Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học TRƯỚC tác ĐỘNG của NHỮNG NHÂN tố THỜI đại HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.27 KB, 19 trang )

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TRƯỚC SỰ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC NHÂN TỐ THỜI ĐẠI

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã làm cho chủ nghĩa tư
bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tạo ra điều
kiện khách quan để cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công mở ra một thời đại mới trong lịch sử
nhân loại – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Đó là thời đại với những đặc trưng và xu thế cơ bản là: Cuộc đấu tranh giai
cấp, dân tộc đang diễn ra gay go, phức tạp với những điều kiện và hình thức
mới; Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ hiện đại diễn ra mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; Sự khủng khoảng, sụp đổ
của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu làm cho CNXH thoái trào, cục diện thế
giới thay đổi bất lợi cho LLCM. Song không làm thay đổi nội dung, tính chất
của thời đại, CNXH vẫn là xu hướng tất yếu của xã hội loài người; Do nắm
bắt được ưu thế về KHCN hiện đại, CNTB có sự điều chỉnh thích nghi tạm
thời tạo được thế ổn định và phát triển nhất định. Tuy nhiên, CNTB hiện đại
không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể tránh khỏi
sự diệt vong; Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến
hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu,
chống chủ nghĩa thực dân mới và sự xâm lược của CNĐQ bảo vệ độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia vì sự phát triển; Tính chỉnh thể của thế giới tăng lên
song song với sự tăng lên của tính phân cực không đều vừa tạo ra thời cơ vừa
tạo ra thách thức mới cho các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.
Trong đó toàn cầu hoá đang là xu thế khách quan của thời đại, đã và đang tác
động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là lí luận chủ
nghĩa xã hội khoa học. Trong hơn một thập kỷ qua, xu thế toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ. Gắn liền với sự phát triển của khoa

1



học công nghệ và nhu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện hoà bình của mỗi
quốc gia; sự gia tăng của hàng loạt các vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số,
bệnh tật...thì nhu cầu liên kết, hợp tác giữa các quốc gia để giải quyết những vấn đề
trên đang trở thành một vấn đề cấp thiết.
Toàn cầu hoá là quá trình tự do hoá những luồng vật chất và tinh thần
dưới sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng thông tin và
thị trường tự do. Toàn cầu hoá làm gia tăng tốc độ giao tiếp, rút ngắn khoảng cách
không gian, thời gian và làm lu mờ đi đường biên giới giữa các quốc gia, dân tộc;
kéo các quốc gia dân tộc xích lại gần nhau hơn. Có thể khẳng định: toàn cầu hoá
là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau, là
quá trình mở rộng quy mô và cường độ các hoạt động giữa các khu vực, các quốc
gia, dân tộc trên phạm vi toàn cầu trong sự vận động phát triển của xã hội.
Toàn cầu hoá là một xu thế bao gồm nhiều phương diện, nhiều lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, xã hội...trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế là nổi
bật nhất, nó vừa là trung tâm, vừa là cơ sở, động lực thúc đẩy các quá trình
khác của toàn cầu hoá. Tuy vậy, cũng không nên xem xét toàn cầu hoá thuần
tuý là quá trình kinh tế – kỹ thuật, mà còn là quá trình đấu tranh kinh tế- xã
hội, kinh tế- chính trị, và văn hoá- tư tưởng.
Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế
vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra các mối liên hệ và phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một
nền kinh tế thế giới thống nhất.
Sự ra đời và phát triển của toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình lâu dài,
gắn liền với lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa
học- công nghệ và sự nảy sinh những vấn đề, mang tính toàn cầu.
Toàn cầu hoá kinh tế trước tiên là hệ quả của sự phát triển lực lượng
sản xuất xã hội. Trong xã hội phong kiến, do lực lượng sản xuất và giao thông
kém phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ thực hiện trong một phạm vi,


2


quy mô nhỏ. Tính tự cung tự cấp của sản xuất là đặc trưng chủ yếu của
phương thức sản xuất phong kiến. Tuy vậy, thời kỳ này cũng đã có mối quan
hệ thông thương vượt biên giới các quốc gia nhưng chưa tạo được sự ràng
buộc chặt chẽ, chưa có một thị trường rộng rãi cũng chưa tạo được sự ràng
buộc lẫn nhau trong sự phát triển kinh tế giữa các cát cứ dân tộc.
Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, do có sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc. Cùng
với nó là sự phát hiện ra các lục địa, các miền đất mới; các cuộc đấu tranh mở
mang thị trường và khai thác thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã làm nảy sinh
nhu cầu mới, nhu cầu sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá ở những quốc gia
khác nhau. Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh mẽ của đường sắt, đường thuỷ
và ngành thương nghiệp đã đưa các quốc gia dân tộc vào các mối quan hệ
giao lưu trên tất cả các lĩnh vực. Khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản trong tác
phẩm “ tuyên ngôn của đảng cộng sản” viết năm 1848 C. Mác, Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ: “ Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm,
giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu. Nó xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở
khắp nơi và thiết lập mối quan hệ ở khắp nơi” 1. C. Mác, Ph.Ăngghen cũng
khẳng định “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới...thay cho tình
trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp ta
thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân
tộc”2. Như vậy, quốc tế hoá có cơ sở từ chính sự phát triển của sản xuất, nó ra
đời gắn liền với sự hình thành của thị trường thế giới. Nhờ có sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã làm cho thương mại và đầu tư có tính quốc tế, kéo

1
2


C. Mác, Ph.Ăng ghen , toàn tập, Nxb CTQG, h1995, tập 4, tr 601
Sđd, tr 602

3


theo đó là quá trình di dân, chu chuyển lao động và giao dịch tài chính phát
triển mạnh mẽ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia.
Trong thời kỳ đầu của quốc tế hoá, các hoạt động kinh tế giữa các quốc
gia mang nặng tính phụ thuộc một chiều. Các quốc gia kém phát triển cung
cấp vật liệu cho các quốc gia phát triển cao hơn và thường là các nước thuộc
địa, phụ thuộc vào chính quốc. Mỗi quốc gia phát triển thường tìm mọi cách
tạo lập cho mình một khu vực thuộc địa và thực hiện bảo hộ trong khu vực
đó. Do vậy, sản xuất chưa thực sự mang tính toàn cầu, thế giới vẫn còn bị chia
cắt thành các khu vực thuộc địa và phụ thuộc khác nhau, chịu ảnh hưởng chi
phối của các quốc gia phát triển khác nhau như Anh, Pháp, Hà Lan...
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ thứ XX cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đã kích thích việc tích tụ và tập chung tư bản vào sản xuất, tạo ra sự
phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, động thời thúc đẩy sự chuyển biến
từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ở một
số nước tư bản lớn, việc tích luỹ tư bản đạt tới quy mô rất lớn, làm xuất hiện “
tư bản thừa” không tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Trong
khi đó, ở các nước lạc hậu, lợi nhuận thường cao do tư bản ở đây còn ít, giá
ruộng đất thấp, tiền công hạ, nguyên vật liệu giá rẻ...Vì thế, xuất khẩu tư bản
trở thành nét điển hình của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Các tổ chức độc
quyền cạnh tranh với nhau phân chia xong thị trường trong nước lại vươn ra
ngoài biên giới quốc gia để giành giật thị trường thế giới và nơi đầu tư có lợi.
Cuộc cạnh tranh gay gắt dẫn đến hình thành các liên minh độc quyền quốc tế.
Lợi ích của xuất khẩu tư bản đã thúc đẩy các tập đoàn tài chính sử dụng bộ
máy nhà nước đi xâm chiếm thuộc địa để tìm kiếm nguồn nguyên liệu, nơi

tiêu thụ hàng hoá và đầu tư. Kết quả là các cường quốc đế quốc đã phân chia
xong thị trường thế giới; sau đó một số nước tư bản phát triển sau không còn

4


thị trường nữa đấu tranh đòi phân chia lại thị trường thế giới. Đó chính là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc. Như vậy,
toàn cầu hoá kinh tế với ý nghĩa đầy đủ chỉ thực sự hình thành từ khi chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào giải phóng dân tộc là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật. Khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội.
trước sự phát triển của sản xuất, quá trình phân công lao động cũng có những
bước phát triển mới. Theo đó, sự lệ thuộc và phụ thuộc giữa các quốc gia
trong quá trình sản xuất ngày càng sâu sắc hơn , mỗi quốc gia đều có nhu cầu
phát triển và tham gia vào một khâu của quá trình sản xuất và giữ một vị trí
nhất định trong quá trình đó. Khi khoa học công nghệ phát triển đến trình độ
cao thì sự liên hệ ràng buộc hai chiều lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng
sâu sắc hơn.
Có thể nói, chính sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học
công nghệ đã phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới giao dịch của con người
trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Điều này đã đẩy quá trình quốc tế hoá
kinh tế lên một trình độ phát triển mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của toàn cầu hoá và
đương nhiên để tồn tại và phát triển không thể không tham gia các quá trình
của toàn cầu hoá, tức là phải hội nhập kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá còn là hệ quả tất yếu của sự phát triển của kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường không phải là đặc trưng của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa mà là kết quả của sự phát triển của nền sản xuất nhân loại. Kinh tế

thị trường càng phát triển thì càng tạo ra thị trường rộng rãi cho quá trình sản

5


xuất, phân phối và lưu thông; nó cũng tạo ra sự phân công lao động ngày càng
sâu sắc. Kinh tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất, làm cho quy mô sản xuất không còn bó hẹp trong một quốc
gia mà mang tầm quốc tế, và nó cũng tạo ra một cơ chế thống nhất trong việc
xử lý các vấn đề kinh tế cho các quốc gia, buộc các quốc gia phải tuân thủ khi
thực hiện nó, đó chính là cơ chế thị trường.
Sự phát triển của kinh tế thị trường không chỉ tạo điều kiện cho việc
mở rộng phạm vi, quy mô sản xuất; tạo sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thị
trường quốc tế mà còn tạo ra hàng loạt các công cụ cho quá trình giao dịch
kinh tế giữa các quốc gia, như sự bùng nổ thị trường tài chính, sự thống nhất
trong các luật pháp kinh tế và sự mở rộng các hình thức thanh toán giữa các
quốc gia. Có thể thấy, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường chính là
một trong những cơ sở, điều kiện cho quá trình quốc tế hoá.
Sự phát triển của toàn cầu hoá còn là nhu cầu tất yếu của nhân loại
trước yêu cầu giải quyết những vấn đề mang tính chất toàn cầu. Do tác động
của thời kỳ “chiến tranh lạnh” và sự khai thác thiên nhiên một cách vô kế
hoạch của các nước phát triển mà nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề
không thể giải quyết được nếu chỉ dựa vào khả năng của một quốc gia. Những
vấn đề cần được khắc phục như tình trạng bùng nổ dân số, ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên hay hiện tượng hiệu ứng nhà
kính, khắc phục lỗ thủng của tầng ôzôn.v.v sẽ không thể khắc phục được, nếu
không có sự hợp tác cùng giải quyết của mọi quốc gia trên thế giới. Vì lợi ích
của nhân loại cũng như lợi ích của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có sự liên kết
giải quyết của cả cộng đồng. Đây cũng là cơ sở khách quan cho quá trình liên
6



kết tạo sức mạnh quốc tế, là cơ sở tiến tới sự thống nhất những quy trình, quy
phạm chung cho quá trình phát triển kinh tế thế giới.
Tóm lại, toàn cầu hoá nói chung, toàn cầu hoá kinh tế nói riêng là một
xu thế khách quan trong thời đại ngày nay. Toàn cầu hoá tác động đến mọi
quốc gia dân tộc trên thế giới và lôi kéo ngày càng đông đảo các quốc gia
tham gia. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “toàn cầu hoá
về kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa
có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh”.
Đặc điểm cơ bản của toàn cầu hoá trong giai đoạn hiện nay.
Khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, mỗi quốc gia ngoài những
mục tiêu chung của cộng đồng còn có những mục đích riêng của quốc gia dân
tộc mình. Chính vì vậy mà toàn cầu hoá ở mỗi giai đoạn lịch sử mang một sắc
thái, đặc điểm không giống nhau. Trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hoá có
rất nhiều đặc điểm phức tạp, nhưng cơ bản là những đặc điểm sau:
Một là, toàn cầu hoá hiện nay đang trở thành xu thế khách quan của
thời đại, lôi kéo ngày càng đông đảo các quốc gia tham gia, hình thành xu
thế gắn kết giữa hội nhập kinh tế quốc tế với tự do hoá các hoạt động kinh tế
của mỗi quốc gia dân tộc.
Toàn cầu hoá kinh tế- xét về mặt lực lượng sản xuất- là bước tiến vĩ đại
của văn minh nhân loại. Song suốt một thời gian dài với sự thống trị của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, do có ưu thế về kinh tế và khoa học chủ nghĩa
tư bản đã thao túng nó và bóc lột “siêu hạng” dối với các quốc gia dân tộc
chậm phát triển. Chính vì vậy những năm trước đây, vấn đề toàn cầu hoá
thường được coi là một quá trình nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, là một
chủ trương hay một chiến lược toàn cầu của các nước tư bản phát triển. Điều
đó, đã làm cho nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển và chậm
phát triển kịch liệt chống lại hoặc tẩy chay quá trình này.


7


Tuy nhiên khi nghiên cứu bản chất của vấn đề toàn cầu hoá kinh tế cho
thấy đó không phải là một đặc trưng hay chiến lược kinh tế của bất kỳ quốc
gia dân tộc nào. Nó là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất dưới sự tác động của khoa học, công nghệ, là kết quả của sự phát triển
của nền kinh tế thị trường và là kết quả của những nhu cầu khách quan của
nhân loại trước yêu cầu giải quyết những vấn đề mang tính quốc tế. Do vậy,
toàn cấu hoá kinh tế là tất yếu khách quan của lịch sử.
Những năm gần đây, do các quốc gia dân tộc nhận thức ngày càng đầy
đủ về bản chất và tác động của toàn cầu hoá thì vấn đề toàn cầu hoá đã được
chấp nhận như một tất yếu. Hầu hết các quốc gia dân tộc trên thế giới đã và
đang tham gia vào quá trình toàn cầu hoá với những mức độ và lộ trình khác
nhau. Mỗi quốc gia dân tộc không thể phát triển được nếu không tham gia vào
các quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế
quốc tế vẫn đang là một xu thế lớn của thời đại, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia.
Toàn cầu hoá hiện nay đang có sự gắn kết ngày càng sâu rộng quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế với quá trình tự do hoá các hoạt động kinh tế của mỗi
quốc gia. Những năm cuối thế kỷ XX, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
được nhiều quốc gia thực hiện, tuy nhiên vẫn còn hạn chế ở một số lĩnh vực,
mức độ còn hạn chế. Những năm gần đây, do nhu cầu hợp tác cùng phát triển,
quá trình hội nhập kinh tế luôn đòi hỏi các quốc gia mở rộng quy mô tự do
hoá nền kinh tế trong nước để đáp ứng những nhu cầu của cộng đồng quốc
tế. . Lẽ dĩ nhiên là hội nhập nền kinh tế và tự do hoá nền kinh tế ở mức độ nào
còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia. Hội nhập kinh tế
càng sâu thì tự do hoá nền kinh tế càng rộng. Cơ sở của sự gắn kết giữa hội
nhập kinh tế với tự do hoá nền kinh tế chính là sự phân công lao động quốc tế
ngày càng sâu sắc và lợi ích quốc gia khi tham gia vào các tổ chức kinh tế

quốc tế.

8


Hai là, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là một xu thế khách quan nhưng
đang chịu sự tác động, chi phối rất lớn của các nước tư bản phát triển và các
tổ chức kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế là một “sân chơi” chung cho tất cả các quốc gia
trên thế giới. Về nguyên tắc thì bao giờ trong mỗi “cuộc chơi” cũng có những
“ luật chơi chung” bắt buộc mỗi thành viên tham gia phải tuân thủ. Vấn đề đặt
ra ở đây là: cái“luật chơi chung”đó có thực sự bình đẳng cho mọi thành viên
tham gia hay không đang là vấn đề mà chúng ta cần nghiên cứu làm rõ.
Hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu phát triển chung của nhân loại.
Tham gia vào quá trình này, mỗi quốc gia sẽ tìm ra được những nguồn lợi cho
riêng mình. Vì vậy mà quá trình toàn cầu hoá kinh tế là quá trình đấu tranh
gay gắt giữa các quốc gia dân tộc để đi đến một sự thống nhất chung, nên nó
cũng mang tính chính trị sâu sắc. Do có ưu thế về vốn, công nghệ và thị
trường mà hiện nay các nước tư bản phát triển đứng đầu là Mỹ luôn tìm mọi
cách để chiếm “phần hơn” trong quá trình tham gia hội nhập. Lẽ dĩ nhiên là
những luật lệ của “ các cuộc chơi” thường có lợi cho các nước phát triển hơn
là cho các nước chậm phát triển. Mặt khác các tổ chức kinh tế thế giới như tổ
chức thương mại thế giới (WTO), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế
giới (WB) được coi là những trọng tài kinh tế, những nhà tài trợ, những tổ
chức quyền lực kinh tế lại đang bị các nước tư bản phát triển lũng đoạn, chi
phối mạnh mẽ. Khi tham gia vào các tổ chức trên, đòi hỏi tất cả các quốc gia
đều phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của nó. Điều đáng nói ở đây là
những định chế của các tổ chức kinh tế quốc tế thường là phù hợp, hoặc chí ít
cũng dễ chấp nhận đối với các nước tư bản phát triển, thậm chí còn là ý đồ
chính trị của các nước này. Ngược lại, với các nước kém phát triển thì nó

được coi như những “ hàng rào”, “vật cản” khó có thể vượt qua. Vì vậy mà
khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước chậm phát triển luôn bị

9


đặt ở thế bị động, bị đặt điều kiện và nếu có thể vượt qua được thì họ cũng
phải chịu sự nép vế trước các nước phát triển.
Những năm gần đây, do có sự vượt trội trên nhiều lĩnh vực mà Mỹ
đang can thiệp sâu vào hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế, khiến người
ta có cảm nhận rằng quá trình toàn cầu hoá hiện nay là quá trình phổ biến luật
chơi tư bản, là tư bản hoá, là Mỹ hoá. Không phủ nhận vai trò và sự chi phối
của Mỹ đối quá trình toàn cầu hoá kinh tế, song chúng ta cũng thấy rằng:
Tham gia vào quá trình toàn cầu cầu hoá không chỉ có Mỹ và các nước tư bản
phát triển mà còn có hàng loạt các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả các
quốc gia đang trên đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, quá trình toàn cầu
hoá không đơn giản là sự phổ biến các giá trị, luật chơi tư bản, mà là quá trình
đấu tranh, thoả thuận, sàng lọc, trong đó các giá trị văn minh- nhân đạo của
loài người nhất định sẽ được chấp nhận. Đó chính là quá trình giao thoa giữa
các nền kinh tế, văn hoá, chính trị trên thế giới và trong quá trình ấy, cái gì là
tiến bộ nhất định sẽ được phát triển.
Thừa nhận sự chi phối của các nước tư bản phát triển đối với quá trình
toàn cầu hoá kinh tế, thừa nhận tính chính trị của quá trình này không có
nghĩa là chúng ta từ chối, tẩy chay nó mà ngược lại là phải tham gia vào nó,
đấu tranh với những mặt trái của nó vì một toàn cầu hoá kinh tế tiến bộ, vì sự
phát triển của đất nước cũng như sự phát triển của tiến bộ nhân loại.
Ba là, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay mang tính hai mặt, vừa đưa lại
thời cơ cho sự phát triển, vừa đặt ra những thách thức với mọi quốc gia tham
gia nhất là với các nước chậm phát triển.
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình tất yếu. Việc tham gia vào toàn cầu

hoá kinh tế sẽ tạo cho các bên tham gia những thời cơ, đồng thời cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ. Toàn cầu hoá như “ con dao hai lưỡi”, một mặt
nó có thể tạo ra những xung lực mạnh mẽ làm tăng tốc độ phát triển kinh tế,
nâng cao mức sống của người dân ở các nước, đồng thời nó cũng có thể làm

10


sói mòn nền văn hoá, đe doạ đến chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị và sự
ổn định kinh tế- xã hội...
Toàn cầu hoá kinh tế thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của các
quốc gia. Trong quá trình hội nhập, các quốc gia đều nhanh chóng được tiếp
cận với những thông tin tri thức mới; quá trình này góp phần nâng cao dân trí
tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung.
Toàn cầu hoá kinh tế phát triển sẽ phá bỏ những cản trở, những hàng rào
ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó các quốc gia tham gia có thể tận dụng cơ
hội phát triển từ thị trường bên ngoài. Khi hội nhập vào các tổ chức kinh tế
toàn cầu và khu vực cho phép các quốc gia thành viên được hưởng những ưu
đãi về thuế quan, hàng hoá có thể nhanh chóng tiếp cận với thị trường quốc tế.
Đối với các nước đang phát triển thì toàn cầu hoá cũng mở ra cho những nước
này nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, từ đó
hình thành một cơ cấu kinh tế- xã hội hiệu quả; đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tạo cơ hội cho các quốc gia này có điều
kiện tiếp cận với các nguồn vốn, khoa học- kỹ thuật hiện đại cũng như trình
độ quản lý, sản xuất kinh doanh từ các nước trên thế giới. Ngoài ra toàn cầu
hoá còn mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân tộc để giải
quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như vấn đề môi trường, dân số, việc
làm, chiến tranh và hoà bình...
Tuy nhiên, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng đặt ra cho các

quốc gia trước những thách thức không nhỏ. Trên thực tế, toàn cầu hoá không
phân chia công bằng cơ hội và quyền lợi ngang nhau giữa các quốc gia và khu
vực. Những nước có tiềm lực kinh tế và khoa học công nghề thường chiếm
được lợi thế, do đó thu được nhiều nguồn lợi hơn. Với các nước chậm phát
triển, khi hội nhập kinh tế quốc tế, sản phẩm hàng hoá dịch vụ của các nước
phát triển tràn vào lấn át hàng hoá nội địa. Điều này đã dẫn đến sự cạnh tranh

11


kinh tế gay gắt và nảy sinh những vấn đề phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng
thêm các vấn đề xã hội vốn đã lan giải ở các nước này. Toàn cầu hoá mở ra cơ
hội tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, song chính điều đó lại bao hàm khả
năng tạo ra sự phụ thuộc vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nếu như
không xác định được một chiến lược phát triển kinh tế phù hợp thì nền kinh tế
rất dễ rơi vào tình thế phụ thuộc vào sự thăng trầm của thị trường quốc tế
hoặc phụ thuộc vào các nước phát triển. Toàn cầu hoá kinh tế cho phép tận
dụng các nguồn lực bên ngoài để rút ngắn quá trình phát triển, song nó cũng
kèm theo sự bất ổn định xã hội, sự phát triển không bền vững và những hậu
quả phi kinh tế như những vấn đề phổ biến lây lan các dịch bệnh, các tệ nạn
xã hội, tiếp thu những văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần phong mỹ
tục của các dân tộc. Đó còn chưa nói đến những âm mưu của các nước tư bản
phát triển lợi dụng chiêu bài kinh tế để đặt điều kiện, ép buộc các nước chậm
phát triển về chính trị, buộc các nước này phải theo quỹ đạo của chúng. Phó
giáo sư, Tiến sỹ Đặng Cảnh Khanh- Viện trưởng Viện thanh niên Việt Nam
đã viết: “Quá trình toàn cầu hoá, nếu ở lĩnh vực này có thể là sự mở rộng
những tiến bộ và văn minh thì ở lĩnh vực khác lại chỉ là thoái bộ, là sự thâm
nhập của những điều kỳ quái, thậm trí lạc hậu và phi nhân đạo; ở nơi này có
thể gắn liền với sự tăng trưởng và phát triển nhưng ở nơi khác lại có thể là
thảm hoạ, thậm trí huỷ diệt”.3

Những thuận lợi, thời cơ cũng như những khó khăn thách thức kể trên
cũng chỉ là những khả năng có thể xảy ra. Việc tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức đạt được hiệu quả đến đâu còn phụ thuộc vào bản lĩnh, khả năng
và điều kiện của mỗi quốc gia dân tộc. Nếu run sợ trước thách thức mà không
giám hội nhập thì sẽ bỏ lỡ mất cơ hội để phát triển; ngược lại, nếu quá tuyệt
đối hoá thời cơ, hội nhập một cách ồ ạt, thiếu tính toán cụ thể thì rất dễ rơi
vào sai lầm, vấp váp, thua thiệt thậm trí khủng hoảng xụp đổ về mặt chính trị.
Đặng Cảnh Khanh, vấn đề toàn cầu hóa và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Tạp chí cộng sản số 14, tháng
07/2000, tr 33
3

12


Chủ nghĩa xã hội trước trước các nhân tố thời đại đặc biệt là vấn đề
toàn cầu hoá kinh tế
Trước hết chủ nghĩa xã hội khoa học cần đi sâu nghiên cứu sự vận động
biến đổi của CNTB hiện đại, trong đó những biến đổi về cơ cấu kinh tế – xã hội,
tiếp tục vạch trần bản chất bóc lột, những thủ đoạn xảo quyệt, điều chỉnh thích
nghi của CNTB, vạch trần sự lũng đoạn của các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia
đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước đang phát triển; chỉ rõ những luận điệu mị dân, bào chữa, che đậy cho sự
bóc lột tinh vi của giai cấp tư sản và nhà nước tư sản hiện đại; khẳng định địa vị
kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân dưới xã hội tư sản là không hề thay đổi.
Đặc biệt, cần làm rõ sự biến đổi mới về cơ cấu xã hội – giai cấp, mâu thuẫn giai
cấp và mâu thuẫn xã hội trong lòng nhà nước tư bản hiện đại, từ đó khẳng định
tính tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, dự báo những con đường, hình
thức, phương pháp cách mạng đa dạng phong phú, phù hợp với đặc điểm lịch sử
cụ thể ở mỗi loại hình các nước TBCN. Cần hết sức chú ý tới những mâu thuẫn
mới nảy sinh, cũng như những thời cơ thách thức do quá trình toàn cầu hoá tạo ra.

Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế tất yếu đòi hỏi các quốc gia dân tộc
muốn phát triển được thì phải tham gia vào quá trình đó. Hiện nay toà cầu hoá
đang lôi cuốn tất cả các quốc gia dân tộc có chế độ chính trị khác nhau tham
gia.Trên thực tế toàn cầu hoá kinh tế có ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào
xã hội chủ nghĩa hiện thực, đặt ra không ít những cơ hội cũng như những
thách thức đối với các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế cũng như nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu xã hội chủ
nghĩa.
Toàn cầu hoá tạo ra những động lực cơ bản cho các nước xã hội chủ
nghĩa nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh
nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi để các nước này tranh thủ được những nguồn
vốn, tiếp cận được những công nghệ mới, chất sám... từ bên ngoài; mở rộng,

13


đa dạng hoá thị trường quốc tế và đối tác quốc tế tạo cơ hội để tăng cường
xuất khẩu và tích luỹ nâng nguồn dữ trữ quốc gia; nó cũng là cơ hội để các
nước xã hội chủ nghĩa nắm bắt được thông tin, tri thức mới một cách nhanh
chóng, kịp thời, tối đa giúp cho việc phân tích, đánh giá tình hình và hoạch
định chính sách kinh tế một cách phù hợp, nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước; bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá kinh
tế còn tạo điều kiện để các nước xã hội chủ nghĩa nâng cao trình độ của đội
ngũ các nhà khoa khoa học, các nhà quản lý doanh nghiệp và tay nghề chuyên
môn của đội ngũ lao động, dần theo kịp với trình độ chung của thế giới.
Tuy nhiên, khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt cho
các nước xã hội chủ nghĩa những thách thức không nhỏ. Khi tham gia vào các
thể chế liên kết khu vực và thế giới, các nước xã hội chủ nghĩa phải tuân thủ
và thực hiện các quy định chung trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu
tư, sở hữu trí tuệ và rất nhiều lĩnh vực khác. Do vậy, trong những lĩnh vực đó,

các nước xã hội chủ nghĩa khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế
không thể đặt ra luật lệ và quy định riêng trái với luật lệ và quy định chung
của các thể chế liên kết kinh tế mà các nước này tham gia hoặc ký kết. Tình
thế đó đã làm hạn chế “ chủ quyền” của các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong
việc đề ra các chính sách kinh tế- xã hội theo những mục tiêu và tiêu trí của
chủ nghĩa xã hội.
Toàn cầu hoá kinh tế còn thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc
tế theo hướng mỗi nước tập chung vào các ngành, các lĩnh vực họ có ưu thế,
do vậy ít chú ý hoặc bỏ rơi hẳn những ngành, những lĩnh vực có hiệu quả kinh
tế thấp. Nếu những nước tham gia toàn cầu hoá kinh tế không có những định
hướng chính sách tốt về cơ cấu kinh tế thì có thể phải đối mặt với nguy cơ
mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu của nền kinh tế...muốn hạn chế tác động
ở khía cạnh này của quá trình toàn cầu hoá kinh tế và để duy trì độc lập tự chủ
14


ở mức cần thiết của nền kinh tế, mỗi nước xã hội chủ nghĩa cần khắc phục
khuynh hướng phân công lao động quốc tế tự nhiên đó băng cách đề ra những
chính sách, biện pháp thích hợp nhằm định hướng cơ cấu kinh tế.
Quá trình toàn cầu hoá kinh tế còn làm tăng sự lưu chuyển các nguồn
vốn mà chính phủ không dễ gì có thể kiểm soát được. Các nhà đầu cơ có thể
sử dụng sự lưu chuyển tự do của các nguồn vốn nhất là các nguồn vốn ngắn
hạn để trục lợi hoặc nhằm phá hoại nền kinh tế của mỗi nước. Đây là nguy cơ
nguy hiểm mà mỗi nước xã hội chủ nghĩa cần phải hết sức cảnh giác và có
những đối sách thích hợp. Nếu không hội nhập thì các nước xã hội chủ nghĩa
không tận dụng được các nguồn vốn từ bên ngoài để đầu tư phát triển kinh tế.
Ngược lại, nếu mở rộng quá trong hội nhập thì dễ bị hỗn loạn, thậm trí mắc vào tình
trạng khủng hoảng tài chính như một số nước Đông Nam Á năm 1997. Điều đó
chứng tỏ cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với
sự lưu chuyển các nguồn vốn để tránh rủi ro và an toàn cho nền kinh tế.

Trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, ở các nước xã hội chủ
nghĩa vấn đề chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc là cực kỳ nhạy cảm và
nổi lên hàng đầu. Trong điều kiện hiện nay khi mà chủ nghĩa tư bản độc
quyền tài chính nắm quyền thao túng nền kinh tế thật và nền kinh tế ảo, nên
không tránh khỏi dẫn đến gia tăng những nguy cơ và mối đe doạ đối với sự
phát triển độc lập và chủ quyền các nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề chủ quyền
quốc gia vì vậy là tiêu điểm số một trong đấu tranh chính trị quốc tế ngày nay.
Ngoài những nguy cơ trên, trong giai đoạn hiện nay khi tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa còn phải chịu sự tác
động mạnh mẽ của nền văn hoá ngoại lai, văn hoá độc hại, những tác động
tiêu cực của lối sống thực dụng, lối sống gấp; sự suy thoái về đạo đức lối sống
của cán bộ đảng viên và của thế hệ trẻ. Những điều đó làm cho quá trình giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc ngày càng khó khăn hơn, khi các nước này tham
gia sâu hơn vào quá trình toàn cầu hoá.
15


Cùng với đó, khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá hiện nay, các
nước xã hội chủ nghĩa còn phải chịu sự chống phá mạnh mẽ, với những thủ
đoạn tinh vi hơn của các thế lực thù địch. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch đang tìm mọi cách để chống phá hòng xoá bỏ các nước xã hội
chủ nghĩa; nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì
sự chống phá đó ngày càng quyết liệt hơn bao giờ hết, chúng chống phá trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều những thủ đoạn tinh vi và
xảo quyệt hơn; một trong những thủ đoạn đó là chúng sử dụng toàn cầu hoá
kinh tế như là một đòn bẩy để đưa các nước xã hội chủ nghĩa vào quỹ đạo của
chủ nghĩa tư bản. Trên lĩnh vực kinh tế, chúng lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế
để thúc đẩy tư nhân hoá nền kinh tế dần dần lái nền kinh tế của các nước xã
hội chủ nghĩa theo hướng tư bản chủ nghĩa; trên lĩnh vực chính trị tư tưởng,
chúng lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế để can thiệp vào nội bộ của các nước xã

hội chủ nghĩa, rêu rao những giá trị của chủ nghĩa tư bản, thúc đẩy sự chống phá từ
bên trong, đưa ra những học thuyết không có luận cứ khoa học nhằm phủ nhận tính
cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin- hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế tất yếu của thời đại. Toàn
cầu hoá kinh tế một mặt nó ẩn chứa những sức mạnh ghê gớm, mặt khác nó
nó cũng tạo ra những thách thức, nguy cơ rất lớn đối với mỗi quốc gia dân tộc
khi tham gia vào quá trình đó. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa muốn phát
triển được cũng không thể không tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa có rất
nhiều những cơ hội thuận lợi để phát triển đất nước, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế có điều kiện để tập hợp lực lượng; các đảng cộng sản có
điều kiện để liên lạc, trao đổi, hợp tác với nhau trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản. Song khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, các
nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản công nhân quốc tế cũng gặp
không ít những thách thức nguy cơ. Do vậy, yêu cầu và mục tiêu đặt ra đối

16


với các nước xã hội chủ nghĩa là phải đấu tranh hạn chế những tác động tiêu
cực, tranh thủ những tác động tích cực do toàn cầu hoá kinh tế tạo ra; đấu
tranh thực hiện từng bước một toàn cầu hoá chân chính, tiến tới một toà cầu
hoá kinh tế thực sự công bằng, nhân đạo văn minh trên nền tảng giá trị của
chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam, trước những sự tác động của các nhân tố thời đại đặc
biệt là xu thế của toàn cầu hoá kinh tế chúng ta đã kịp thời nghiên cứu lí luận,
tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển CNXHKH cụ thể: bài học kinh nghiệm
của 20 năm đổi mới
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh.
Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ
nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả
hơn; Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng
tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng hộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp.
Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế,
chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ
phận của hệ thống chính trị; Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng
phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với

17


cái mới.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng
trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng; Dựa vào nhân dân, xuất
phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới,
từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với mọi sự phát triển;

Coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc
tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo
ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở
giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết
định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức
thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả
quyền công dân, quyền con người; Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới.
Những nội dung cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là; Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

18


lượng sản xuất; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải:

Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; Xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh
quốc gia; Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên đây, là sự thể hiện sinh động, sáng tạo của các đảng cộng và công
nhân quốc tế, đặc biệt là Đảng ta đối với việc bổ sung phát triển lý luận
CNXHKH trước những biến động to lớn của lịch sử. Chính nhờ đó mà
CNXHKH sẽ mãi trường tồn và phát triển.
Đối với mỗi chúng ta, những cán bộ chính trị trong quân đội phải không
ngừng tu dưỡng rèn luyện bản chất giai cấp công nhân, theo tấm gương tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, có ý chí, nhiệt tình và trách nhiệm chính trị cao,
đồng thời phải có phương pháp nghiên cứu đúng đắn, phân tích thấu đáo
những kinh nghiệm thực tiễn, chủ động khái quát thành lý luận hướng dẫn
cho đơn vị hoạt động một cách hiệu quả. Đó không chỉ là biểu hiện trực tiếp
của việc hiện thực hoá CNXHKH, mà còn góp phần phát triển nó lên một tầm
cao mới.\.

19



×