Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN một số NGUYÊN tắc và nội DUNG cơ bản TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc của ĐẢNG, NHÀ nước TRONG THỜI kỳ đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.01 KB, 21 trang )

MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Việt Nam là một quốc gia đa thành phần dân tộc. Trong 54 dân tộc, có tới
53 dân tộc thiểu số. Các thành phần dân tộc thiểu số có sô dân gần 11 triệu
người, chiếm hơn 13% dân số cả nước. Các dân tộc sống đoàn kết, thân ái,
tương trợ với nhau, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết và bản sắc đa dạng và phong
phú về văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Các dân tộc thiểu số Việt
Nam có tỷ lệ số dân không đồng đều: 12 dân tộc có số dân từ 10 vạn người trở
lên (trong đó có 04 dân tộc có số dân trên 1 triệu người); 21 dân tộc có số dân từ
1 vạn đến 10 vạn người; 15 dân tộc có số dân từ 1.000 người đến 1; 05 dân tộc
có số dân dưới 1.000 người. Các thành phần dân tộc thiểu số cư trú phân tán, ở
tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước; cư trú xen kẽ. Trong 1 đơn vị hành
chính, có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống. Địa bàn có đông dân tộc
thiểu số cư trú là vùng miền núi, biên giới, với diện tích tự nhiên chiếm 2/3 diện
tích cả nước; đây là vùng có vị trí địa lý, kinh tế và quốc phũng quan trọng.
Cỏc dõn tộc thiểu số cú trỡnh độ dân trí, trỡnh độ phát triển kinh tế - xó hội
khụng đều nhau. Các dân tộc thiểu số ở vùng đồng bằng Nam bộ với địa hỡnh
đất đai khá màu mỡ, khí hậu, thời tiết ổn định, canh tác thuận lợi, đời sống kinh
tế xó hội phỏt triển, ổn định hơn các vùng khác. Vùng Tây bắc, Đông Bắc, miền
Trung, với địa hỡnh chia cắt, phức tạp, đất đai khô cằn, nhiều đồi dốc, núi đá,
khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai, canh tác rất khó khăn, đời
sống các dân tộc thiểu số khó khăn hơn, tỷ lệ hộ nghèo cao hơn, kinh tế chậm
phát triển hơn.
Các dân tộc thiểu số có những sinh hoạt, di sản văn hoá đa dạng, bản sắc
riêng, trong đó có những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể rất độc đáo, mang

1


tầm quốc gia, quốc tế. Tuy vậy, trong sinh hoạt, vẫn cũn những ảnh hưởng của


chế độ Mẫu hệ, cũn nhiều phong tục tập quỏn lạc hậu.
Ngay từ thời dựng nước, trong tiến trỡnh phỏt triển hàng ngàn năm, cỏc
dõn tộc dự quỏ trỡnh tộc người khác nhau nhưng luôn luôn sát cánh bên nhau
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Cái “giàn” mà ông cha ta đó tổng kết
chớnh là Tổ quốc Việt Nam của tất cả chúng ta. Xuất phát từ đặc điểm đó, ông
cha ta đó thực thi nhiều biện phỏp nhằm giải quyết vấn đề dân tộc trước yêu cầu
phát triển quốc gia, đặc biệt là trong thời cổ trung đại và di sản về vấn đề dân tộc
trong lịch sử đó để lại nhiều bài học quý giá cho hôm nay khi giải quyết vấn đề
dân tộc1. Chớnh vỡ vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó xỏc định vấn đề dân tộc có vai trũ và vị trớ đặc biệt quan trọng đối với
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn
đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đó đề ra những
nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là
đoàn kết, bỡnh đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Có thể khẳng định chính sách
dân tộc của Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong
mọi thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc của
Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển
của đất nước.
Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi
mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới
trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc
ở nước ta hiện nay và trong tương lai.
1 Di sản lịch sử về vấn đề dân tộc xem thêm Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam: Chính sách dân tộc của các chính
quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001

2



Từ Đại hội IV đến Đại hội XI của Đảng, chính sách dân tộc đó được
Đảng ta đề ra trên các vấn đề cốt lừi là: Vị trớ của vấn đề dân tộc trong toàn bộ
sự nghiệp cách mạng; các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc; những
vấn đề trọng yếu của chính sách dân tộc trong những điều kiện cụ thể. Các nội
dung cơ bản trên đây đó được thể chế hóa và triển khai thực hiện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xó hội.
1. Vị trí của vấn đề dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
Đây là vấn đề có ý nghĩa then chốt trong việc xác định nguyên tắc cũng
như chính sách của Đảng ta về vấn đề dân tộc. Đại hội Đảng lần thứ IV xác
định: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính
chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội
Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định vị trí của vấn đề dân tộc trên hành trỡnh đổi
mới của đất nước. Đó là vấn đề “có vị trí chiến lược lớn’’ 1, “luôn luôn có vị trí
chiến lược”, “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta’’.
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX đó ra nghị quyết chuyờn đề về
công tác dân tộc. Đây là nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng ta về vấn đề
này trong kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết chỉ rừ: Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trỡnh lónh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xem vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, Đảng ta đó đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc, với nội dung cơ bản là:
“Bỡnh đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển’’. Trải qua các thời
kỳ cách mạng, công tác dân tộc đó đạt được những thành tựu to lớn góp phần
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.125.

3


quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước. Trên cơ sở đánh giá

toàn diện vấn đề dân tộc và xuất phát từ yêu cầu của tỡnh hỡnh mới, Nghị quyết
khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Lần
đầu tiên, vấn đề dân tộc được xác định là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài cú
tớnh xuyờn suốt trong toàn bộ tiến trỡnh phỏt triển của cỏch mạng nước ta, đồng
thời Đảng ta cũn xỏc định đây là vấn đề cấp bách. Đây là luận điểm rất quan
trọng thể hiện tầm nhỡn chiến lược và tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và
quốc tế của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Việc xác định vị trí của vấn đề dân tộc của Đảng trên chính là xuất phát
từ đặc điểm của cộng đồng quốc gia dân tộc ở nước ta và coi đó là bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển đất nước. Đây là cơ sở rất quan trọng để từ đó
định ra các nguyên tắc cũng như chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Lênin đó từng chỉ rừ:
“những sai biệt về mặt dõn tộc và quốc gia giữa cỏc dõn tộc và cỏc nước, những
sai biệt này sẽ cũn tồn tại lõu dài ngay cả sau khi nền chuyờn chớnh vụ sản được
thiết lập trong phạm vi toàn thế giới’’1. Điều đú cho thấy chừng nào cũn cú sự
khỏc biệt về dõn tộc thỡ dõn tộc vẫn tồn tại và vẫn cũn cơ sở xó hội và thực tiễn
cũng như nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn dân tộc và xung đột dân tộc, do đó, vấn đề
dân tộc vẫn tiếp tục đặt ra.
Đối với nước ta, vấn đề dân tộc thiểu số vừa là vấn đề giai cấp, vừa là
vấn đề miền núi, vừa là vấn đề biên cương, vấn đề an ninh quốc gia và chủ
quyền lónh thổ, đồng thời đây cũng là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
mà Đảng ta đó đề ra. Bài học của nhiều quốc gia trên thế giới những năm cuối
thế kỷ XX cho thấy nếu coi nhẹ vấn đề dân tộc và không xác định đúng vị trí
1 Viện Sử học: Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về lịch sử, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, tr.320-321.

4


vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia thỡ tất yếu dẫn đến xung đột

dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xó hội, liờn quan đến sự tồn vong
quốc gia.
Sự tồn tại lâu dài của vấn đề dân tộc nhất là trong điều kiện quốc gia
đa tộc người, đa dạng về văn hóa là đặc điểm lớn ở nước ta, là đặc trưng diện
mạo lịch sử, văn hóa Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa
Việt Nam đó ghi nhận và khẳng định: Nhà nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam (Điều 5).
Khi xác định vấn đề dân tộc là nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đó quỏn
triệt sõu sắc cỏc nguyờn lý của chủ nghĩa Mỏc - Lờnin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta. Điều
này tiếp tục được khẳng định trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính
sách của Nhà nước trong những năm đổi mới, đặt nền tảng quan trọng để Đảng
và Nhà nước ta xây dựng đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn, giải quyết
thành công vấn đề dân tộc.
2. Các nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc
Ngay từ khi Đảng ta mới ra đời, các nguyên tắc cơ bản của chính sách
dân tộc đó được hỡnh thành và ngày càng hoàn thiện. Trong thời kỳ đổi mới, các
nguyên tắc cơ bản này tiếp tục được khẳng định và bổ sung thêm. Nếu như trong
các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn kết,
bỡnh đẳng giữa các dân tộc thỡ từ Đại hội VI trở đi các nguyên tắc này đó được
xác định là: “Đoàn kết, bỡnh đẳng, giúp đỡ lẫn nhau’’ (Đại hội VI), “Đoàn kết,
bỡnh đẳng, giúp đỡ lẫn nhau” (Đại hội VII), “Bỡnh đẳng, đoàn kết, tương trợ’’
(Đại hội VIII), “Bỡnh đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển’’
(Đại hội IX), “Bỡnh đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ’’

5


(Đại hội X). “Bỡnh đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”

(Đại hội XI)
+ Bỡnh đẳng giữa các dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản về chính sách
dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyên tắc này đó được thể hiện rừ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và các Hiến pháp ở nước ta. Hiến pháp đầu tiên ở nước ta
năm 1946 đó khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nũi giống, gỏi trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo’’. Các Hiến pháp tiếp theo đó thể hiện rừ nguyờn tắc quan trọng này.
Thực chất của việc thực hiện quyền bỡnh đẳng dân tộc chính là bảo đảm
các quyền cơ bản của mỗi con người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống,
quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân
tộc. Có dân tộc có số dân hàng chục triệu người, song cũng có dân tộc chỉ có vài
ngàn, thậm chí chỉ vài trăm người. Các dân tộc có trỡnh độ phát triển kinh tế xó hội khụng đều nhau. Thực hiện quyền bỡnh đẳng dân tộc ở nước ta thể hiện
vai trũ và vị trớ của mỗi dõn tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Bỡnh đẳng giữa các dân tộc là bỡnh đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa. Bỡnh đẳng cũn thể hiện trong quyền phỏt triển, được đảm bảo
và tạo mọi điều kiện để các dân tộc thực hiện và có cơ hội phát triển bỡnh đẳng
với các dân tộc khác. Để thực hiện bỡnh đẳng dân tộc thỡ phải làm giảm, tiến tới
từng bước xóa bỏ khoảng cách giữa các dân tộc do các điều kiện lịch sử quy
định trên thực tế mang lại ấm no hạnh phúc của nhân dân.
+ Đoàn kết dân tộc: là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc mà
Đảng ta xác định. Phát triển nguyên tắc đoàn kết giai cấp công nhân tất cả các
dân tộc của Lênin, trên nền tảng truyền thống Việt Nam, Đảng ta coi đoàn kết
dân tộc có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển đất nước. Hồ Chí Minh đó núi:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công’’.

6


Đại hội lần thứ X của Đảng đó khẳng định: Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc
có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.

Hồ Chí Minh cho rằng: “Đoàn kết của ta không những rộng rói mà cũn
đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ
quốc; ta cũn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
lũng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhõn dõn thỡ ta đoàn kết với họ”. Vỡ vậy,
Người chỉ rừ, trong quỏ trỡnh xõy dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hũa mối quan hệ giai cấp
- dân tộc để tập hợp lực lượng và Người đó định hướng cho việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân trong tiến trỡnh cỏch mạng Việt Nam từ cỏch mạng dõn
tộc dõn chủ nhõn dõn đến cách mạng xó hội chủ nghĩa.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết các dân tộc đó tạo
nờn sức mạnh to lớn để giành lại nền độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc. Trong
công cuộc đổi mới, đoàn kết các dân tộc nhằm hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Dưới sự lónh đạo của Đảng,
các dân tộc ở nước ta được làm chủ vận mệnh của mỡnh trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Đó chính là cơ sở để chúng ta thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách dân tộc của Đảng.
+ Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc: Nguyên tắc
này xuất phát từ một thực tế lịch sử là sự phát triển không đều giữa các dân tộc
khi chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước trong cơ chế thị trường định hướng
xó hội chủ nghĩa. Thực trạng phỏt triển kinh tế - xó hội ở nước ta cho thấy, sự
chênh lệch về phát triển kinh tế - xó hội là một đặc điểm lớn. Tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau là sự giúp đỡ của dân tộc này với dân tộc khác, không phải là sự giúp
đỡ một chiều. Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của sự
phát triển, vỡ sự phỏt triển bền vững của cộng đồng quốc gia dân tộc. Đó cũng
chính là bản chất của chính đảng vô sản. Để thực hiện vấn đề này, vai trũ của

7


nhà nước và hệ thống chính trị rất quan trọng. Trong các văn kiện của Đảng,

nguyên tắc tương trợ được bổ sung các thành tố tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng
phát triển, cùng tiến bộ. Có thể coi đây là một nguyên tắc đối với vấn đề dân tộc
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Bỡnh đẳng là cơ sở để đoàn kết, đoàn kết là biểu hiện thực hiện bỡnh
đẳng và tương trợ giúp đỡ nhau là điều kiện để thực hiện bỡnh đẳng và đoàn kết.
Các nguyên tắc cơ bản trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, được xác định và
triển khai đồng bộ trong quá trỡnh xõy dựng và triển khai thực hiện chớnh sỏch
dõn tộc ở nước ta.
3. Những vấn đề cơ bản của chính sách dân tộc
Trên cơ sở những nguyên tắc trên, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đó đề
ra những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc trong giai đoạn mới của cách
mạng. Có thể nói, đây là thời kỳ có không ít tác động đối với các dân tộc thiểu
số. Đó là tác động của cơ chế thị trường, của nền kinh tế nhiều thành phần và
của quá trỡnh cụng nghiệp húa, hiện đại hóa. Đấy là chưa nói đến quá trỡnh toàn
cầu húa và tỏc động từ bối cảnh chung của tỡnh hỡnh quốc tế phức tạp. Chớnh
vỡ vậy, để giải quyết vấn đề dân tộc phải có các chính sách hệ thống, toàn diện
đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, phù hợp với quá trỡnh phỏt triển của đất nước.
Nội dung của chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây:
- Chính sách về phát triển kinh tế vùng các dân tộc thiểu số nhằm phát
huy tiềm năng thế mạnh của vùng đồng bào các dân tộc, gắn với kế hoạch phát
triển chung của cả nước, đưa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cùng cả nước
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là một trong những vấn
đề có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện chính sách dân tộc trong hoàn cảnh và

8


điều kiện mới với mục tiêu tạo sự chuyển biến căn bản diện mạo và đời sống
đồng bào các dân tộc thiểu số.

- Chớnh sỏch xó hội tập trung vào các vấn đề giáo dục - đào tạo, văn
hóa, y tế... nhằm nâng cao năng lực, tạo tiền đề và các cơ hội để các dân tộc có
đầy đủ các điều kiện tham gia vào quá trỡnh phỏt triển, để trên cơ sở đó không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào.
- Chính sách liên quan đến quốc phũng - an ninh, nhằm củng cố cỏc địa
bàn chiến lược, giải quyết tốt vấn đề đoàn kết dân tộc và quan hệ dân tộc trong
mối liên hệ tộc người, giữa các tộc người và liên quốc gia trong xu thế toàn cầu
hóa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI mở đầu công cuộc đổi mới đó khẳng
định: “Thực hiện đúng chính sách giai cấp và chính sách dân tộc. Trong việc
phát triển kinh tế - xó hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số,
cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ gắn bó tốt đẹp
giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bỡnh đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ
tập thể; kết hợp phát triển kinh tế và phát triển xó hội, đẩy mạnh sản xuất và
chăm lo đời sống con người, kể cả những người từ nơi khác đến và dân tại chỗ.
Chống những thái độ và những biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn’’ và những biểu
hiện của dân tộc hẹp hũi’’.
Để triển khai những định hướng cơ bản đó, ngày 27-11-1989, Bộ Chính
trị đó ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn
phỏt triển kinh tế - xó hội miền nỳi. Tiếp sau đó, Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) đó thể chế húa bằng Quyết định số 72-HĐBT ngày 13-2-1990 về
một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xó hội miền nỳi. Đây là
hai văn kiện quan trọng đánh dấu sự đổi mới hoạt động công tác dân tộc và
chính sách dân tộc.

9


Từ những định hướng quan trọng đó, bước vào thập niên 90 của thế kỷ
XX, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đó vạch ra những nội dung cơ bản về

chính sách phát triển kinh tế - xó hội và quan hệ dõn tộc và làm rừ thờm: “Đoàn
kết, bỡnh đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, đồng thời giữ gỡn và phỏt huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Có chính sách phát triển kinh tế
hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng
vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh
của địa phương để làm giàu cho mỡnh và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Tôn trọng tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối
với các dân tộc. Đặc biệt có chính sách khắc phục tỡnh trạng suy giảm dõn số
đối với một số dân tộc ít người’’.
Lần đầu tiên chính sách phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số
đó được đề cập trong điều kiện cụ thể lúc bấy giờ. Trong các văn kiện của Đại
hội cũng đó đề cập về chính sách đối với người Hoa và người Khơme nhằm tiếp
tục củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Cùng với việc xác định công tác dân tộc ở
một số dân tộc cụ thể, Đảng và Nhà nước ta cũn đưa ra các chính sách đối với
các vùng dân tộc như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên trên cơ sở xem xét tính
đặc thù của từng vùng và yêu cầu phát triển đối với khu vực và quốc gia.
Cựng với tiến trỡnh đổi mới, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở
nước ta tiếp tục được Đảng ta bổ sung và cụ thể hóa. Đại hội Đảng lần thứ VIII
xác định: “Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trũ làm chủ của nhõn
dõn... Xõy dựng Luật dõn tộc. Thực hiện bỡnh đẳng, đoàn kết, tương trợ’’ giữa
các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ
nay (tức năm 1996) đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc,
thực hiện cho được ba mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn
định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân tộc, đồng bào

10


vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát

huy bản sắc tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán
bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch, vững mạnh’’.
Chính sách dân tộc trong giai đoạn này đặc biệt chú trọng vào việc xác
định mục tiêu phát triển và định hướng phát triển kinh tế - xó hội vựng cỏc dõn
tộc thiểu số với những trọng tõm rất quan trọng về đời sống và dân trí. Chính vỡ
thế, chủ trương xóa đói, giảm nghèo đó được triển khai khá rộng khắp ở nước ta
tại vùng các dân tộc thiểu số. Cùng với chương trỡnh xúa đói, giảm nghèo,
Chương trỡnh 135 về phỏt triển kinh tế - xó hội cỏc xó đặc biệt khó khăn ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa được triển khai đó mang lại những chuyển biến to lớn ở
vựng dõn tộc thiểu số và miền nỳi và khụng phải ngẫu nhiờn sự thành cụng của
chớnh sỏch này đó được thế giới đánh giá là tiêu điểm trong sự phỏt triển kinh tế
- xó hội vỡ con người và mục tiêu thiên niên kỷ của nhân loại.
Trên cơ sở đó, Đại hội lần thứ IX của Đảng cụ thể hóa và đưa ra những
chủ trương định hướng mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhất quán về
nguyên tắc và những luận điểm của các đại hội Đảng đó đề ra trước đó, Đảng ta
tiếp tục chủ trương đối với các dân tộc thiểu số cần phải: xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xó hội, phỏt triển kinh tế hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí..., thực hiện cụng bằng xó hội giữa
các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó
khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện
chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động
viên, phát huy vai trũ của những người tiêu biểu có uy tín trong dân tộc và địa
phương. Chống kỳ thị chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hũi, dõn tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc’’. Văn kiện
cũng đề ra chủ trương: nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn

11


giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ

nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia.
Tư tưởng cụng bằng xó hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền
xuôi là một trong những định hướng rất quan trọng trong chính sách dân tộc của
Đảng ta cùng với những nội dung khá toàn diện khác liên quan đến các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xó hội, đào tạo cán bộ...
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX đó đề ra một số quan điểm
cơ bản và xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2010, đồng thời nêu lên
những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cũng như các giải pháp cụ thể về công
tác dân tộc trong thời kỳ mới.
Trên cơ sở đánh giá những hạn chế yếu kém về công tác dân tộc trong
công tác dân tộc giai đoạn này, Nghị quyết cũng đề ra những nhiệm vụ chủ yếu
và cấp bách là:
- Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa; trong
những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc đặc biệt
khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tỡnh trạng thiếu lương
thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ
sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tỡnh trạng thiếu đất sản xuất, đất
ở và tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên,
Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơme Nam Bộ. Xây dựng và thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế - xó hội vựng biờn giới. Làm tốt cụng tỏc định
canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới; cụng tỏc quy hoạch, sắp
xếp, phõn bổ lại hợp lý dõn cư, nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển bền vững, gắn với bảo vệ an ninh, quốc phũng.

12


- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trỡnh phủ súng phỏt thanh,

truyền hỡnh; tăng cường các hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền hướng
về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trỡnh phỏt thanh,
truyền hỡnh bằng tiếng dõn tộc thiểu số, làm tốt cụng tỏc nghiờn cứu, sưu tầm,
gỡn giữ và phỏt huy cỏc giỏ trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa các dân tộc.
Thực hiện chương trỡnh phổ cập giỏo dục trung học cơ sở và các chương
trỡnh giỏo dục miền nỳi, nõng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo,
nhất là trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy mạnh việc tổ chức các
trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa phát triển
nhanh các loại hỡnh đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc, đưa chương
trỡnh dạy nghề vào cỏc trường dân tộc nội trú; tiếp tục thực hiện chính sách ưu
tiên, cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các trường đại học và
cao đẳng; mở thêm trường dự bị dân tộc ở miền Trung, Tây Nguyên. Nghiên
cứu tổ chức trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ người dân tộc
thiểu số.
Tăng cường cơ sở khám, chữa bệnh, cỏn bộ y tế cho cỏc xó, bản, thụn,
ấp; nõng cao hơn nữa công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu
số, khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân
tộc thiểu số. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về kiện toàn, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, kiên quyết khắc phục tỡnh trạng xa dõn
của một số cỏn bộ; thực hiện tốt cụng tỏc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, đói ngộ, luõn chuyển cỏn bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong đồng
bào dân tộc...
- Xõy dựng thế trận quốc phũng toàn dõn và thế trận an ninh nhõn dõn,
phỏt huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực

13


thù địch; tăng cường công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xó hội, không

để xảy ra những điểm “nóng” về an ninh trật tự xó hội ở vựng dõn tộc và miền
nỳi.
Tiếp tục phỏt triển nhanh cỏc khu kinh tế kết hợp quốc phũng ở vựng
sõu, vựng xa. Thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc và
miền núi; kiên quyết ngăn chặn việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tự do tín
ngưỡng để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.
- Đổi mới nội dung, phương thức công tác dân tộc phù hợp với nhiệm vụ
trong tỡnh hỡnh mới. Các quan điểm và những nhiệm vụ cấp bách, cơ bản trên
tiếp tục được khẳng định và làm rừ thờm tại Đại hội lần thứ X của Đảng. Văn
kiện Đại hội chỉ rừ: “Cỏc dõn tộc trong đại gia đỡnh Việt Nam bỡnh đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xó hội chủ nghĩa. Phỏt triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trỡnh độ dân trí, giữ gỡn và phỏt huy bản
sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xó hội ở miền nỳi, vựng sõu, vựng xa,
vựng biờn giới, vựng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và
xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát
triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phũng. Củng cố và nõng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; động viên, phát
huy vai trũ của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách
ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán
bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập
quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu
hiện kỳ thị, hẹp hũi, chia rẽ dõn tộc’’.

14


Đại hội XI của Đảng đó đề ra những vấn đề cơ bản nhất về chính sách

dân tộc hiện nay ở nước ta. Để triển khai những vấn đề quan trọng trên đây,
trong những năm qua, Chính phủ đó triển khai và ban hành hàng loạt cỏc
chương trỡnh dự ỏn nhằm tạo nờn sự chuyển biến cơ bản, toàn diện vùng các
dân tộc thiểu số. Gần đây, trên cơ sở những thành tựu của Chương trỡnh 135
giai đoạn I, Thủ tướng Chính phủ đó ban hành Chương trỡnh phỏt triển kinh
tế - xó hội cỏc xó đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi cũng như hàng loạt các chính sách, biện pháp về vấn đề dân tộc và công
tác dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới chính là sự kế thừa
và phát triển chính sách dân tộc của Đảng đó được vạch ra cùng với sự ra đời và
trưởng thành của Đảng; là sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Đó chính là tiền đề, là
điều kiện quan trọng nhất để giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta trờn
hành trỡnh đổi mới.
Tuy nhiên, so với vùng đồng bằng và vùng đó phỏt triển tương đối khá
thỡ miền nỳi và vựng dõn tộc thiểu số cũn là vựng khú khăn nhất. Tỷ lệ nghèo ở
các vùng dân tộc thiểu số cũn cao so với mặt bằng chung cả nước. Số người mù
chữ cũn nhiều. Trỡnh độ dân trí, mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào ở một số
vùng dân tộc thiểu số cũn thấp. Việc chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào vùng dân
tộc thiểu số cũn hạn chế. Tỡnh hỡnh an ninh chớnh trị và trật tự an toàn xó hội
trong vựng đồng bào dân tộc thiểu số cũn tiềm ẩn những nhõn tố gõy mất ổn
định. Vẫn cũn nhiều kẽ hở cho cỏc thế lực thự địch dễ lợi dụng vấn đề dân tộc
để “diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ” chống phá cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sẽ tiếp tục
thông qua chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, tăng cường lợi dụng vấn đề dân

15


tộc để tạo cớ can thiệp nhằm thực hiện “diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ” đối

với Việt Nam. Chúng sẽ lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta, sự thoái hoá,
biến chất, tỡnh trạng tham nhũng trong một số cỏn bộ, đảng viên để tuyên truyền
kích động, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dao động, làm giảm lũng tin của
quần chỳng đối với sự lónh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó
hội, tạo xu hướng chống đối từ bên trong. Chỳng tỡm cỏch xõy dựng khu vực
“tự trị” của người dân tộc thiểu số, hỡnh thành lực lượng đối lập, đối trọng với
chính quyền nhằm tạo ra một cơ sở xó hội khụng ổn định, suy yếu từ bên trong
để khi có điều kiện sẽ thực hiện “diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ” đối với
chế độ xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cỏc thế lực thự địch sẽ tăng cường hỗ trợ,
kích động, chỉ đạo lực lượng phản động trong và ngoài nước tổ chức móc nối,
tập hợp lực lượng nhằm tạo thế và lực cả bên trong và bên ngoài, đặc biệt là lực
lượng chống đối từ bên trong, từng bước đẩy một số người trong đồng bào dân
tộc thiểu số công khai đối đầu với chính quyền theo hướng “hợp pháp hoá” và
“quốc tế hoá”, sau đố phối hợp với lực lượng phản động khác để thực hiện “diễn
biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ”, xoá bỏ chế độ xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sẽ tiếp tục thông qua nhiều hỡnh thức,
nhiều lực lượng để tăng cường “điều tra”, nắm bắt tỡnh hỡnh dõn tộc để hỗ trợ,
kích động, chỉ đao lực lượng phản động trong người dân tộc thiểu số tổ chức
hoạt động chống đối, tạo ra những “điểm nóng dân tộc”, lấy cớ can thiệp để
hướng, lái Việt Nam đi chệch khỏi quĩ đạo của chủ nghĩa xó hội.
Thực tế đó chứng minh, dự bất kỳ tỡnh hỡnh nào, thủ đoạn và biện pháp
có thể thay đổi, nhưng âm mưu và mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch nhằm xoá bỏ vai trũ lónh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế
độ xó hội chủ nghĩa ở Việt Nam là khụng hề thay đổi. Hiện nay phương pháp
hoạt động của chúng chủ yếu vẫn là đẩy mạnh “diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật
đổ” tạo ra những nhân tố đối lập bên trong, thúc đẩy nhân tố này phát triển thành

16



lực lượng đối lập với Đảng, đối trọng với chính quyền, qua đó làm cho Việt
Nam suy yếu về mọi mặt, sau đó gây sức ép (kể cả sức ép quân sự) để lái Việt
Nam đi chệch khỏi quĩ đạo chủ nghĩa xó hội. Khi thực hiện phương pháp trên,
chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tỡm cỏch gõy ra những “điểm nóng” dân
tộc để can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Nếu chúng ta không nhận rừ õm mưu
của chúng, không kiờn quyết khắc phục tỡnh trạng xa dõn, tham nhũng, thoỏi
hoỏ, biến chất trong một bộ phận cỏn bộ, đảng viên; không thực hiện tốt quan
điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc; lơ là mất cảnh giác,
không quan tâm đến việc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
dân tộc để phá hoá cách mạng; không thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tếxó hội, mở rộng và phỏt huy dõn chủ, khụng làm tốt cụng tỏc tư tưởng đối với
quần chúng, không chủ động các biện pháp phũng ngừa thỡ sẽ rất nguy hiểm,
các thế lực thù địch có thể thực hiện được ý đồ của chúng.
Chúng ta có đủ điều kiện để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh chống
các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoá cách mạng. Dưới sự lónh
đạo của Đảng, chúng ta đó và đang đạt được những thành tựu to lớn trong sự
nghiệp đổi mới; kinh tế tiếp tục phát triển, chính trị ổn định, đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được cải
thiện, nâng cao; vị trí, vai trũ nước ta trên trường quốc tế ngày càng lớn. Đó là
nguồn động viên, cổ vũ lớn lao đối với quần chúng nhân dân, củng cố lũng tin
của quần chỳng nhõn dõn núi chung, của đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng
đối với Đảng, với Nhà nước và sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, chúng ta không được chủ quan, mất cảnh giác; phải xác định
rừ cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ” trong lĩnh vực dân
tộc là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới.
Cuộc đấu tranh này sẽ ngày càng gay go, quyết liệt và phức tạp hơn. Để làm thất
bại âm mưu “diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch trong

17



vấn đề dân tộc, đũi hỏi chỳng ta phải thực hiện tốt cỏc giải phỏp chiến lược về
xây dựng và bảo vệ Đảng, củng cố trận địa tư tưởng-văn hoá, đẩy mạnh công
cuộc đổi mới kinh tế theo định hướng xó hội chủ nghĩa, hoàn thiện cơ chế dân
chủ, giải quyết tốt những vấn đề kinh tế-xó hội, xõy dựng Quõn đội nhân dân,
Công an nhân dân vững mạnh, xây dựng và hoàn thiện các kế hoạch, phương án
xử lý trong mọi tỡnh huống có thể xảy ra.
Để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh chống “diễn biến hoà bỡnh, bạo
loạn lật đổ” của các thế lực thù địch trong vấn đề dân tộc, chúng ta cần thực
hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc,
phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm
công tác dân tộc.
Để phát huy vai trũ lónh đạo của các tổ chức Đảng, trách nhiệm của các
cấp chính quyền, các ngành và đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, cần quán
triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, nhất là những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật liên quan đến vấn đề dân tộc và công tác dân tộc; các đối sách và các
mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để phá
hoại cách mạng. Lónh đạo các cấp, các ngành thường xuyên quan tâm đến các
mặt công tác đối với vấn đề dân tộc; chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ làm công tác dân tộc hoặc liên quan đến vấn đề dân tộc; quan tâm
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
Thứ hai, thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá, xó hội ở
vựng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng môi trường lành mạnh, ngăn chặn kịp

18


thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để phá hoại cách mạng của

các thế lực thù địch.
Cần phải phát triển kinh tế, văn hoá, xó hội ở vựng dõn tộc thiểu số với
tốc độ cao hơn mức bỡnh quõn chung của cả nước mới có thể từng bước thu hẹp
khoảng cách giữa các dân tộc và các vùng; quan tâm đến từng vùng và từng dân
tộc, tiến tới sự bỡnh đẳng thật sự trên bỡnh diện kinh tế, chớnh trị, xó hội.
Thụng qua phỏt triển kinh tế, văn hoá, xó hội tạo sự ổn định và nâng cao đời
sống đồng bào các dân tộc thiểu số, củng cố lũng tin của quần chỳng đối với sự
lónh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, góp phần động
viên đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia các phong trào cách mạng; qua đó
ngăn chặn âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng họ vào việc chống phá cách
mạng.
Thứ ba, giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc; giữ
gỡn và làm giàu tiếng núi của mỗi dõn tộc là cốt lừi của văn hoá, phát triển văn
học, nghệ thuật của các dân tộc đóng góp vào xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để thực hiện tốt vấn đề trên cần phải có quy hoạch bồi dưỡng, đào tạo,
sử dụng, hỡnh thành đội ngũ cán bộ ở vùng dân tộc thiểu số, sao cho đội ngũ
này có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, số lượng cán bộ tỷ lệ thuận với
dân tố của các dân tộc thiểu số. Phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh
bạch trong việc thực hiện các chương trỡnh phỏt triển kinh tế-xó hội ở vựng dõn
tộc thiểu số để nhân dân biết, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chủ trương,
chính sách đó. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các dân tộc; củng cố, tăng
cường đoàn kết các dân tộc xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam; thi đua, giúp
đỡ nhau cùng phát triển, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước.

19


Thứ tư, triển khai sâu rộng phong trào quần chúng, nhất là phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng dân tộc thiểu số, chăm lo cải thiện đời sống vật

chất, tinh thần của quần chúng, tạo thuận lợi cho việc đấu tranh chống các thế
lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng.
Cỏc phong trào quần chỳng ở vựng dõn tộc thiểu số cần cú nội dung và
hỡnh thức phong phỳ, thiết thực, phự hợp với đặc điểm tâm lý đồng bào các dân
tộc, cuốn hút được đông đảo quần chúng tham gia, tạo ra khí thế cách mạng
trong nhân dân, động viên họ tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, phát triển đất nước, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề
dân tộc để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, không bị các thế lực
thù địch lôi kéo, lợi dụng.
Thứ năm, xây dựng phương án đấu tranh, kịp thời phát hiện và kiên
quyết đấu tranh với những đối tượng ngoan cố, lợi dụng vấn đề dân tộc để phá
hoại cách mạng; tích cực đấu tranh với những hoạt động can thiệp từ bên ngoài
vào vấn đề dân tộc của Việt Nam.
Cần có phương án tổng thể và phương án cụ thể đối với từng địa bàn, với
từng đối tượng, từng vụ việc, có sự thống nhất giữa các cấp, các ngành, các lực
lượng. Các phương án đó phải trên cơ sở chủ trương, quan điểm, chính sách dân
tộc của Đảng, đúng pháp luật của Nhà nước và thực tiễn tỡnh hỡnh và đặc điểm
từng địa bàn, từng đối tượng; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các
lực lượng, có sự phối hợp nhịp nhàng của các cấp, các ngành, dưới sự lónh đạo
của các cấp uỷ Đảng để ngăn chặn, giải quyết tốt các vụ việc lợi dụng vấn đề
dân tộc để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng thông qua cái
gọi là “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc tự quyết”, “dân tộc tự trị” để thực hiện

20


“diễn biến hoà bỡnh-bạo loạn lật đổ” đối với Việt Nam. Chúng đó dung tỳng,
tiếp tay cho bọn phản động người Việt ở hải ngoại; hỗ trợ, kích động, chỉ đạo

các phần tử phản động trong các dân tộc thiểu số ở trong nước tổ chức hoạt động
chống phá cách mạng nước ta. Hoạt động phá hoại của chúng đó gõy khụng ớt
khú khăn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Thủ đoạn
hoạt động chống phá của chúng thông qua vấn đề dân tộc ngày càng gia tăng,
tinh vi, sảo quyệt. Trong quỏ trỡnh hội nhập quốc tế, cỏc thế lực thự địch tiếp
tục lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam. Lợi dụng các
chính sách mở rộng hợp tác đầu tư phát triển của Đảng, Nhà nước ta, các thế lực
thù địch có xu hướng gia tăng các hoạt động chia rẽ dân tộc, kích động ly khai
tự trị, lợi dụng vấn đề dân tộc gắn với tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, lợi dụng
những khó khăn về đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, những thiếu sót
trong việc thực hiện chính sách và một số yếu kém của hệ thống chính trị cơ sở
ở một số nơi để chống phá và gây mất ổn định vùng dân tộc thiểu số. Vỡ vậy,
đũi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, nhất là lực lượng vũ trang cách mạng
phải không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tỉnh táo, kịp thời phát
hiện và chủ động đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng vấn đề dân
tộc để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, góp phần tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xó hội chủ
nghĩa.

21



×