Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN tín NGƯỠNG, tôn GIÁO ở VIỆT NAM và tự DO tín NGƯỠNG tôn GIÁO ở VIỆT NAM THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT đại hội ĐẢNG lần THỨ XI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.18 KB, 26 trang )

Tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam và chính sách tự do tín ngưỡng
tôn giáo ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng
1. Đặc điểm và tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy
tín đồ các tôn giáo chỉ chiếm khoảng 20% dân số, song tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam có những sắc thái riêng khá đa dạng và không kém phần phức tạp.
Điều đó thể hiện trên những điểm sau đây:
* Những đặc điểm cơ bản của tôn giáo ở nước ta
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo khác nhau đang tồn
tại
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi giao lưu của nhiều luồng
văn hoá, lại chịu ảnh hưởng từ hai nền văn minh lớn Trung Hoa và ấn Độ.
Quá trình hình thành và phát triển, dân tộc Việt Nam luôn phải chống chọi lại
thiên tai và giặc ngoại xâm, nên người dân đã nảy sinh tâm lý được nhờ cậy,
che chở từ thần, thánh. Điều đó được thể hiện trong đời sống tâm linh của
cộng đồng các dân tộc ở nước ta. Hơn nữa, do bản tính vốn cởi mở, khoan
dung nên cùng một lúc người Việt có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ năm 2011, nước ta có hơn 25
triệu tín đồ (chiếm hơn1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người,
Công giáo 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hoà hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và
Hồi giáo khoảng 100.000 tín đồ. Song nếu kể các hành vi thờ cúng tổ tiên,
thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết người Việt có tâm linh tôn giáo. Nhà


nước đã công nhận tư cách pháp nhân của 13 tôn giáo với 33 tổ chức tôn giáo,
80 nghìn chức sắc, nhà tu hành và trên 25 nghìn nơi thờ tự. Sinh hoạt tín
ngưỡng, tôn giáo diễn ra sôi nổi và đang có chiều hướng gia tăng. Lễ Nôen, lễ
Phật đản cũng như những lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân
gian trở thành ngày hội chung của toàn dân, lôi cuốn hàng vạn người tham


gia. Nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng ấy được chính quyền
các địa phương tạo điều kiện đáp ứng. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ
tự diễn ra khắp nơi. Nhiều chính quyền địa phương còn cấp đất cho giáo hội
làm nơi thờ tự, sinh hoạt tôn giáo.
Các dân tộc ở Việt Nam có nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian
truyền thống, như thờ cúng tổ tiên, thờ anh hùng dân tộc, thờ thành hoàng
làng, thờ Mẫu, thờ tổ nghề, tín ngưỡng phồn thực…những điều đó được nuôi
dưỡng, góp phần củng cố tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu gia đình,
dòng họ, và lòng tự tôn dân tộc. Sự tôn thờ ấy rất tự nhiên trong tâm thức con
người, biểu thị tâm linh, một sự nương tựa, hy vọng cầu mong được che chở,
phù hộ luôn gặp may mắn và hạnh phúc. Đây là một trong những nguyên nhân
khiến cho người Việt Nam không khắt khe lắm với việc tiếp nhận các tôn giáo, dù
là từ bên ngoài truyền vào hay được hình thành ở trong nước.
Tuy rằng lịch sử hình thành, quá trình du nhập, số lượng tín đồ, sự ảnh
hưởng xã hội Việt Nam có khác nhau, nhưng đến nay các tôn giáo cơ bản vẫn tồn
tại và còn tồn tại lâu dài cùng với quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Thứ hai, tôn giáo ở Việt Nam có tính đan xen, hoà đồng với nhau
Do sự khoan dung, lòng độ lượng, tính nhân ái, cũng như yêu cầu
đoàn kết để bảo vệ đất nước, mà người Việt Nam chấp nhận sự hòa nhập của
các yếu tố tôn giáo khác nhau, một khi nó không ảnh hưởng đến lợi ích quốc


gia và đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Các tôn giáo du nhập vào
nước ta, sớm hay muộn, ít nhiều đều chịu sự chi phối từ đặc điểm dân tộc và
mang dấu ấn của dân tộc. Quá trình du nhập, hình thành và tồn tại ở Việt
Nam, các tôn giáo có tính đan xen, hoà đồng với nhau, điều đó được thể hiện
như sau:
Đại bộ phận người Việt Nam rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo cụ
thể, vì có sự thờ cúng đa thần tại nhiều nơi. Người ta không chỉ thờ phụng tại
gia đình mà ở đình, chùa, đền, miếu, gốc cây (cổ thụ), hốc đá…mà còn khấn

vái “chín phương trời, mười phương Phật”. Hay nhiều người “có thể đều đặn
đến chùa, mà vẫn hầu bóng; có thể vừa chịu đủ những phép bí tích, mà vẫn
ham bói toán, tử vi; vừa tham gia các nghi lễ tôn giáo mà vẫn chăm chỉ thờ
cúng tổ tiên, tổ chức hội làng”[31, tr. 87].
Nơi thờ tự của một số tôn giáo như đạo Phật, đạo Cao Đài có sự hiện
diện cả Phật, Thần, Thánh, Tiên…Giáo lí của nhiều tôn giáo khi vào nước ta,
có những điều khác biệt so với tôn giáo gốc và ít nhiều đều có sự dung hợp
với tín ngưỡng bản địa. Nhờ có tính hoà đồng của các tôn giáo mà ở một đất
nước đa dân tộc và nhiều tôn giáo như nước ta, vẫn giữ được truyền thống
đoàn kết, không phân biệt tôn giáo. Mặc dù, do âm mưu chia rẽ khối đại đoàn
kết dân tộc để thực hiện ý đồ chính trị đen tối của các thế lực thù địch, ở một
vài thời điểm lịch sử giữa các tôn giáo có “bất hòa”, nhưng nó chỉ diễn ra chủ
yếu trong phạm vi hẹp, không dẫn tới sự xung đột hay chiến tranh tôn giáo.
Dù là tín đồ đạo Công giáo, Phật giáo, Tin lành…hoặc không theo một tôn
giáo nào, người Việt Nam cùng sống, làm việc và sinh hoạt chung với nhau
trong một xã, một huyện; ở một tỉnh, thành phố có nhiều tôn giáo khác nhau
[103].


Các tôn giáo thế giới khi vào Việt Nam, đã bị ảnh hưởng của phong
tục tập quán, bản sắc văn hóa Việt Nam, như tín đồ đạo Công giáo vừa thờ
Chúa, vừa thờ cúng tổ tiên và xây dựng nhà thờ theo kiến trúc dân tộc (như nhà thờ
Phát Diệm); hay đường hướng hành đạo của Công giáo là “Sống phúc âm giữa
lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”, đạo Phật hành đạo theo tư tưởng
“Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”…
Thứ ba, yếu tố nữ trong tôn giáo ở Việt Nam
Từ đặc điểm lịch sử dân tộc, người phụ nữ Việt Nam có vai trò, vị trí
quan trọng trong gia đình, trong sản xuất và chống giặc ngoại xâm. Vì thế, tín
ngưỡng ở nước ta có truyền thống tôn thờ các Thánh Mẫu, cho nên một số tôn
giáo lớn vốn coi thường phụ nữ, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, đã phải

thay đổi ít nhiều cho phù hợp với phong tục, tập quán dân tộc ta. Một số tôn
giáo như Hồi giáo, Công giáo…khi vào nước ta, muốn tồn tại đã có một số
thay đổi cho phù hợp với vai trò người phụ nữ Việt Nam. Đạo Hồi vào nước
ta được dung hòa với chế độ mẫu hệ của người Chăm.
Trong các di tích lịch sử - văn hoá ở nước ta được xếp hạng, có rất
nhiều di tích thờ Mẫu. Việt Nam có nhiều hình thức thờ Mẫu tồn tại ở mọi
vùng miền đất nước, như Quốc Mẫu (mẹ Âu Cơ), Thiên thần Vương Mẫu (mẹ
Thánh Gióng), Mẫu tứ phủ, Mẫu Liễu…
Ở một nước với nền văn minh nông nghiệp thì hình ảnh người mẹ biểu
tượng của sự sinh sôi, nảy nở và trường tồn của dân tộc. Vì vậy, trong tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam yếu tố nữ là một đặc điểm quan trọng.
Bốn là, tín đồ các tôn giáo ở nước ta phần lớn là nông dân
Nước ta là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất cao (đến nay
vẫn có khoảng 80% dân số) nên tín đồ các tôn giáo phần lớn là nông dân. Người


nông dân Việt Nam vốn có truyền thống cần cù lao động, yêu quê hương, đất
nước và dũng cảm trong đấu tranh chống thiên tai, giặc ngoại xâm và căm thù áp
bức bóc lột. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tín đồ các tôn giáo
là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc
và thống nhất Tổ quốc. Ngày nay trong công cuộc đổi mới, đồng bào các tôn
giáo với nguyện vọng “tốt đời, đẹp đạo”, cùng cả nước phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Do nhiều nguyên nhân nên phần lớn tín đồ các tôn giáo ở nước ta hiểu
biết giáo lí không sâu sắc, nhưng rất sùng đạo, chăm chỉ thực hiện các lễ nghi
tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo. Một bộ phận tín đồ đôi
khi ngộ nhận và cả tin nên dễ bị các thế lực thù địch tuyên truyền, kích động
lợi dụng để chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Năm là, một số tôn giáo ở nước ta luôn bị các thế lực thù địch lợi
dụng chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Do nước ta là quốc gia có nhiều tôn giáo và số lượng tín đồ chiếm tỷ
lệ cao trong dân cư, trong quá trình lịch sử, một số tôn giáo luôn bị các thế lực
thù địch lợi dụng để chống phá sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Thực tế ấy
đã làm cho nhân dân ta (trong đó có một bộ phận những tín đồ yêu nước) phải
luôn cảnh giác chống lại âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vì mục đích
chính trị phản động của các thế lực thù địch.
Ngày nay, Việt Nam vẫn là đối tượng chống phá của chủ nghĩa đế
quốc, chúng âm mưu sử dụng vấn đề nhân quyền gắn với tôn giáo, hòng xoá bỏ
CNXH ở Việt Nam. Vì vậy, chính sách tôn giáo của Nhà nước ta, một mặt vừa
đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải luôn cảnh giác với
âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá cách mạng.


* Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay không thể nằm ngoài sự tác động
chung của thế giới. Từ khi đổi mới ở Việt Nam đến nay, các tôn giáo hoạt động
sôi động hơn, cùng với sự xuất hiện những hiện tượng “tôn giáo” mới, các thế
lực thù địch tăng cường lợi dụng tôn giáo thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình”, làm cho tình hình tôn giáo ở nước ta có những diễn biến phức tạp.
Thứ nhất, các tôn giáo đều có chiều hướng phục hồi và gia tăng hoạt
động, nhất là sự phát triển nhanh đột biến của đạo Tin lành ở vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Điều đó thể hiện ở việc các tôn giáo đều ra sức vận động
phát triển tín đồ; mở rộng đào tạo chức sắc, in ấn, xuất bản kinh sách, xây
dựng, tu sửa cơ sở thờ tự. Bên cạnh sự hoạt động sôi động hơn của các tôn
giáo được Nhà nước ta cho phép, hoạt động truyền đạo Tin lành trái phép
đang có chiều hướng tăng lên; đồng thời, nhiều nơi “Việc chia tách, sát nhập
tổ chức giáo hội cơ sở, xây sửa chữa cơ sở thờ tự, nhập tu và thuyên chuyển
chức sắc và truyền đạo trái pháp luật đang có sự gia tăng, chủ yếu ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số”[4, tr.5].
Thứ hai, hoạt động tôn giáo chịu ảnh hưởng của cơ chế thị trường,

trong điều kiện kinh tế thị trường, sự khá giả của đời sống xã hội làm cho hoạt
động tôn giáo trở nên nhộn nhịp hơn, nhất là vào những ngày lễ trọng của tôn
giáo. Tình trạng một số người vẫn cả tin vào các nghi thức, cúng lễ, gây lãng
phí nhiều thời gian và tiền của. Các ấn phẩm, sách báo về tôn giáo xuất hiện
nhiều, phát tán ở thành thị, nông thôn và miền núi; những hoạt động mê tín dị
đoan, hầu đồng, tử vi, tướng số…có chiều hướng gia tăng. Một số kẻ đội lốt
tôn giáo, lợi dụng lòng tin của tín đồ bày chuyện quyên góp, lừa đảo dưới nhiều
hình thức, gây mất ổn định xã hội và làm khó khăn cho đời sống nhân dân.


Thứ ba, nhìn chung các tôn giáo đều hành đạo trong khuôn khổ pháp
luật, tuân thủ sự quản lý của Nhà nước và địa phương. Song, các thế lực thù
địch, phản động trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc kích
động số chức sắc, tín đồ cực đoan, lôi kéo một bộ phận quần chúng gây rối,
làm mất trật tự chính trị, xã hội. Một số cá nhân ở từng tôn giáo, lợi dụng sự
quản lý có những mặt còn hạn chế của chính quyền cơ sở địa phương để luồn
lách, thực hiện các hoạt động tôn giáo vượt quá khuôn khổ cho phép. Cụ thể
như “Các hệ phái Tin lành chưa được công nhận đang hoạt động mạnh…với
mục đích tạo sự quan tâm của dư luận, tìm kiếm sự ủng hộ của các lực lượng
bên ngoài về vật chất và tinh thần để được công nhận”[4, tr.5].
Trong những năm qua, với thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước,
đời sống đồng bào các tôn giáo được cải thiện, nhiều cơ sở thờ tự được tu sửa,
xây mới, các sinh hoạt tôn giáo được bảo đảm; đồng bào tôn giáo tăng thêm
niềm tin vào Đảng và Nhà nước ta. Đại bộ phận chức sắc, tín đồ lên án và đấu
tranh với những hoạt động của bọn xấu lợi dụng tôn giáo để gây rối, làm mất
trật tự an toàn xã hội, chống phá CNXH ở nước ta.
Thứ tư, đại bộ phận chức sắc, tín đồ có tinh thần yêu nước gắn bó với
dân tộc, là những người lao động, có nhiều người đã tham gia kháng chiến
chống xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, vừa hoạt động tôn giáo, vừa
tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại đa số đồng bào có đạo yên tâm hành

đạo, tôn trọng và hợp tác với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp, hoạt động
tôn giáo bình thường trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, một bộ phận chức sắc, tín đồ tôn giáo bị các thế lực thù
địch lôi kéo, kích động, đã có những hành vi chống phá sự nghiệp cách mạng,
tác động xấu đến đời sống tín đồ. “Một số phần tử xấu trong Cao đài Tây Ninh
tiếp tục móc nối với Cao đài hải ngoại có những hoạt động chống đối Hội đồng


Chưởng quản và vu cáo Nhà nước ta hạn chế các hoạt động của Cao đài…Số
chức sắc, tín đồ “ly khai” trong Cao đài Tiên Thiên tiếp tục có những hoạt động
trái phép, có âm mưu thành lập Tiên Thiên cứu cánh”[4, tr.5].
Nói chung, tình hình tôn giáo ở nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi
mới đến nay đã có sự chuyển biến về nhiều mặt. Nhưng, cũng còn những diễn
biến phức tạp, do các thế lực thù địch phản động lợi dụng tôn giáo, kích động
một bộ phận tín đồ chống phá cách mạng có lúc, có nơi gây mất trật tự xã hội,
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Trong đó có “Tình hình khiếu kiện liên quan đến
tôn giáo vẫn diễn ra phổ biến, phức tạp, tập trung chủ yếu vẫn là đất đai, cơ sở thờ
tự. Theo báo cáo (năm 2004) của 34 tỉnh, thành phố số vụ thụ lý là 302, về đất đai
và cơ sở vật chất là 152…”[4, tr. 5].
Tình hình trên đã tạo nên sự phức tạp trong công tác vận động đồng
bào tôn giáo ở nước ta. Cho nên, Đảng và Nhà nước ta cần có quan điểm,
chính sách đối với tôn giáo phù hợp với tình hình hiện nay, góp phần củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
XHCN.
2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách đối với tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, giải quyết vấn đề tôn giáo, từ tình hình tôn giáo thế giới và
tình hình, đặc điểm tôn giáo ở nước ta, cùng những kinh nghiệm trong lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn về giải quyết vấn đề tôn giáo qua các giai đoạn cách

mạng, Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm, chính sách đối với tôn giáo hiện
nay.


Ngay từ khi mới ra đời, trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về
thành lập Hội Phản đế đồng minh, ngày 18/11/1930, Đảng ta đã khẳng định:
"Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại trong và ngoài
nước, tự do tín ngưỡng, tự do khai hóa”. Tiếp đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) cũng xác định: "Tôn trọng và bảo vệ
quyền tự do tín ngưỡng”. Đến ngày 14 tháng 6 năm 1955, Nhà nước ta đã có
Sắc lệnh số 234/SL, quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Sau
đổi mới, năm 1990, Đảng ta ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW đánh dấu bước
phát triển mới trong nhận thức về tôn giáo, tiếp tục khẳng định chủ trương
nhất quán tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng. Đặc biệt,
đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) lần đầu tiên quan
điểm mới ấy đã chính thức được ghi trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội:
"Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng
và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương, giáo và giữa các tôn giáo.
Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có
đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng”.
Từ đó đến nay, trong các kỳ Đại hội VIII, IX, X, XI những quan điểm
về tôn giáo dần được bổ sung và từng bước hoàn thiện. Vấn đề tôn giáo cũng
được đề cập trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Những quan điểm được các
Đại hội Đảng nêu ra và được thể hiện trong các văn bản pháp luật cho thấy,
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng quyền tự do tôn giáo, chủ trương lấy mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ, phấn đấu vì "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm
điểm tương đồng để gắn bó giữa đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng



lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Các tín đồ
tôn giáo là một phần không thể thiếu trong cộng đồng người Việt Nam, được
hưởng mọi quyền lợi của một công dân Việt Nam theo quy định của pháp
luật.
* Quan điểm đối với tôn giáo của Đảng ta hiện nay
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước Đảng coi đổi mới tư duy
lý luận là khâu quan trọng. Trên tinh thần đó, Đảng ta thực hiện đổi mới tư duy
trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đến nay, quan điểm, chính sách đối với tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta được phát triển, bổ sung phù hợp với tình hình
đất nước và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, mọi tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật. Đồng thời, mọi người luôn đề cao cảnh giác với âm mưu, thủ
đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch phá hoại cách mạng ở nước
ta. Cho đến nay, các văn kiện của Đảng ta luôn thể hiện quan điểm rõ ràng và
nhất quán đối với tôn giáo, mà gần đây nhất Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương khoá IX, trong đó có những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta: Đồng bào có đạo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cho
nên Đảng có quan điểm “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật" [20, tr. 48].
Điều đó có nghĩa là, trên cơ sở thừa nhận tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đạo đức tôn giáo có nhiều điều



phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta, Đảng yêu cầu phải tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Sự tôn trọng đó được
hiểu là Đảng ta chăm lo cụ thể đến lợi ích tinh thần thiết thực và tôn trọng nhu
cầu chính đáng của đồng bào có đạo, không phân biệt đối xử vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo, nhằm góp phần tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân và giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Cùng với quan điểm trên, Đảng ta yêu cầu các cấp, các ngành và mọi
người dân luôn đề cao cảnh giác, kịp thời đấu tranh chống các thế lực thù địch
lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Hai là, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kết dân tộc: Đồng bào các tôn giáo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
là : “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào tôn
giáo và không theo tôn giáo. Giữ gìn, phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và
nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
mê tín dị đoan, kích động gây chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh
quốc gia”[20, tr. 49].
Quan điểm đó thể hiện, để sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
XHCN ở nước ta giành thắng lợi, Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo. Chú
ý đến giáo dục truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người
trồng cây của dân tộc Việt Nam cho nhân dân, nhằm tăng cường đoàn kết
lương - giáo và phòng chống âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực phản
động.


Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng: Đại bộ phận tín đồ các tôn giáo ở nước ta là quần chúng nhân dân lao

động, có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Hiện nay, trong sự
nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN, mục tiêu của Đảng ta: “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là điểm tương đồng để gắn bó
khối đại đoàn kết toàn dân tộc (trong đó có đồng bào theo các tôn giáo) vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo, phải động viên đồng bào
nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc,
thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đảng và Nhà nước ta có quan điểm đúng đắn trong vận động đồng bào
các tôn giáo và coi công tác vận động đồng bào các tôn giáo, cũng như vận
động quần chúng nói chung vì mục đích đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong vận động quần chúng, Đảng và Nhà nước ta quan tâm
giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức của các thế lực lợi dụng đức tin tôn
giáo để nô dịch đồng bào có đạo cả về thể xác lẫn tinh thần, cùng với đó là
giáo dục họ vươn tới những giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị:
Đảng ta xác định : “Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là
trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo” [20, tr. 50].
Nước ta có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo, phân bố
ở mọi vùng miền cả nước. Vì vậy, công tác tôn giáo do toàn bộ hệ thống
chính trị tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng cũng cần xác định rõ


chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chức năng và những cán bộ chuyên trách
làm công tác tôn giáo.
Các cơ quan và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo, là
lực lượng tham mưu nòng cốt cho Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo. Tổ
chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở

những địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn giáo.
Công tác tôn giáo ở nước ta thực chất là công tác vận động quần
chúng, công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống các
thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá
hoại cách mạng. Cho nên, việc thực hiện quan điểm, chính sách đối với tôn
giáo chỉ đạt hiệu quả cao khi làm tốt công tác vận động quần chúng, của cả hệ
thống chính trị các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo ở nước ta: Đảng ta có quan
điểm: đồng bào các tôn giáo đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ
sở thờ tự hợp pháp, theo quy định của pháp luật; các tổ chức tôn giáo được
Nhà nước thừa nhận, được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo
hộ; được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất
bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự của mình theo đúng
quy định của pháp luật.
Cho nên “Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác,
đều phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước; không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo hoặc hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo
đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền
đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật”[20, tr. 50].
Điều đó thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là tôn trọng, bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và những hoạt động lễ nghi


của các tổ chức tôn giáo theo đúng pháp luật Nhà nước. Đồng thời, ngăn ngừa
và xử lý những hành động lợi dụng tôn giáo để hoạt động ngoài tôn giáo, trái
pháp luật Nhà nước, như: tuyên truyền tà đạo; hoạt động mê tín, dị đoan;
truyền đạo trái phép…của những kẻ đội lốt tôn giáo.
Những quan điểm trên thể hiện thành quả đổi mới tư duy, đổi mới
nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo hiện nay. Để thực hiện quan điểm,
chính sách đối với tôn giáo của Đảng, Nhà nước có hiệu quả, mọi cấp bộ

đảng, chính quyền, cơ quan chức năng và các ban ngành phải thực sự quan
tâm đến công tác tôn giáo, chăm lo đời sống vật chất - tinh thần - văn hoá của
đồng bào có đạo; vận động họ phát huy những giá trị đạo đức tôn giáo, tôn
trọng và bảo đảm quyền lợi tinh thần chính đáng của quần chúng có đạo.
Đồng thời, luôn luôn cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với những hoạt động
của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta.
Cùng với quan điểm trên, còn có những nguyên tắc chỉ đạo về công
tác tôn giáo ở nước ta hiện nay, trong đó vấn đề cơ bản nhất là bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân, nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Có nghĩa là Đảng và Nhà nước ta tôn trọng những đức tin, hành vi trong sáng
của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, đối xử công bằng giữa các tôn giáo và mọi
công dân để củng cố, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời,
khuyến khích những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân và phát huy những
giá trị văn hoá tốt đẹp của tôn giáo trong xây dựng xã hội mới ở nước ta.
* Một số vấn đề cụ thể trong chính sách đối với tôn giáo của Nhà
nước ta hiện nay.
Trên cơ sở quan điểm đối với tôn giáo của Đảng ta, Nhà nước đề ra
chính sách đối với tôn giáo phù hợp với đặc điểm, tình hình tôn giáo trong nước,


đáp ứng nguyện vọng của đồng bào có đạo và nhân dân trong các giai đoạn cách
mạng, như Nghị định 69/ HĐBT, Nghị định 26/NĐ-CP, Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo, Nghị định số 22/2005/NĐ-CP…trong đó đã đề cập đến một số nội
dung cụ thể sau:
Một là, đối với tín đồ các tôn giáo: Với tư cách là người có đạo “tín
đồ được bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện, tham
gia các hình thức sinh hoạt, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lí tôn giáo mà
mình tin theo” [75, tr. 98]. Điều đó có nghĩa là, họ được tự do tham gia sinh
hoạt tôn giáo không trái với quy định của Nhà nước tại gia đình và ở các cơ

sở thờ tự, có nơi thờ tự được pháp luật bảo hộ; tín đồ có kinh sách, đồ dùng
trong sinh hoạt tôn giáo và có chức sắc hướng dẫn các nghi thức tôn giáo.
Với tư cách là công dân, mọi tín đồ các tôn giáo đều có quyền lợi và
nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật. Đảng và Nhà nước khuyến khích, thu hút
đồng bào các tôn giáo tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội. Nhà nước
tạo mọi điều kiện để đồng bào các tôn giáo tích cực xây dựng cuộc sống mới,
đồng thời yêu cầu họ “không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công
dân; hoạt động tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật” [75, tr. 98].
Hai là, đối với các hoạt động tôn giáo: Những hoạt động tôn giáo
thường lệ hay bất thường tại cơ sở thờ tự và thực hiện trong khuôn viên cơ sở
thờ tự, thì “Hàng năm trước ngày 15 tháng 10, người phụ trách tổ chức tôn
giáo cơ sở có trách nhiệm gửi bản đăng ký hoạt động tôn giáo sẽ diễn ra vào
năm sau tại cơ sở đó đến uỷ ban nhân dân cấp xã”[10, tr.11]. Những hoạt
động tôn giáo ngoài chương trình đã đăng ký hàng năm, Nghị định
22/2005/NĐ-CP quy định như sau: hoạt động tôn giáo có sự tham gia của tín
đồ ở trong hay ngoài huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc ngoài
tỉnh, tổ chức tôn giáo cơ sở phải được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc huyện


nơi diễn ra hoạt động tôn giáo chấp thuận. Việc tổ chức tôn giáo tổ chức hội
nghị thường niên, đại hội được tiến hành sau khi có sự chấp thuận của cơ
quan quản lí nhà nước có thẩm quyền nơi diễn ra hội nghị, đại hội.
Các cơ sở từ thiện và hoạt động từ thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ
chức tôn giáo bảo trợ, hoạt động theo sự hướng dẫn của cơ quan chức năng nhà
nước.
Hoạt động quốc tế của các tổ chức tôn giáo, của các tín đồ, chức sắc phải
tuân thủ pháp luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước ta, trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị.
Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo là những người chuyên hoạt động tôn
giáo, họ có vai trò quan trọng trong tổ chức các tôn giáo, nên “Chức sắc, nhà tu

hành tôn giáo được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được
giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo”[75, tr. 98]. Chức sắc, nhà tu hành
tôn giáo được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình theo phạm vi
trách nhiệm đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách
nhiệm.
Ba là, đối với các tổ chức tôn giáo: Tổ chức được công nhận là tổ
chức tôn giáo khi “có giáo lí, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mĩ
tục, lợi ích của dân tộc; có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích,
đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với quy định của
pháp luật…”[75, tr. 99]. Tổ chức tôn giáo hoạt động trái với những điều cơ
bản đó thì bị đình chỉ hoạt động.
Để được hoạt động tôn giáo, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ
đăng ký đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó “Ban Tôn giáo Chính
phủ cấp đăng ký cho tổ chức có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố


trực thuộc Trung ương; cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh, cấp
đăng ký cho tổ chức có phạm vi hoạt động ở một tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương”[10, tr.3].
Các “tổ chức tôn giáo được thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi
dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo”[75, tr.101]. Tổ chức tôn giáo
được phong giáo chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc, nhà tu hành
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và thông báo với cơ quan quản
lí nhà nước có thẩm quyền về việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn
giáo.
Bốn là, đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo: Nhà
nước bảo hộ nơi thờ tự của tổ chức tôn giáo. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm
giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự. Việc tu bổ và sửa chữa nơi thờ tự phải được phép
của chính quyền các cấp.

Tổ chức tôn giáo được tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của
cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác, nghiêm cấm việc ép buộc
tín đồ đóng góp. “Việc tổ chức quyên góp của tổ chức tôn giáo phải công khai,
rõ ràng mục đích sử dụng và trước khi quyên góp phải thông báo với Uỷ ban
nhân dân nơi tổ chức quyên góp”[75, tr.102].
Việc in, xuất bản, phát hành các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm
tôn giáo, việc kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng
trong việc đạo, thực hiện theo quy chế của Nhà nước. Cấm in, sản xuất, kinh
doanh, lưu hành, tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống lại Nhà
nước ta, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết trong nhân
dân, những người chịu trách nhiệm về hành vi đó đều bị xử lí theo pháp
luật.


Thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết
tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Ở đó thể hiện quan điểm có ý
nghĩa quan trọng trong đổi mới tư duy của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo,
đó là những chính sách cơ bản đáp ứng nguyện vọng, tình cảm của tín đồ, chức
sắc các tôn giáo, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng sáng
tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
trong giải quyết cụ thể vấn đề tôn giáo ở nước ta. Quan điểm, chính sách đối
với tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng của
nhân dân. Đồng bào các tôn giáo được đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật, tích cực tham gia
vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
3. Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có

nhiều chỉ thị, nghị quyết về tự do tín ngưỡng tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong
sự nghiệp đổi mới của Đảng, chúng ta đã có 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng về công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo, do có sự nỗ lực
phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nên công tác tôn giáo đã đạt được những
kết quả trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Có được những kết quả có ý nghĩa lịch sử
đó là do nhiều nguyên nhân: nhờ Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH; tiếp tục đổi mới trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; nhờ có sự đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới về chính sách đối với tôn
giáo phù hợp; nhờ có sự quan tâm đến lợi ích của nhân dân, biết dựa vào dân, để phát huy
sức mạnh của toàn dân, trong đó có hơn 20 triệu đồng bào theo đạo; nhờ biết khai thác nội
lực và ngoại lực, biết kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại.


Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, vấn đề tôn giáo được đề cập trong mục X: “Phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc”[1], trong đó Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục hoàn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ
sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều
lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật” [2].
Như vậy, chúng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt
động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Hơn ai hết, đồng bào các tôn giáo Việt Nam
hiểu rất rõ rằng “Tổ quốc có độc lập, tôn giáo mới tự do”. Đạo và đời ngày càng gắn bó,
“Tốt đời đẹp đạo” là mục tiêu và cũng là đạo lý của tất cả các tôn giáo ở Việt Nam.

Là một nước đa tôn giáo, nhưng cộng đồng các tôn giáo hoạt động ở Việt
Nam luôn gắn bó với dân tộc; đồng thời, là nhân tố xã hội và văn hoá tích cực
góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Việt

Nam còn là một đất nước rất ôn hoà trong quan hệ giữa các tôn giáo, có truyền
thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Việc chung sống hoà bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính
nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh
sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam: thuần tuý nhưng phong phú, đan
xen nhưng không mâu thuẫn. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ tích
cực và mang tính xây dựng giữa các tôn giáo và Nhà nước đã được thể hiện rất
rõ và ngày càng được củng cố. Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết
hoà hợp các tôn giáo là nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định bảo đảm cho
mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và BVTQ dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.


Những quan điểm cơ bản về tôn giáo nêu trong Báo cáo Chính trị tại
Đại hội XI vừa có sự kế thừa, vừa có sự phát triển để tiếp tục lộ trình đổi mới
tư duy về tôn giáo của Đảng. Sự nghiệp đổi mới đất nước được bắt đầu từ Đại
hội VI, và đổi mới về lĩnh vực tôn giáo thật sự bắt đầu từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) Nghị quyết chỉ rõ: “Đảng và Nhà
nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân,
thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo”[3]. Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá IX) về công tác
tôn giáo, là sự khẳng định đường lối, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách, tôn giáo; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân, phù hợp với truyền thống văn hoá, đạo đức xã hội, pháp luật
Việt Nam và những điều ước quốc tế. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc"[4].
Vấn đề tôn giáo được nêu trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI đã làm rõ nét hơn lộ trình đổi mới tư duy của Đảng về
vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo. “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan

trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự tồn tại, hoạt động của các tín ngưỡng,
tôn giáo làm phong phú bộ mặt văn hóa tinh thần của đất nước. Tuyệt đại đa số
tín đồ, chức sắc, chức việc tôn giáo đều thể hiện xu hướng đồng hành cùng dân
tộc, đoàn kết, chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước”[5]. Đa phần người Việt
Nam đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và cùng với nhiều phong tục, lễ hội
văn hoá khác nhau. Sự đan xen, hoà đồng nhiều tín ngưỡng, tôn giáo là một
trong những nét văn hoá, đặc trưng của đời sống tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
nước ta. Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết lương-giáo và giữa các tôn giáo; khắc phục thái độ hẹp hòi, thành kiến,


phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống mọi hành vi vi phạm quyền tự do
tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia và ngăn chặn mọi hành
vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc.
Nhờ có chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta và việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật Nhà nước của những
người có đạo và không có đạo, của các tổ chức tôn giáo, nên hoạt động của
các tôn giáo trong những năm qua cơ bản tuân thủ đúng pháp luật; phần lớn
chức sắc, tín đồ của các tôn giáo tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo thực
hiện khá nghiêm túc việc đăng ký lịch sinh hoạt tôn giáo hằng năm; các chức
sắc, phật tử tích cực tham gia các phong trào do chính quyền các cấp phát
động, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa, cứu trợ đồng bào
bị lũ lụt, đấu tranh ngăn ngừa các tệ nạn xã hội,... góp phần vào thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội của địa phương và góp phần củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ có chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều được sửa chữa, tu bổ

lại. Những cơ sở thờ tự được xếp hạng di tích - lịch sử văn hóa được tôn tạo,
bảo vệ. Các hộ dân lấn chiếm di tích đã được các địa phương và Nhà nước
cấp kinh phí để di dời. Nhờ phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm,
rất nhiều cơ sở tôn giáo được thay đổi, trở thành các điểm sinh hoạt văn hóa
sôi động, hình thành các điểm giao lưu của tín đồ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, tình hình tôn giáo vẫn nổi lên một số vấn đề
đáng quan tâm. Những năm gần đây, được sự dung dưỡng của các thế lực thù
địch nước ngoài, một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo lấy cớ hoạt động
tôn giáo để nhen nhóm các tổ chức phản cách mạng, tập hợp lực lượng phản


động, tổ chức tán phát tài liệu chống Đảng và Nhà nước ta; lôi kéo, kích
động quần chúng tín đồ trong vùng đồng bào theo đạo gây áp lực, đòi yêu
sách, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên diện rộng ở nhiều
tỉnh, thành phố trên cả nước, làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở một số địa phương có lúc rất căng thẳng. Để giải quyết tốt vấn
đề dân tộc, tôn giáo vốn rất nhạy cảm và phức tạp này, đòi hỏi các cấp, các
ngành, các địa phương cần triển khai tốt việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trong đó theo chúng tôi để quán triêt sâu sắc
hơn nữa việc thực hiện các mục tiêu quan điểm của Đảng về chính sách tôn
giáo trong tình hình mới cần tiến hành một số giải pháp sau:
Một là, nắm vững và thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo theo
đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta; tích cực nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
đối với công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Chính sách tôn giáo là vấn đề lớn và hệ trọng, tác động sâu sắc đến đời
sống tâm linh, sinh hoạt văn hoá, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội của từng địa phương và của cả nước. Giải quyết đúng hay sai, phù hợp hay
không phù hợp những vấn đề có liên quan đến tôn giáo đều ảnh hưởng trực tiếp
đến tình hình ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của quốc gia và từng địa

phương. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, quyết
định, chỉ thị về tôn giáo. Đó là những định hướng và cơ sở pháp lý cơ bản,
quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương nghiên cứu, quán triệt và tổ
chức thực hiện tốt nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược này. Qua khảo sát
thực tiễn ở một số địa phương cơ sở, chúng tôi thấy vấn đề quan trọng đặt ra
hiện nay đối với cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp ở từng địa
phương cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, các lực lượng
vũ trang đứng chân trên địa bàn phối hợp cùng với đồng bào tổ chức học tập,


quán triệt sâu rộng và triển khai thực hiện đầy đủ các Nghị quyết của Đảng,
chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng, tôn
giáo đối với đồng bào theo đạo. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên,
là nhân tố quan trọng hàng đầu để giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội trên từng địa bàn, địa phương. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng,
nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và toàn thể
nhân dân trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Thông qua
nhiều hình thức giáo dục như: học tập chính trị; tổ chức các lễ hội truyền thống
theo phong tục, tập quán tốt đẹp của từng dân tộc...qua đó khơi dậy truyền
thống yêu nước, phát huy tinh thần đoàn kết gắn bó giữa đồng bào theo đạo và
đồng bào không theo đạo. Coi trọng công tác tuyên truyền, vận động và tạo
điều kiện thuận lợi để đồng bào theo đạo thực hiện tốt bổn phận công dân sống
tốt đời, đẹp đạo và hoạt động đúng pháp luật. Qua đó, tăng cường, phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc, kiên quyết đấu tranh, đập tan những âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống
phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn trong mọi tình huống.
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hiện chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, tự do không tín ngưỡng, tôn giáo với chính sách đại đoàn
kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Vấn đề tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại ở nhiều cấp độ
(quốc tế, quốc gia, nội bộ từng dân tộc), xuất phát từ bản chất xã hội của tôn
giáo, nên khi giải quyết cần đảm bảo mối quan hệ đồng bộ trong thực hiện chính
sách dân tộc và chính sách tôn giáo. Quan tâm giải quyết nhu cầu tín ngưỡng,
tôn giáo của quần chúng, đồng thời phải làm cho quần chúng nhận rõ âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo phục vụ mưu đồ phá hoại sự


nghiệp cách mạng Việt Nam. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng, tự do theo đạo và không theo đạo của mọi công dân; nghiêm
cấm việc ép buộc đồng bào theo đạo hoặc bỏ đạo. Hướng dẫn các chức sắc tôn
giáo hoạt động đúng theo hiến chương, điều lệ của giáo hội và tuân thủ các quy
định của pháp luật. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quan hệ với vấn đề dân tộc
cần có giải pháp chiến lược lâu dài và cả giải pháp cấp thiết trước mắt. Cần tập
trung giải quyết tốt đời sống kinh tế, văn hoá- xã hội ở vùng đồng bào có đạo
bằng thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng và các chương trình phát triển
kinh tế-xã hội; Chương trình 135, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương
trình quân dân y kết hợp,... Tập trung huy động nguồn nhân lực, vật lực cho đầu
tư phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào; ưu
tiên đầu tư cho xoá đói, giảm nghèo và giải quyết những khó khăn, bức xúc của
đồng bào. Tập trung giải quyết đất sản xuất cho đồng bào, giúp họ thực hiện
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao
thu nhập; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ nhà
ở, phát triển y tế, giáo dục trên địa bàn.
Ba là, tích cực chăm lo xây dựng củng cố hệ thống chính trị các cấp,
nhất là ở cơ sở vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới.
Đây vừa là giải pháp vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài và cấp bách hiện
nay của mỗi địa phương, bởi vì hệ thống chính trị các cấp có vững mạnh mới
đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành, thực hiện tốt các nhiệm vụ

được giao, trong đó có công tác tôn giáo. Để thực hiện tốt yêu cầu quan trọng
này, đòi hỏi các địa phương phải đặc biệt coi trọng xây dựng tổ chức Đảng,
chính quyền các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các phong trào cách mạng ở địa


phương, cơ sở. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ
cán bộ các cấp, các ban ngành, đoàn thể. Coi trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ làm công tác tuyên truyền
vận động quần chúng trong vùng đồng bào tôn giáo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, coi đây là nhân tố quyết định thắng lợi trong giải quyết vấn đề dân
tộc, tôn giáo ở địa phương. thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt phương châm: dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra; tập trung giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của
công dân, phát động quần chúng tích cực tham gia phong trào bảo vệ an ninh
Tổ quốc; phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quân đội đứng trên địa bàn cùng
chăm lo xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh. Chăm lo xây dựng lực lượng
dân quân, tự vệ và công an thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức hoàn thành
tốt các nhiệm vụ được giao, nhất là khi có tình huống xấu xảy ra. Mặt khác,
phải kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, khắc phục bệnh quan
liêu xa rời quần chúng của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tăng cường đưa
cán bộ, bộ đội xuống những nơi khó khăn, phức tạp để vận động nhân dân
xây dựng các phong trào hành động cách mạng, góp phần làm cho tình đoàn
kết gắn bó giữa quân với dân, giữa cán bộ với nhân dân như cá với nước./
[1] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tr. 61.
[2] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tr. 65.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb ST, H., 1991, tr.78.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006.


×