có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội sẽ thu được nhiều
lời, có điều kiện phát triển, làm giàu, ngược lại sẽ thua lỗ, phá sản.




Muốn giảm giá trị cá biệt, người ta phải cải tiến kỹ thuật, công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới,
hợp lý hóa, tăng năng suất lao động.



Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển trên toàn xã hội.

 Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành người giàu, người nghèo.


Trong kinh tế thị trường, nhà sản xuất nào có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội sẽ phát triển
làm giàu, trở thành ông chủ. Ngược lại sẽ thua lỗ, phá sản, trở thành người làm thuê.



Mặt khác trong kinh tế thị trường, ít người có yếu tố, thời cơ, nguy cơ may rủi cũng dẫn đến
sự phân hóa giàu nghèo.

Ý nghĩa nghiên cứu:
- Trong thời kỳ quá độ của Việt Nam thì còn sản xuất hàng hóa. Vì vậy ta phải hết sức coi trọng quy luật giá trị, chú ý
hao phí lao động xã hội thấp, đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
- Quy luật giá trị có tác dụng kích thích người sản xuất áp dụng khoa học-kĩ thuật vào sản xuất để tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm dẫn đến nước ta cần phải đẩy mạnh sản xuất hàng hóa để phát huy mặt tích cực của quy
luật giá trị.

CÂU 7: PHÂN TÍCH HẠI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ. NÊU RÕ KHÁI
NIỆM, NHẬN XÉT VÀ VÍ DỤ. PHÂN BIỆT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TUYỆT ĐỐI, GIÁ TRỊ THẶNG

DƯ TƯƠNG ĐỐI VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH.
- Kể từ khi học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác ra đời đến nay, thế giới đã trải qua những biến đổi sâu sắc. Rất
nhiều sự kiện đã khẳng định tính đúng đắn của những kết luận rút ra từ học thuyết giá trị thặng dư như: những cuộc
“khủng hoảng giẫy chết” của chủ nghĩa tư bản thế giới đầu thế kỉ XX; sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện
thực; phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa; sự tan rã của hệ
thống dân tộc thuộc địa… Phải nói rằng học thuyết giá trị thặng dư là “hòn đá tảng” trong toàn bộ lý luận kinh tế của
Các Mác, nhờ có nó mà toàn bộ bí mật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa được nêu ra một cách chính xác, mà trong đó hai phương pháp sản xuất chính là phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích lũy và tái mở rộng sản xuất,
đưa xã hội tư bản ngày càng phát triển. Do vậy, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cùng với tính thực tiễn của nó
có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đồng thời cũng đã vạch trần bản chất bóc lột của tư bản thông qua bóc lột giá trị thặng
dư.
Khái niệm
- Giá trị thặng dư tuyệt đối được sản xuất bằng cách kéo dài thời gian lao động để tăng thời gian lao động thặng dư
trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không đổi. Bằng cách đó, thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra, nhà
tư bản có được nhiều giá trị thặng dư hơn. Nhưng độ dài lao động vấp phải vấn đề sức khỏe vì vậy nhà tư bản tiếp tục
tìm phương pháp khác.
Ví dụ: Nhà tư bản bán ngày lao động 8 giờ trong đó thời gian lao động tất yếu (thời gian lao động cẩn thiết) là
4 giờ, như vậy thời gian lao động thặng dư là 4 giờ. Nếu 1 giờ công nhân tạo ra giá trị mới là 10 đồng, giá trị
thặng dư tuyệt đối bằng 40 đồng. Nếu nhà tư bản kéo dài thời gian lao động thêm 2 giờ nữa thì giá trị thặng dư
tuyệt đối tăng lên 60 đồng/giờ.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

9


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY


Ví dụ: Ngày lao động cố định giả định là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian lao động tất yếu. Thời gian lao
động thặng dư là 5 giờ. Nhà tư bản tìm cách giảm giá trị sức lao động từ 5 giờ xuống còn 4 giờ, do đó thời
gian lao động thặng dư tăng lên từ 5 giờ lên 6 giờ, m tăng từ 100% lên 150%.
Khái niệm
- Giá trị thặng dư tương đối được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để tăng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện thời gian ngày lao động được giữ cố định. Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết phải
thực hiện tăng năng suất lao động mà trước hết là ở khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng, kế đến đó là khu vực sản xuất
tư liệu sản xuất. Muốn tăng năng suất phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề. Điều
này trước tiên có thể diễn ra ở một số xí nghiệp, còn số đông các xí nghiệp khác chưa có điều kiện từ đó hình thành giá
trị thặng dư siêu ngạch.
Khái niệm
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được ở mức cao hơn mức trung bình của xã hội. Nó có được là nhờ
vào việc cải tiến, phát minh ra kỹ thuật, công nghệ mới, phát minh quản lý mới làm cho năng suất lao động cá biệt cao
vượt trội so với năng suất lao động xã hội.
- Nếu xét trên phạm vi từng doanh nghiệp, từng nhà sản xuất thì giá trị thặng dư siêu ngạch xuất hiện rồi mất đi, nhưng
xét trên phạm vi xã hội thì thường xuyên xuất hiện.
Phân biệt
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản và toàn bộ các nhà tư bản thúc đẩy cải
tiến kĩ thuật.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biểu tượng của giá trị thặng dư tương đối vì cả hai đều dựa trên cơ sở tăng
năng suất lao động nhưng giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
- So sánh hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối:
Giống nhau:
- Cả hai phương pháp đều tìm cách kéo dài thời gian lao động thặng dư.
Khác nhau: Về phương pháp thực hiện:
- Giá trị thặng dư tuyệt đối tăng cường độ lao động.
- Giá trị thặng dư tương đối tăng năng suất lao động.
Nhận xét
- Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp

sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể
vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật
mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
- Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho
các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất
phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản
xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
- Nếu gạt bỏ mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và siêu ngạch có tác dụng mạnh mẽ, kích thích các cá nhân và tập thể người
lao động ra sức cải tiến kĩ thuật, cải tiến quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động.
=> Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng kích thích người
dùng công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản lý, thúc đẩy cá nhân và toàn bộ xã hội vươn lên.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

10


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

CÂU 8: THẾ NÀO LÀ TÍCH LŨY TƯ BẢN. PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC
ĐỘNG ĐẾN QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ CỦA TÍCH LŨY TƯ BẢN.
Khái niệm:
- Thực chất tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản hay quá trình tư bản hóa giá trị
thặng dư để tái đầu tư và mở rộng sản xuất.
Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản:

- Trình độ bóc lột sức lao động:
+

Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công của người công nhân. Nghĩa là, nhà tư
bản không chỉ chiếm đoạt lao động thặng dư mà còn chiếm đoạt một phần lao động tất yếu của công nhân,
biến một phần quỹ tiêu dùng của công nhân thành quỹ tích luỹ tư bản.

+

Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.

+

Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng
thêm bộ phận giá trị thặng dư, tức là làm tăng tích lũy tư bản. Số lượng lao động tăng thêm do tăng cường độ
lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (trang thiết bị,
nhà xưởng, số lượng công nhân). Hơn nữa, tư bản sẽ có lợi, tránh được hao mòn vô hình, giảm được chi phí
bảo quản, sớm cải tiến kỹ thuật. Như vậy, để mở rộng được quy mô bóc lột, nhà tư bản có thể tăng thời gian
sử dụng máy móc, thiết bị trong ngày, tức nâng cao hệ số sx mà không cần đầu tư thêm tư bản để tăng thêm
thiết bị, nhà xưởng mà chỉ cần tăng thêm nguyên, vật liệu một cách tương ứng. Mặt khác, nhà tư bản bắt công
nhân đang có việc phải tăng cường độ lao động hoặc kéo dài thời gian lao động để tăng khối lượng giá trị
thặng dư. Trong công nghiệp khai khoáng và trong nông nghiệp, nhà tư bản đã sử dụng phổ biến phương pháp
này để tăng quy mô tích luỹ tư bản.

- Trình độ tăng năng suất lao động xã hội:
+

Khi năng suất lao động tăng làm cho giá cả hàng hóa giảm. Do đó, với một khối lượng giá trị thặng dư dành
cho tích luỹ như cũ, nhà tư bản có thể mua được tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm để mở rộng sản
xuất. Hoặc nếu giữ quy mô sản xuất như cũ thì có thế giảm phần tích luỹ để tăng phần tiêu dùng. Mặt khác sự

tiến bộ không ngừng của khoa học – kỹ thuật và công nghệ sẽ cho phép các nhà tư bản tận dụng phế liệu để
tạo ra nguyên liệu mới, từ đó giảm chi phí và tạo ra nhiều giá trị thặng dư, làm tích luỹ tăng.

- Quy mô của tư bản ứng trước:
+

Với mức độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do số lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do
đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn thì giá trị thặng dư bóc lột được và
quy mô tích lũy càng lớn. Như vậy, khi lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng mở rộng, kỹ
thuật sản xuất càng hiện đại, do đó, các động lực thúc đẩy sản xuất giá trị thặng dư càng có tác động mạnh.

+

Tóm lại: để tăng quy mô tích luỹ tư bản, các nhà tư bản phải sử dụng nhiều biện pháp: nâng cao trình độ bóc
lột sức lao động, nâng cao năng suất lao động xã hội, sử dụng triệt để công suất và hiệu quả của máy móc,
thiết bị, tăng quy mô tư bản ứng trước để mở rộng sản xuất và đổi mới kỹ thuật, công nghệ.

+

Theo công thức M = m’ . V, nếu tỷ suất giá trị thặng dư m’ không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư M chỉ
tăng khi tổng tư bản khả biến V tăng và tất nhiên tư bản bất biến cũng sẽ phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất
định. Do đó, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư phải tăng quy mô tư bản ứng trước. Đại lượng tư bản ứng
trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.

- Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng:
+

Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện vật của chúng đều hoạt
động trong quá trình sản xuất ra sản phẩm.


+

Tư bản tiêu dùng là bộ phận giá trị của những tư liệu lao động đã hao mòn dần trong quá trình sản xuất và
được chuyển từng phần vào sản phẩm mới dưới dạng khấu hao. Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng
và tư bản tiêu dùng.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

11


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

+

Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận
cấu thành của máy móc đều hoạt động. Chỉ có sự hoạt động của toàn bộ máy móc thì mới tạo ra được sản
phẩm. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như
hiện còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến giá trị của máy móc chuyển dần vào sản phẩm trong từng thời
gian thì máy móc phục vụ không công cho nhà tư bản.

+

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, máy móc ngày càng tinh vi và
hiện đại thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng ngày càng lớn. Do đó tích luỹ tư bản ngày
càng cao.

CÂU 9: THẾ NÀO LÀ CHI PHÍ SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA, LỢI NHUẬN, TỈ SUẤT LỢI

NHUẬN. PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỈ SUẤT LỢI NHUẬN.
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa:
- Để sản xuất ra hàng hóa người ta phải trả chi phí lao động gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại.
- Giá trị sản xuất c và lao động hiện tại tức là lao động sống để tạo ra giá trị mới là v+m. Đó là chi phí thực tế của xã
hội để tạo ra giá trị hàng hóa là c+v+m.Nhưng đối với nhà tư bản để sản xuất hàng hóa họ chỉ cần chi phí một lượng tư
bản nhất định.
- Để mua tư liệu sản xuất c và mua sức lao động v chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là k,
k=c+v.
=> Kết luận:
- Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá cả sức lao động đã
tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản.
- Công thức giá trị hàng hóa sẽ chuyển thành k+m.
- So sánh chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa k và giá trị hàng hóa thì có sự khác nhau về chất và lượng:
Về chất: chi phí k nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa được đo bằng chi phí tư bản và nó đã che giấu nguồn
gốc của m. Nó đã xóa nhòa ranh giới giữa c và v. Nó làm cho người ta lầm tưởng rằng k đẻ ra m.
Về lượng: chi phí k luôn nhỏ hơn giá trị hàng hóa, chi phí k là giới hạn về sự lời và lỗ, người sản xuất quan
tâm đến giảm chi phí k nhưng lãi nhiều.
Lợi nhuận
- Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và k.
- Khi bán hàng, giá cả thị trường bằng giá trị hàng hóa tức là bằng c+v+m.
- Các nhà tư bản thu được một khoản tiền lời, tiền lời đó gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.
- So sánh giữa p và m:
Về lượng: bằng nhau.
Về chất: m là một bộ phận giá trị mới do lao động sống của công nhân tạo ra, còn p là hình thức biểu hiện bề
ngoài của m. Nó chính là m và được quan niệm lầm tưởng rằng do k đẻ ra.
- Giá trị hàng hóa bằng k+p.
=> Kết luận:
- Lợi nhuận p chính là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư.
- p là hình thái chuyển hóa của m do lao động sống làm ra và được quan niệm lầm tưởng rằng do toàn bộ tư bản ứng
trước sinh ra.


Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

12


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

Tỉ suất lợi nhuận:
Khi m chuyển hóa thành p thì m’ cũng chuyển hóa thành p’.
Công thức: m’ = . 100% và p’ = . 100%
=> Kết luận:
- Tỉ suất lợi nhuận p’ là tỉ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận với toàn bộ tư bản ứng ra để sản xuất kinh doanh.
- Giữa m’ và p’ có sự khác nhau:
- Về lượng: p’ bao giờ cũng nhỏ hơn m’.
- Về chất: m’ nói lên mức doanh lợi lời và lãi nhiều hay ít của việc đầu tư tư bản.
Những nhân tố ảnh hưởng tới tỉ suất lợi nhuận:
- Tất cả biện pháp nâng cao m’ thì cũng là những biện pháp để nâng cao p’. Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ
suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản: trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì
tỷ suất lợi nhuận càng giảm
- Để nâng cao p’ thì tốc độ chu chuyển của tư bản phải tăng nhanh.
- Các nhà tư bản tiết kiệm tư bản bất biến c bằng cách khai thác máy móc, thiết bị, nhà xưởng một cách tối đa.
Để tiết kiệm sử dụng tư bản bất biến thì cần rút ngắn thời gian lưu thông; thường xuyên cải tiến máy móc, tích tụ nhân
công (mở rộng quy mô) và mở rộng hiệp tác của họ trên quy mô lớn tức là thực hiện sự chuyên môn hóa.

CÂU 10: PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH CẠNH TRANH GIỮA CÁC NGÀNH VÀ SỰ HÌNH THÀNH
TỶ SUẤT LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY.

Ví dụ: Có 3 ngành:
Cơ khí: 8000c+2000v.
Dệt:

7000c+3000v.

Da:

6000c+4000v.
m’=100%

p’

Cơ khí: 2000 m(p) → 20%
Dệt:

3000 m(p) → 30%

Da:

4000 m(p) → 40%

- Những nhà tư bản kinh doanh ở ngành cơ khí thì sẽ chuyển sang ngành da làm cho khối lượng hàng cơ khí giảm
xuống làm cung < cầu, dẫn đến giá cả hàng tăng lên, dẫn đến p’ trong cơ khí tăng lên. Giá định là tăng từ 20% →
30%.
- Ngược lại do tư bản chuyển từ cơ khí sang ngành da làm cho khối lượng hàng của ngành da tăng lên và dẫn đến cung
> cầu, giá cả hàng hóa da dần giảm xuống dẫn đến p’ trong ngành da sẽ giảm. Giả định giảm từ 40% xuống 30%.
- Cuối cùng tư bản kinh doanh trong các ngành khác nhau đều thu được giá trị p’ xấp xỉ nhau. Tỷ suất lợi nhuận đó
được gọi là tỷ suất lợi nhuận chung hay còn gọi là tỷ suất lợi nhuận bình quân và ký hiệu là


p'.

=> Sau khi xác định được tỷ suất lợi nhuận bình quân thì ta tính được lợi nhuận bình quân theo công thức:

p

=

p'.

k

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

13


Câu hỏi ôn tập “Những nguyên lý cơ bản của Chủ Nghĩa Mác-Lênin”

GIA DINH UNIVERSITY

Nhận xét
- Nếu có số tư bản bằng nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau không kể cấu tạo hữu cơ của nó như thế nào
vẫn thu được số lượng lợi nhuận nganh nhau đó là lợi nhuận bình quân
- Sự hình thành

p

p.


đã che giấu quan hệ bóc lột nghĩa là nếu có tư bản đầu tư vào ngành nào thì cũng thu được lợi

nhuận bằng nhau. Nó không có quan hệ gì khối lượng thặng dư do lao động làm thuê tạo ra nhưng trên thực tế lợi
nhuận bình quân chỉ là m được phân phối các ngành sản xuất khác nhau tương ứng với số tư bản đầu tư của các nhà tư
bản một cách tự phát và xét chung trong toàn bộ xã hội tổng số lợi nhuận bằng tổng số lợi nhuận thặng dư.
-

p

bình quân một mặt phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong việc đấu tranh phân chia m. Mặt khác nó cũng

vạch rõ toàn bộ sự bóc lột của giai cấp tư bản đối với công nhân làm thuê.
Ý nghĩa nghiên cứu:
- Việc nghiên cứu sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có ý nghĩa rất quan trọng. Về mặt lý luận, nó giúp ta thấy
được sự phát triển lý luận giá trị và giá trị thặng dư của Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Lợi nhuận bình
quân một mặt phản ánh quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận với nhau. Nhưng mặt
khác, nó vạch rõ toàn bộ giai cáp tư sản bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân. Vì vậy muốn giành thắng lợi, giai cấp
công nhân phải đoàn kết lại, đấu tranh với tư cách là một giai cấp, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.
Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa quan trọng là nhà nước cần có chính sách, luật pháp khuyến khích cạnh tranh lành
mạnh sẽ có tác dụng cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý sản xuất, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất.

Đội Quân Nhí Nhố - 08DHCT02

14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×