Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN lý LUẬN CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học gắn LIỀN với PHONG TRÀO CỘNG sản và CÔNG NHÂN QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.8 KB, 41 trang )

1
SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
GẮN LIỀN VỚI PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
MỞ ĐẦU
Trước khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời đã có những trào lưu,
những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng. Vào giữa thế kỷ XIX, chủ
nghĩa tư bản có những bước phát triển đồng thời bộc lộ những mâu thuẫn
ngày càng rõ rệt và cũng xuất hiện những tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở hiện thực ấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã có đủ
những căn cứ khoa học và căn cứ thực tiễn để sáng lập ra chủ nghĩa xã hội
khoa học. Từ đó chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn sản xuất và phong trào công nhân, vừa phản ánh, vừa soi sáng con
đường giai cấp công nhân tiến lên hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học một nấc thang cao hơn
trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa nhân loại qua các giai đoạn của nó
gắn liền với sự phát triển của hiện thực xã hội và thực tiễn cuộc đấu tranh
giai cấp của giai cấp cơng nhân quốc tế. Tồn bộ lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học cũng như mỗi nguyên lý của nó, trải qua chiều dài lịch sử, ngày
càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn. bằng tư duy khoa học
sáng tạo trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện
chứng; qua thực tiễn đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế; trước những đổi mới của cuộc sống và thời đại, lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sức sống của mình, thực
sự trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của giai
cấp công nhân quốc tế, các Đảng công sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa và


2
cộng sản chủ nghĩa, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội và giải phóng lồi người.
Trong mỗi nước khác nhau và mỗi giai đoạn khác nhau của thời kỳ quá


độ từ chế độ tư bản chủ nghĩa (hoặc trước tư bản chủ nghĩa) lên chế độ xã hội
chủ nghĩa đích thực và hồn chỉnh, nói chung, nội dung các phạm trù và
nguyên lý về cơ bản là không thay đổi, nhưng do điều kiện lịch sử có những
thay đổi, nên thường có những vấn đề cụ thể, những mối liên hệ mới nảy sinh
thêm cần được khảo sát, nghiên cứu, tổng kết và phát triển về lý luận. Do vậy,
việc thường xuyên quan tâm xuất phát từ thực tế khách quan để vận dụng lý
luận của khao học cách mạng là một yêu cầu quan trọng nhằm giữ gìn và phát
huy sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin, cũng là sự thể hiện sự sinh động của
quy luật phát triển khoa học, phát triển xã hội theo hướng tiến bộ, văn minh.
Là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội; sự ra đời, phát triển của lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học chịu sự quy định của quy luật mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, trong đó thể hiện sâu sắc tính quy luật sự phát triển lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học gắn liền với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.


3
NỘI DUNG
1. Cơ sở khách quan của tính quy luật sự phát triển của lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học gắn liền với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Cơ sở của tính quy luật xuất phát từ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin khẳng định: lý luận và thực tiễn trên thực tế là một
thể thống nhất giữa hai mặt cơ bản trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Lý luận và thực tiễn trong một quá trình vừa tác động, ràng buộc, ảnh
hưởng lẫn nhau, vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự vận động, biến đổi và chuyển
hố. Trong mối quan hệ đó , thực tiễn ln ln là tính thứ nhất, giữ vai trị quyết
định lý luận, cịn lý luận là tính thứ hai, tác động tích cực trở lại thực tiễn.
- Lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, được thực tiễn
kiểm nghiệm. Điều này được V. I. Lênin khẳng định: "Thực tiễn cao hơn nhận
thức (lý luận), không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực

tiếp"1. Vai trò thực tiễn với nhận thức, đối với lý luận trước hết được thể hiện:
thực tiễn là cơ sở, mục đích là động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức, trong đó
có lý luận và thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chan lý..
Để đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt
động thực tiễn, trong q trình đó, con người cũng biến đổi ln cả bản thân
mình, phát triển năng lực, trí tuệ. Con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế
giới, khám phá những bí mật của thế giới, càng làm phong phú và sâu sắc hơn tri
thức của mình. Theo đó, thơng qua thực tiễn đã xuất hiện nhu cầu, nhiệm vụ,
phương hướng của nhận thức; xuất hiện nhu cầu tổng kết kinh nghiệm, khái quát
lý luận của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các ngành khoa học.
Thực tiễn có khả năng tạo ra công cụ, phương tiện phục vụ cho q
trình nhận thức mà hoạt động tinh thần khơng thể có khả năng trực tiếp
về vấn đề đó. Những cơng cụ, phương tiện hiện đại giúp con người nhận


4
thức ngày càng nhanh, xa và hiệu quả, dù trong những điều kiện khó
khăn phức tạp hơn.
Thơng qua động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới
phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện, khả
năng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn. V. I. Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí
ẩn sẽ hồn tồn bí ẩn với con người nếu khơng có sự tác động của con người
vào đó. Sự tác động của con người vào thế giới khách quan diễn ra một quá
trình từ việc thu thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến
hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hố, trừu tượng hoá… để phát
triển thành lý luận và từ lý luận lại trở về chỉ đạo thực tiễn. Không có thực
tiễn thì khơng có nhận thức, khơng có lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay
gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở
giai đoạn cảm tính hay lý tính, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Lý luận trở thành khoa học, trở thành chân lý không những nó phải xuất

phát từ thực tiễn mà cịn phải được thực tiễn kiểm nghiệm đúng. C. Mác viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đi tới chân lý khách quan
hay khơng, hồn tồn khơng phải là vấn đề nhận thức mà là vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”2.
Từ vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận, đòi hỏi chủ thể
hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn. Trong nhận thức,
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi
trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới
các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, quan liêu và chủ nghĩa xét lại.
- Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi được lý luận soi đường.
Cùng với việc coi trọng vai trò của thực tiễn đối với lý luận thì vai trị của lý
luận đối với thực tiễn khơng hề bị hạ thấp mà cịn thể hiện rõ hơn tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nó. Hay nói cách khác, bản thân lý luận, khoa học
khơng có mục đích tự thân. Lý luận, khoa học ra đời chính vì và chủ yếu vì
chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là mục đích
của nhận thức, lý luận. Nhận thức lý luận sau khi ra đời quay về phục vụ thực


5
tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự
khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ cho mục
tiêu phát triển. Lý luận tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực
tiễn thơng qua hoạt động của con người.
Lý luận giúp cho chủ thể hoạt động thực tiễn có những quan niệm khoa học
về thế giới. Lý luận có thể dự kiến được sự vận động, phát triển của sự vật, chỉ ra
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn, là “kim chỉ nam” soi
đường, dẫn dắt, chỉ đạo cho hành động. V. I. Lênin viết: Khơng có lý luận cách
mạng thì cũng khơng có phong trào cách mạng, chỉ có đảng nào có lý luận tiên
phong hướng dẫn thì đảng đó mới làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong. Nhờ có lý
luận khoa học mà hoạt động của con người trở lên chủ động, tự giác, hạn chế tình

trạng mò mẫm, tự phát. Như vậy, lý luận một khi đã thâm nhập vào quần chúng
thì biến thành sức mạnh vật chất to lớn.
Lý luận giúp cho chủ thể nhận thức hệ thống nguyên tắc, phương pháp
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn; giúp chủ thể hoạt động thực tiễn
những mục tiêu cần đạt được trong tình hình cụ thể. Nhờ có lý luận cách
mạng mà chủ thể hoạt động thực tiễn có cơ sở hình thành, phát triển nhân
cách và nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn.
Như vậy, lý luận có vai trị hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn. Tuy
nhiên, cùng với nhận thức được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của lý luận thì
chủ thể hoạt động khơng nên cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực
tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
Theo đó, ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác đã mang trong mình bản
chất cách mạng, khoa học gắn bó chặt chẽ với phong trào công nhân, là hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác ra đời đã được giai cấp vô sản
tiếp nhận như một công cụ định hướng cho hành động, như vũ khí lý luận
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng tồn thể nhân loại.
Cơng cụ định hướng này, vũ khí lý luận này đã tạo nên bước chuyển biến về
chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. C.Mác
và Ph.Ănghen nhận định: giống như chủ nghĩa duy vật biện chứng thấy giai


6
cấp vơ sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa
duy vật biện chứng là vũ khí tinh thần của mình nên ngay từ đầu, cái khuynh
hướng mới, coi lịch sử phát triển của lao động là chìa khóa để hiểu tồn bộ
lịch sử của xã hội, đã chủ yếu hướng về giai cấp vô sản và đã được giai cấp
vô sản giành cho một sự hưởng ứng mà nó khơng tìm thấy và khơng mong
chờ có được ở một nơi nào khác.
Lý luận Mác là hệ thống nguyên lý cơ bản về sự chuyển biến tất yếu của
xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng

sản thông qua thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Việc vận dụng
các nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn đòi hỏi phải bám sát thực tiễn
phong trào giai cấp công nhân để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm
khuyết của lý luận hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn,
thông qua tổng kết phong trào công nhân để phát triển lý luận, làm cho lý luận
Mác xít ln có sức sống mới đáp ứng địi hỏi của thực tiễn. Lênin chỉ rõ:
“Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và
bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho
mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về
mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”3.
2. Thực tiễn phong trào công nhân đặt ra nhu cầu khách quan cho
sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học; là hiện thực sinh động để
kiểm nghiệm lý luận, tổng kết, bổ sung, phát triển lý luận
2.1 Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, địi hỏi khách quan của
phong trào cơng nhân những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự ra đời và lớn mạnh của nền công
nghiệp lớn. Cùng với sự lớn mạnh của giai cấp tư sản, giai cấp cơng nhân có
sự gia tăng nhanh chúng về số lượng và sự chuyển đổi về cơ cấu. Cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chống lại sự thống trị áp bức của giai cấp tư sản,
biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn ngày càng quyết liệt giữa lực lượng
sản xuất có tính chất xã hội ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế


7
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Nhiều cuộc khởi
nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đó bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng
khắp (tiêu biểu là ba cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên: cuộc khởi nghĩa của
công nhân dệt thành phố Liông Pháp 1831-1834; phong trào hiến chương ở
Anh 1835-1848; cuộ khởi nghĩa của công nhân dệt Xilêdi Đức 1844).

Song, tất cả những cuộc khởi nghĩa và phong trào lúc đó đều thất bại và
bị giai cấp tư sản đàn áp dã man, dìm trong biển máu. Bởi vì lúc đó phong
trào cơng nhân chưa có đường lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng
khoa học; khơng có tổ chức chặt chẽ, đặc biệt là chưa có một chính đảng
thống nhất lãnh đạo mà phong trào cịn bị chi phối bởi những trào lưu tư
tưởng biệt phái, tiểu tư sản. Điều kiện kinh tế, xã hội ấy đòi hỏi phải có lý
luận tiên phong dẫn đường, điều mà chủ nghĩa xã hội khơng tưởng một vài
thập kỷ đó không thể đảm đương; không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư
tưởng của giai cấp công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự sinh thành
ra lý luận mới, tiến bộ soi sáng sự vận động đi lên của lịch sử.
Vượt lên trên tất cả các học giả đương thời, C.Mác và Ph.Ănghen đã nắm bắt
được yêu cầu lịch sử, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, tích cực hoạt động lý luận,
thực tiễn trong phong trào công nhân; kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại, tiếp thu
có phê phán nền triết học cổ điển Đức (tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc), kinh tế
chính trị cổ điển Anh (tiêu biểu là Ađam Xmít và Đavít Ricácđơ), các học thuyết
chủ nghĩa xã hội khơng tưởng-phê phán Pháp (tiêu biểu là Hăngriđơ Xanh
Ximông, Sáclơ Phuriê và Rơbơc Ơoen), hình thành nên chủ nghĩa xã hội khoa học
trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vào tháng 2-1848.
Những nguyên tắc cơ bản mà tuyên ngôn chỉ ra cho giai cấp vô sản là:
Thứ nhất, trong xã hội hiện đại, chỉ có giai cấp vơ sản là giai cấp cách
mạng nhất có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Sứ mệnh đó là do địa vị kinh tế-xã hội
của giai cấp vô sản quy định.
Thứ hai, sự nghiệp giải phóng giai cấp cơng nhân phải do chính giai cấp cơng
nhân đảm nhiệm dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của giai cấp công nhân.


8
Thứ ba, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp vơ sản phải tiến
hành đấu tranh cách mạng, dùng bạo lực lật đổ ách thống trị của giai cấp tư

sản, tổ chức giai cấp mình thành giai cấp thống trị, từng bước xóa bỏ chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thứ tư, trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng giai cấp cơng nhân phải tổ
chức ra được chính Đảng độc lập của mình đối lập với tất cả các chính Đảng
của giai cấp hữu sản.
Thứ năm, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản diễn
ra trước hết trên từng địa bàn dân tộc, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc.
Thứ sáu, nguyên tắc sách lược chung của Đảng cộng sản là phải ủng hộ
mọi phong trào cách mạng chống chế độ đương thời và tìm cách tập trung tất
cả các lực lượng dân chủ. Trong đó những người cộng sản phải giữ vững tính
độc lập của giai cấp mình, phải tiến hành cách mạng không ngừng.
Thứ bảy, để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng
nhân phải thực hiện khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước liên hiệp lại!”.
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ra đời thể hiện sự chín muồi của chủ
nghĩa Mác nói chung và đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học nói
riêng. Nó đã trả lời cho câu đố của lịch sử là: Làm gì?, làm như thế nào? để
giải phóng quần chúng lao động khỏi sự thống trị của các giai cấp bóc lột.
2.2 Thực tiễn cách mạng 1848 – 1849, đòi hỏi khách quan sự tổng kết
và phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trước cách mạng 1848 – 1849, C.Mác và Ph.Ănghen kết luận rằng: cách
mạng là không thể tránh khỏi. Hai ông đã vạch ra sự phát triển của những tiền
đề khách quan và chủ quan của cách mạng và chứng minh sự cần thiết phải
giải quyết bằng cách mạng những mâu thuẫn khách quan của xã hội. Những
tiền đề khách quan để cách mạng nổ ra và phát triển thắng lợi ở các nước tiên
tiến như ở Anh, Pháp, Đức đã chín muồi. Nhưng tại sao cách mạng mở đầu
thắng lợi ở một số nước vào năm 1848 – 1849 cuối cùng lại thất bại. Chỉ có
vận dụng quan niệm duy vật lịch sử - quan niệm Mácxít vào phân tích thời kỳ



9
cách mạng đã qua, đồng thời phát triển hơn nữa lý luận đó thì mới có thể giải
đáp được những vấn đề thực tế mà lịch sử đặt ra.
Qua tổng kết cách mạng 1848 -1849 C.Mác – Ph.Ănghen đã phát triển
những nội dung cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học sau:
* Tư tưởng cơ bản về chuyên chính vô sản, tư tưởng đập tan nhà nước tư sản.
Sau cách mạng 1848-1849 thông qua tổng kết cuộc đấu tranh giai cấp ở
Pháp, đặc biệt diễn biến cuộc cách mạng dân chủ tư sản tháng hai và cách
mạng tháng 6 năm 1848, C. Mác đã khẳng định: việc giai cấp vơ sản trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù của mình nhất thiết phải thành lập nền chuyên
chính cách mạng. C.Mác gọi đó là “nền chun chính của giai cấp cơng
nhân”, “chuyên chính của những người bạn đồng minh của giai cấp nơng
dân”, hay đó là “chun chính của giai cấp vô sản”. Trong tác phẩm “Đấu
tranh giai cấp ở Pháp”, C.Mác gắn tư tưởng chun chính vơ sản với khái
niệm cách mạng khơng ngừng, cách mạng vơ sản. Ơng chỉ rõ: “chủ nghĩa xã
hội nay là lời tuyên bố cách mạng khơng ngừng, là chun chính của giai cấp
vơ sản, coi đó là q độ tất yếu đi đến xố bỏ tất cả các quan hệ sản xuất…”4.
Rõ ràng, C. Mác đã chỉ ra rằng, để thực hiện thắng lợi mục tiêu chủ nghĩa xã
hội, giai cấp vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và kết quả,
đồng thời cũng là bước tiếp theo của nó là phải thiết lập được nền chun
chính vơ sản, dùng nền chun chính này để xố bỏ quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa- cái cơ sở kinh tế để sinh ra chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ
nghĩa. Như vậy là tư tưởng chun chính vơ sản được phát triển mở rộng
thêm, Nhưng đến giai đoạn này, C.Mác- Ph. Ăngghen mới nêu ra sự cần thiết
và tất yếu phải giành được chính quyền trong q trình đấu tranh của giai cấp
vơ sản, cịn thái độ của giai cấp vơ sản đối với bộ máy của giai cấp tư sản như
thế nào thì giai hai ơng chưa đề cập đến. Vấn đề này được các ông đề cập đến
trong tác phẩm “ngày 18 tháng sương mù của Lui-Bônapactơ” C.Mác viết
năm 1851. Đó là thái độ dứt khốt là phải đập tan bộ máy nhà nước áp bức
đó. C.Mác viết: “Tất cả các cuộc cách mạng đều hoàn bị bộ máy nhà nước đó

chứ khơng phải đập tan nó, các chính Đảng nối gót đấu tranh giành chính


10
quyền đều coi việc đoạt lấy toà lâu đài nhà nước đồ sộ ấy là chiến lợi phẩm
chủ yếu của thắng lợi của mình”5.
Có thể nói, tư tưởng về chun chính vơ sản của C.Mác- Ph. Ăngghen đã
tiến thêm một bước làm rõ, giai cấp vô sản không chỉ giành lấy chính quyền
nhà nước mà nó phải phá huỷ, đập tan bộ máy nhà nước đó.
Tư tưởng về chun chính vô sản được cụ thể hơn trong thư gửi cho một
người bạn trong “Đồng minh những người cộng sản” ở Mỹ, ngày 05/03/1852
là Vâyđơmâye. Trong đó C.Mác khảng định: đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn
đến chun chính vơ sản và bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ
để tiến tới xoá bỏ giai cấp, đi tới một xã hội khơng cịn giai cấp. Đến đây,
chúng ta thấy thuật ngữ “chun chính vơ sản” lần đầu tiên được xuất hiện và
một lần nữa, C.Mác khẳng định: về phần tơi, tơi khơng hề có cơng phát hiện
sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội hiện đại và sự đấu tranh của những
giai cấp đó. Trước tơi từ lâu các nhà sử học đã trình bày sự phát triển của lịch
sử, của cuộc đấu tranh giai cấp đó và các nhà kinh tế tư sản đã mổ sẻ các giai
cấp đó về mặt kinh tế. Điều mới mẻ mà tôi đã làm là đã chứng minh rằng:
1-Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển
nhất định của sản xuất.
2- Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chun chính vơ sản.
3- Bản thân sự chuyên chính này chỉ là bước quá độ để tiến tới xoá bỏ
giai cấp và tiến tới một xã hội khơng có giai cấp.
Vậy là, đến năm 1852, tư tưởng về chun chính vơ sản đã có một bước
tiến dài so với “Tun ngơn Đảng cộng sản”. Chun chính vơ sản là một tất
yếu lịch sử, là bước quá độ để đi tới một xã hội khơng có giai cấp. Trong giai
đoạn này, C.Mác- Ph. Ăngghen đã nêu rõ nhiệm vụ của chun chính vơ sản
là: Xố bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung, xoá bỏ tất cả những quan hệ

sản xuất làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xoá bỏ tất cả các quan hệ xã hội
thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, đồng thời cũng cải biến tất cả những
tư tưởng nảy sinh từ những quan hệ sản xuất đó. Nhiệm vụ của chun chính
vơ sản đã thể hiện rõ tính chất triệt để của cách mạng vơ sản.


11
* Về khả năng giành thắng lợi của cách mạng và độ dài của quá trình
cách mạng.
Trước cách mạng 1848 – 1849, C.Mác – Ph.Ănghen cho rằng cách mạng
vô sản phải trải qua một quá trình lâu dài phức tạp, nhưng có thể dẫn đến
thắng lợi hồn tồn của giai cấp vô sản. Trong thời kỳ này hai ông chưa nêu
cụ thể quan niệm của mình về độ dài của quá trình cách mạng sắp diễn ra.
Sau thất bại của cách mạng 1848 – 1849, C.Mác – Ph.Ănghen đặc biệt chú
ý đến triển vọng phát triển của của cách mạng, đến tiến trình lâu dài, phức tạp,
quanh co của quá trình cách mạng sắp diễn ra, trên cơ sở đó, C.Mác và
Ph.Ănghen nêu lên tư tưởng cách mạng không ngừng. Chính tư tưởng cách
mạng khơng ngừng đã thể hiện rõ tính lâu dài, phức tạp của q trình cách mạng.
Theo C.Mác, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sắp diễn ra không phải là con
đường thẳng tắp, diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, trong chốc lát mà mà là
một quá trình lâu dài, phức tạp, quanh co và phân chia giai đoạn; thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền trực tiếp, có thể đan xen với các thời kỳ tương đối n tĩnh,
thời kỳ hịa bình, ổn định; trong đó các giai cấp, các lực lượng khác nhau sẽ lần
lượt thay nhau nắm chính quyền đến khi lập nên nền chun chính vơ sản, mở đầu
bước q độ từ xã hội có giai cấp lên một xã hội khong có giai cấp.
Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, C.Mác chỉ rõ cuộc cách mạng
Pháp lúc đó có hai giai đoạn (hai cuộc cách mạng): cách mạng tháng Hai là cuộc
cách mạng dân chủ tư sản nhưng nó lại mang màu sắc xã hội chủ nghĩa. Cuộc
cách mạng này được đông đảo công nhân tham gia và C.Mác đã khẳng định
cách mạng tháng Hai là cách mạng đẹp vì nó thắng lợi, nó thắng lợi là do mâu

thuẫn đã chín muồi. Cách mạng tháng Hai đã dọn đường, chuẩn bị cho các cuộc
cách mạng về sau. Kể từ sau cách mạng tháng Hai, xã hội tồn tại hai giai cấp cơ
bản là vô sản và tư sản đấu tranh với nhau. Cuộc cách mạng tháng Sáu là cuộc
cách mạng của giai cấp vô sản trực tiếp đấu tranh chống giai cấp tư sản. C.Mác
gọi đây là cuộc cách mạng giao chiến lớn đầu tiên, nhưng theo C.Mác “cuộc
cách mạng tháng Sáu lại đáng tội chết”, cuộc cách mạng đáng ghê tởm, đáng
ghét. Bởi vì, các điều kiện kinh tế - xã hội để cách mạng nổ ra và giành thắng lợi


12
chưa xuất hiện, chưa chín muồi; bởi vì: hành động đã thay thế cho lời nói, vì
“nền cộng hịa đã để lộ trần cái đầu của bản thân con quái vật ra bằng cách vứt
bỏ cái vương miện đã che chở và ngụy trang nó” .
Từ sự phân tích, tổng kết cách mạng tháng Hai và tháng sáu, C.Mác đã
khẳng định để cách mạng nổ ra và giành thắng lợi phải có điều kiện nhất định đó
là: lực lượng sản xuất và hình thức sản xuất tư bản xung đột gay gắt với nhau.
Nhưng vào năm 1848, lúc đó “giai cấp cơng nhân Pháp chưa đạt đến chỗ đó, nó
chưa có khả năng thực hiện cuộc cách mạng của chính nó”6. C.Mác viết: “... nói
chung, sự phát triển của giai cấp vô sản công nghiệp được quy định bởi sự phát
triển của giai cấp tư sản cơng nghiệp. Chỉ có dưới sự thống trị của giai cấp này
thì sự tồn tại của giai cấp vơ sản cơng nghiệp mới có được quy mơ tồn quốc,
khiến nó có thể nâng cuộc cách mạng của nó lên thành một cuộc cách mạng tồn
quốc, chỉ có như thế thì bản thân giai cấp vơ sản cơng nghiệp mới có thể tạo ra
những tư liệu sản xuất hiện đại, tức là những thứ đều trở thành những phương
tiện để thực hiện sự nghiệp cách mạng của nó. Chỉ có sự thống trị của giai cấp tư
sản cơng nghiệp là có thể nhổ hết được gốc rễ vật chất của xẫ hội phong kiến và
san bằng miếng đất duy nhất trên đó”7.
Cách mạng 1848 – 1849 đã cung cấp thực tiễn cho C.Mác thấy rằng,
cách mạng có thể nổ ra ở những nước tư bản phát triển chậm hơn, C.Mác viết:
“Dĩ nhiên là trước khi lan tới tim thì các cuộc bùng nổ dữ dội phải xảy ra ở tứ

chi của cơ thể tư sản đã, vì ở tim, khả năng giữ được thăng bằng có nhiều hơn
ở tứ chi”8. Tư tưởng này sau đó được Lênin phát triển sâu sắc hơn và hoàn
chỉnh trong điều kiện đế quốc chủ nghĩa.
Trong quá trình tổng kết cách mạng 1848 – 1849 C.Mác – Ph.Ănghen đặc
biệt chú ý đến vấn đề nhà nước sau khi giai cấp vơ sản giành được chính
quyền. Giai cấp vơ sản giành được chính quyền là mục tiêu đầu tiên của q
trình cách mạng không ngừng. C.Mác viết: “ Chủ nghĩa xã hội này là cách
mạng khơng ngừng, là chun chính giai cấp của giai cấp vơ sản, coi đó là giai
đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung, xóa
bỏ tất cả những quan hệ sản xuất làm cơ sở cho những khác biệt giai cấp, xóa


13
bỏ tất cả những quan hệ xã hội tương ứng với những quan hệ sản xuất đó, tạo
nên sự biến đổi có ý nghĩa bước ngoặt trong tất cả những tư tưởng sinh ra từ
quan hệ sản xuất đó”. Bên cạnh mặt chính trị - xã hội, C.Mác – Ph.Ănghen còn
đặc biệt chú ý đến mặt kinh tế - xã hội, đến những biện pháp kinh tế - xã hội để
tạo ra những biến đổi căn bản trong quan hệ xã hội gắn với thời kỳ quá độ.
* Tư tưởng về liên minh công nông.
Từ sự thất bại của cách mạng 1848 – 1849, C.Mác – Ph.Ănghen đã đi
sâu nghiên cứu cơ sở giai cấp – xã hội của các sự kiện lịch sử. Hai ông đi đến
kết luận: muốn cho cách mạng ở các nước đông nông dân thành cơng thì phải
cần có sự liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân. C.Mác viết: công nhân
Pháp không thể tiến lên một bước nào và cũng không thể động đến một sợi
tóc nào của chế độ tư sản trước khi nông dân Pháp đứng giữa giai cấp tư sản
và vô sản, tức là nông dân và giai cấp tiểu tư sản. Vai trị của nơng dân trong
tiến trình cách mạng được C.Mác – Ph.Ănghen đánh giá cao: cán cân lên hay
xuống ra sao, đó là tùy theo vào lá phiếu của nông dân.
Đến năm 1852, trong lần đầu xuất bản tác phẩm “Ngày 18 tháng sương mù
của Lu I Bô-na-pác-tơ”, C.Mác nhấn mạnh: khi nông dân trở thành đồng minh

của giai cấp vơ sản thì cách mạng vơ sản mới thực hiện được bài đồng ca, mà
nếu không thực hiện được bài đồng ca này, thì trong tất cả các nước nông dân,
bài đơn ca của giai cấp vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu. Về cách mạng ở Đức
C.Mác viết: tất cả những vấn đề ở Đức sẽ tùy thuộc vào khả năng ủng hộ cuộc
chiến tranh nơng dân. Chỉ trong trường hợp ấy thì mọi việc mới trơi chảy.
Từ sự phân tích về lợi ích của giai cấp nông dân và lợi ích cảu giai cấp
vô sản, C.Mác cho rằng về cơ bản là thống nhất và khơng ai khác ngồi giai
cấp vơ sản là người đại biểu cho lợi ích của giai cấp nơng dân, từ đó C.Mác
khẳng định: đứng trước giai cấp tư sản đã liên minh lại thì lẽ dĩ nhiên là
những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông
dân phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho lợi ích cách mạng, tức là
giai cấp vô sản cách mạng.


14
Trong khi khẳng định vai trị và tính tất yếu của liên minh công nông,
C.Mác – Ph.Ănghen nhấn mạnh rằng: trong khối liên minh đó quyền lãnh đạo
phải thuộc về giai cấp công nhân, người nông dân thấy rằng giai cấp vơ sản
thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh,
người lãnh đạo tự nhiên của mình.
Tư tưởng về liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân trong giai đoạn những năm 50-60 của thế kỷ XIX là một thành tựu xuất
sắc của C.Mác – Ph.Ănghen trong sự phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học, nó đã mở ra triển vọng thắng lợi của cách mạng dân chủ tư sản, sau
đó tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
* Tư tưởng về chính Đảng của giai cấp công nhân.
Qua thực tiễn và kinh nghiệm của cách mạng 1848 -1849 ở châu Âu,
C.Mác – Ph.Ănghen đã cho thấy cần thiết phải thành lập những đảng cơng
nhân độc lập ở từng nước. Khi phân tích những sự kiện trong cuộc cách mạng
lúc đó, hai ơng đã chỉ ra một trong những nguyên nhân của sự thất bại là vì

thiếu sự lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ của Đảng vô sản cách mạng đối với
quần chúng, do vậy phong trào cách mạng ở nhiều nước đã đi đến tự sát, bị tư
sản lợi dụng phục vụ cho mục đích của chúng. Trong khi nêu lên tính cấp
thiết về giai cấp cơng nhân cần có một đảng độc lập của riêng mình (bí mật
và cơng khai) song song với những đảng dân chủ hình thức, C.Mác –
Ph.Ănghen đã đòi hỏi phải gắn liền hoạt động của Đảng trong các tổ chức
quần chúng công nhân và hạt nhân của hiệp hội cơng nhân lúc đó, trong đó có
thể thảo luận vấn đề lập trường và lợi ích của giai cấp vô sản một cách độc lập
chứ không chịu ảnh hưởng của giai cấp tư sản. C.Mác đã chỉ rõ trong điều lệ
của Quốc tế I: trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền liên hiệp của
các giai cấp hữu sản chỉ có khi nào giai cấp vơ sản tự mình tổ chức được một
chính đảng độc lập để đối lập với tất cả mọi chính đảng cũ do các giai cấp
hữu sản sáng lập ra thì mới có thể hành động với tư cách một giai cấp được.
Trong tình hình cụ thể của nước Đức năm 1848, C.Mác – Ph.Ănghen đã
nêu lên mối quan hệ giữa nguyên tắc dân chủ và nguyên tắc vô sản trong cách


15
mạng. Trong thực tiễn, hai ông đã chỉ đạo cho Đảng phải liên minh với mọi
lực lượng tiến bộ của đất nước để phối hợp hành động chung trong cách
mạng. Một đảng vô sản cách mạng phải là một đảng quần chúng, hành động
theo những điều kiện khách quan của sự phát triển xã hội chứ không thể là
một đảng bè phái. Với giai cấp tư sản Đức lúc đó, C.Mác – Ph.Ănghen chỉ rõ:
phải ủng hộ nó trong cuộc đấu tranh chống các phần tử phản động, bởi vì bất
cứ thành quả nào mà giai cấp tư sản giành được từ thế lực phản động, xét cho
cùng đều có lợi ích của giai cấp cơng nhân. Tuy nhiên, sự ủng hộ đó trong
trường hợp phong trào của giai cấp tư sản có tính chất tiến bộ và phù hợp với
lợi ích của giai cấp cơng nhân. Nhưng trong mọi trường hợp, đảng công nhân
pahir là đảng độc lập về chính trị và khơng bao giờ được theo theo đi giai
cấp tư sản. Đảng phải luôn giáo dục cho giai cấp cơng nhân là lợi ích của họ

đối lập trực tiếp với lợi ích của gai cấp tư sản.
Sự phát triển tư tưởng về Đảng của giai cấp công nhân trong giai đoạn
1848 – 1870 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng của
giai cấp cơng nhân, nó thúc đẩy phong trào của giai cấp công nhân sang một
giai đoạn mới, giai đoạn kết hợp lý luận cách mạng với phong trào công nhân.
2.3 Thực tiễn cơng xã Pari, địi hỏi khách quan sự tổng kết và phát
triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Công xã Pari năm 1871 là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới.
Cuộc cách mạng ấy nổ ra ngày 18-3 ở thủ đô Pari và đã giành thắng lợi, thiết
lập được chính quyền của giai cấp cơng nhân. Tuy Công xã chỉ tồn tại 72
ngày đêm nhưng đó là mốc son chói lọi trong trang sử hào hùng của giai cấp
công nhân Pháp và gai cấp công nhân thế giới. Thắng lợi của Công xã chứng
tỏ giai cấp công nhân Pháp đã giải quyết thành công vấn đề giai cấp và vấn đề
dân tộc. Nghĩa là cùng một lúc vừa đánh đuổi bọn xâm lược Phổ, vừa đập tan
bộ máy cai trị của giai cấp tư sản Pari, lập lên chính quyền của giai cấp cơng
nhân. Cơng xã Pari cũng chứn minh giai cấp công nhân đã có bước trưởng
thành vượt bậc từ sau cách mạng 1848 – 1849.


16
Tổng kết những bài học kinh nghiệm của Công xã Pari, C.Mác và
Ph.Ănghen đã làm phong phú thêm lý luận cách mạng bằng những tư tưởng mới.
* Phát triển tư tưởng về đảng của giai cấp công nhân.
Công xã Pari nổ ra tự phát, chưa có sự chuẩn bị một cách đầy đủ, chưa có
cương lĩnh, chiến lược, sách lược cách mạng, chưa có mục đích rõ ràng, cơng việc
đến đâu thì làm đến đó... chính là do chưa có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo. Đã
khơng có một chính Đảng lãnh đạo, lúc đó cơng xã lại chịu ảnh hưởng của hai xu
thế chính trị khác nhau đó là: nhóm thiểu số theo Pruđơng, đã phủ nhận sự cần
thiết phải có sự lãnh đạo của chính Đảng, phủ nhận đấu tranh chính trị, phản đối
sự thiết lập một chính quyền của giai cấp vơ sản; nhóm đa số gồm những người

dân chủ tiểu tư sản – những người Giacơbanh mới và những người theo phái
Blăngxki, trong đó những người theo phái Blăngxki giữ vai trị lãnh đạo. Nhóm đa
số kiên quyết chủ trương bảo vệ Pari chống bọn phản cách mạng, nhưng họ đã
phạm sai lầm là hầu hết không tham dự vào những biện pháp xã hội và kinh tế của
công xã, họ đã tách rời với sự hoạt động của quần chúng. Nhóm Blăngxki cho
rằng, chỉ cần có một nền chun chính của một nhóm thiểu số cách mạng chứ
khơng phải là một nền chun chính của giai cấp.
Từ tổng kết công xã Pari, C.Mác – Ph.Ănghen cho rằng một Đảng cách
mạng, Đảng chân chính muốn hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình dứt khốt
Đảng đó phải gắn bó mật thiết với quần chúng, với thực tiễn sáng tạo của họ. Sự
tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng với kinh nghiệm đấu tranh của quần chúng sẽ
dẫn đến Đảng bị suy yếu. Một Đảng chỉ có được sức mạnh khi Đảng ấy biết thống
nhất những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học với tổ chức tập hợp được
hàng triệu những người lao động thành một đội quân của giai cấp công nhân.
Bên cạnh việc xây dựng Đảng phải gắn bó với phong trào của quần chúng,
C.Mác – Ph.Ănghen cũng chỉ rõ Đảng phải được vũ trang bằng lý luận cách
mạng. Ph.Ănghen viết: trách nhiệm của những người lãnh đạo là phải học tập
không ngừng những vấn đề lý luận, phải tự giải thoát ngày càng nhiều hơn khỏi
ảnh hưởng của những tư tưởng cổ truyền của thế giới cũ và phải luôn luôn nhớ
rằng chủ nghĩa xã hội từ khi trở thành khoa học, đòi hỏi phải được đối xử như một


17
khoa học, nghĩa là phải nghiên cứu nó. C.Mác – Ph.Ănghen cũng nhấn mạnh vai
trò của lý luận cách mạng và sự gắn bó lý luận với phong trào cơng nhân, Đảng
phải kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh lý luận; khơng có lý luận xã hội chủ
nghĩa thì khơng thể có phong trào cách mạng, chỉ có thể kết hợp lý luận đó với
phong trào cơng nhân thì mới giành được thắng lợi
Đảng phải nêu cao tinh thần đấu tranh chống những nhóm thù địch với chủ
nghĩa xã hội khoa học, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái. Theo

C.Mác – Ph.Ănghen, sự phát triển của giai cấp vô sản đều gắn liền với cuộc đấu
tranh trong nội bộ, loại trừ những phần tử cơ hội, bè phái ra khỏi hàng ngũ của
Đảng, của giai cấp công nhân. Hai ông cũng nhấn mạnh rằng khi chủ nghĩa xã hội
ra đời, chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa bè phái đã trở thành yếu tố phản động, một
kẻ thù không đội trời chung của phong trào cộng sản. Vì vậy, đấu tranh chống bọn
cơ hội và bè phái là quy luật phát triển của Đảng.
C.Mác – Ph.Ănghen cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết quốc tế của
các Đảng cơng nhân, coi đó là nguyên lý để xây dựng các Đảng vô sản thành một
Đảng thực sự cách mạng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của nình. Theo hai ơng,
ngun tắc của chủ nghĩa quốc tế là sự thống nhất, đoàn kết các Đảng cộng sản,
Đảng cơng nhân, đó là điều kiện khơng thể thiếu trong quá trình đấu tanh chống
lại chủ nghĩa tư bản, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân từng nước.
Q trình phát triển của của chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh
chống những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa sơ vanh, coi đó là quy
luật phát triển của các Đảng cộng sản.
Có thể nói, đến đây C.Mác – Ph.Ănghen đã bổ sung phát triển những luận
điểm cực kỳ quan trọng về một Đảng cách mạng – đội tiền phong của giai cấp
cơng nhân, làm hình mẫu để các Đảng cộng sản tự xây dựng, hoàn thiện trong tiến
trình đấu tranh cách mạng.
* Phát triển tư tưởng chuyên chính vơ sản.
Trước khi cuộc cách mạng Pari nổ ra, C. Mác- Ph. Ăngghen là những
người theo dõi sát sao mọi diễn biến của tình hình. Cuộc chiến Pháp –Phổ nổ ra
ngày 19/7/1870 như là một tiếng chuông báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của nền


18
đế chế II thối nát. từ theo dõi tình hình cách mạng ở Pháp, C.Mác đã đưa ra lời
tiên đoán hiên tài: “dầu cho cuộc chiến tranh của Lu-i Bô-na-pác-tơ chống nước
Phổ kết thúc như thế nào chăng nữa, tiếng chuông đưa đám nền đế chế II cũng
sẽ điểm ở Pari rồi. Đế chế II sẽ kết thúc…”.Trong quá trình diễn biến của cách

mạng ở Pari, C.Mác- Ph. Ăngghen đã có những chỉ đạo cần thiết đối với cách
mạng. Sau công xã Pari, C.Mác- Ph. Ăngghen đã bắt tay ngay vào việc tổng kết
hoạt động của công xã. Những vấn đề đó được thể hiện trong tác phẩm “nội
chiến ở Pháp”. Trong tác phẩm này C. Mác đã tổng kết cuộc nội chiến diễn ra ở
Pháp và qua công xã Pari, C. Mác đã chỉ ra, vai trò nhiệm vụ, con đường hình
thành, chức năng, hình thức tổ chức và bản chất của chun chính vơ sản.
Nếu như ở tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” C. Mác cho rằng
chun chính vơ sản được biểu hiện là giai cấp cơng nhân phải đấu tranh tự
mình trở thành giai cấp dân tộc, phải giành lấy dân chủ và đập tan các bộ máy
nhà nước cũ thì qua thực tiễn cơng xã Pari, C.Mác - Ph. Ăngghen chỉ rõ, giai
cấp công nhân phải thủ tiêu toàn bộ bộ máy nhà nước tư sản và thiết lập bộ
máy nhà nước chuyên chính của giai cấp công nhân. Trong bộ máy nhà nước
tư sản C.Mác cho rằng cần phải đập tan các “công cụ quyền lực vật chất” như
quân đội thường trực, cảnh sát, bộ máy quan liêu, quan tồ. đồng thời phải
xố bỏ “các công cụ áp bức tinh thần” như các thế lực tăng lữ, tách nhà thờ
ra khỏi trường học, tách giáo hội ra khỏi nhà nước.
Về bản chất của nhà nước chun chính vơ sản, C. Mác cho rằng, chun
chính vơ sản mang bản chất của một nhà nước dân chủ, trong đó quyền lực
thực tế thuộc về giai cấp cơng nhân và nhân dân lao dộng. Ơng khảng định: “về
thực chất, cơng xã là một Chính phủ của giai cấp công nhân, là kết quả của
cuộc đấu tranh giai cấp những người sản xuất chống lại giai cấp chiếm đoạt,
là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực hiện việc
giải phóng lao động về mặt kinh tế”9. Và qua đó C.Mác cũng chỉ ra con đường
hình thành chun chính vơ sản đó là con đường bạo lực vũ trang cách mạng
của quần chúng nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chun chính vơ sản
có chức năng là chấn áp sự chống đối của giai cấp tư sản và các thế lực phản


19
động và tổ chức xây dựng một xã hội mới. Từ thực tiễn của công xã, C.Mác –

Ph.Ănghen cho rằng cần thiết phải xây dựng một quân đội thường trực mạnh,
kiên quyết tấn công kẻ thù, tiêu diệt chúng ở những sào huyệt cuối cúng. Điều
đó có nghĩa là phải sử dụng bạo lực một cách triệt đê, không khoan nhượng
với kẻ thù. Nhiêm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản gồm cả nhiệm vụ đối
nội và đối ngoại, thông qua hoạt động của công xã Pari, C.Mác cho rằng: muốn
hiểu về chun chính vơ sản là gì, hãy nhìn vào cơng xã Pari, chun chính vơ
sản là như thế đấy.
* Phát triển tư tưởng về liên minh công nơng.
Qua tực tiễn cơng xã Pari, C.M¸c- Ph. ¡ngghen cho rằng vấn đề liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác không chỉ là một tất yếu để tạo lực lợng to lớn trong giành
chính quyền, mà còn là vấn đề đặc biệt quan trong trong giữ chính quyền, bảo
vệ những thành quả của cách mạng vô sản. T tởng này đà đợc thực tiễn công
xà Pa ri trả bằng một giá quá đắt. Trong khi giành chính quyền và xây dựng xÃ
hội mới, công nhân Pa ri đà mải mê, say sa với chiến thắng mà quên đi nhiệm
vụ xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, khi Chie từ Vác Xây quay
lại đàn áp công xà thì công nhân Pa ri hầu nh chỉ có một mình chống chi
lại với lực lợng hùng mạnh của chÝnh phđ t s¶n, khi hä võa nhËn ra sù đơn độc
của mình và vội vàng ra lời hiệu triệu nông dân và công nhân ở các thành phố
khác bảo vệ công xà thì sự thể đà rồi. Những sai lầm ấy đÃng lẽ không đáng
có, đáng lẽ Công xà có đầy đủ lý do để nói với nông dân rằng: thắng lợi
của công xà là hy vọng duy nhất của các anh. Thì thực tế công xà đà không
làm đợc hoặc đà làm quá muộn.
Cũng trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp, C.Mác- Ph. Ăngghen đà chỉ
ra rằng: việc xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động khác là một tất yếu khách quan, nhng phải
đợc đặt dới sự lÃnh đạo của các chính đảng vô sản, đó cũng là điều kiện tiên
quyết nhất để giải phóng không chỉ giai cấp công nhân, giai cấp nông dân mà
còn là mục tiêu giải phóng toàn xà hội, giải phóng con ngời nói chung. Để xây
dựng đợc khối liên minh ấy vững chắc thì chính quyền vô sản phải có chính

sách u đÃi cụ thể với nông dân, dần đa họ từ sản xuất nhỏ, manh mún lên sản
xuất lớn; các chính sách với nông dân phải đợc tiến hành từng bớc, linh hoạt,
mềm dẻo phải trên cơ sở giáo dục, tuyên truyền thuyết phục là chủ yếu, phải
để ngời nông dân tự suy nghĩ trên luống cày của họ.


20
2.4 Cách mạng tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội từ lý
luận trở thành hiện thực.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười nga năm 1917 thành công, nước
Nga bước vào giai đoạn cách mạng mới, vừa đấu tranh bảo vệ chính quyền
cách mạng cịn non trẻ vừa phải phát triển kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã hội.
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng,
đòi hỏi phải phát triển lý luận cách mạng đáp ứng tình hình mới trong nước
Nga và thế giới. Sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kỳ
này được thực hiện trên nhiều vấn đề nhưng tập trung chủ yếu nhất là những
vấn đề mà cách mạng nước Nga và thế giới đang đặt ra và phải giải quyết.
* Phát triển lý luận chun chính vơ sản và dân chủ vơ sản
VI.Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội, xét
lại, bảo vệ và phát triển học thuyết Mác, trong đó vấn đề chun chính vơ sản
là vấn được VI.Lênin quan tâm đặc biệt. Ông cho rằng, chuyên chính vơ sản
là vấn đề cốt lõi xun suốt tồn bộ học thuyết Mác, là “hòn đá thử vàng” với
lập trường của những người mácxít và cịn nhấn mạnh rằng “chỉ người nào
mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chun chính
vơ sản thì mới là người Mác-xít”10
Thơng qua các tác phẩm như: “Nhà nước và cách mạng” (1917); “cách
mạng vô sản và tên phản bội Kauxky” (1918) và nhiều tác phẩm khác, tư
tưởng về chun chính vơ sản đã được phát triển hồn thiện. Trong đó
VI.Lênin chỉ ra khái niệm về chun chính vơ sản, người cho rằng: chun
chính vơ sản là “việc tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành

giai cấp thống trị để chấn áp bọn áp bức”. Như vậy, trong khái niệm này, nội
dung cốt lõi của chun chính vơ sản được thể hiện, đó là giai cấp công nhân
phải tổ chức thành giai cấp cầm quyền. Chính quyền đó phải thuộc về một
giai cấp duy nhất, là giai cấp cơng nhân. Tính chất của chun chính vô sản:
là công cụ của cách mạng vô sản, là sự thống trị của giai cấp vô sản đối với
giai cấp tư sản. Khối công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp vơ sản là chính
quyền mà nó khơng chia sẻ cho ai hết và trực tiếp dựa vào vũ trang của quần


21
chúng. Trong đó Đảng của giai cấp vơ sản là lực lượng lãnh đạo của chun
chính vơ sản, sự lãnh dạo đó để đảm bảo cho nền chun chính vơ sản vững
mạnh, hoàn thành được chức năng nhiệm vụ của mình. VI.Lênin chỉ rằng:
trong cuộc đấu tranh cho chun chính vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
cần cho Đảng có đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất
cả những người lao động và những người bị bóc lột. Nếu khơng có Đảng lãnh
đạo, thì giai cấp vơ sản và nhân dân lao động không thể lật đổ giai cấp tư sản,
không thể giành được thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể
xây dựng được chủ nghĩa xã hội
Mặt khác VI.Lênin cũng chỉ rõ nội dung của chun chính vơ sản, nó bao
gồm hai mặt: chun chính và dân chủ. Đây là hai mặt đối lập gắn bó với nhau
cùng tồn tại chuyên chính để thực hiện, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân
chủ xã hội chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử, nhưng
khơng phải dân chủ hồn tồn mà phải thực hiện chun chính với thiểu số bọn
bóc lột, chống đối. Và sự chun chính này khơng thể nương nhẹ mà phải tiến
hành cương quyết, chừng nào còn những kẻ bóc lột, cịn sự khác biệt giai cấp thì
cịn phải thực hành chuyên chính.Theo VI.Lênin : “Thiết lập nền chuyên chính
của giai cấp vơ sản một nền chun chính sẽ bẻ gẫy được sự phản kháng quyết
liệt của các giai cấp bóc lột bị gạt ra khỏi chính quyền”11.
Tuy nhiên, trong chun chính vơ sản cái bản chất nhất của nó chính là ở

mặt dân chủ, tất nhiên là dân chủ với nhân dân và sẽ tước bỏ dân chủ với bọn
bóc lột. Người khảng định: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và chấn
áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ
đối với bọn chúng”12. Thêm nữa VI.Lênin cịn vạch rõ chun chính vơ sản là
một nhà nước kiểu mới, “nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ với những
người vơ sản và nói chung với những người khơng có của) và chun chính
kiểu mới chống lại giai cấp tư sản”13.
Nói về hình thức chun chính vơ sản: Qua đúc kết kinh nghiệm lịch sử,
kinh nghiệm từ công xã Pari 1871 và cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất 1905,


22
VI.Lê-Nin đã nêu nên tính mn hình mn vẻ của các hình thức chính trị của
chun chính vơ sản. Người khảng định rằng: sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra tính mn hình, mn vẻ của hình thức chính
quyền nhà nước của giai cấp vô sản, song thực chất chúng chỉ là một: đó là
“chun chính vơ sản” của giai cấp cơng nhân. sau khi lãnh đạo phong trào
cách mạng Nga thành công, cuộc cách mạng tháng mười Nga thắng lợi, nhà
nước Xơ viết ra đời, VI.Lê-Nin cho rằng, về hình thức của chun chính vơ
sản thì tiếp theo sau cơng xã Pari là chính quyền Xơ viết Nga, một thành quả
từ cách mạng tháng Mười. Với thực tế ở một số nước, VI.Lê-Nin cịn chỉ ra
một hình thức chun chính vơ sản mới là chính quyền dân chủ nhân dân.
Chế độ này phản ánh tính chất độc đáo của cách mạng xa hội chủ nghĩa và
đặc điểm lịch sử dân tộc của những nước đó.
Để chun chính vơ sản tồn tại và phát triển VI.Lê-Nin luận giải cơ sở
của nó: theo VI.Lê-Nin đó là sự liên minh của giai cấp cơng nhân với giai cấp
nơng dân, với tồn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân. Cơ sở khách quan của khối liên minh ấy là sự thống nhất của các quyền
lực cơ bản về kinh tế, chính trị của giai cấp cơng nhân, giai cấp nông dân và
nhân dân lao động. Và người chỉ rõ: “Nếu khơng có sự liên minh ấy thì khơng

thể có dân chủ vững bền, không thể cải tạo xã hội chủ nghĩa được”14.
Đề cập về nhiệm vụ của chuyên chính vơ sản, theo VI.Lê-Nin đó là phải
thủ tiêu mọi chế độ người bóc lột người, là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã
hội. Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có một chế độ quản lý mới thực
sự có tính nhân dân và được xây dựng theo ngun tắc “tập trung dân chủ”.
Khi phê phán quan điểm của kẻ thù cho rằng chun chính vơ sản là sự kích
động bạo lực của quần chúng chống chính quyền, VI.Lê-Nin đã chỉ rõ,
chun chính vơ sản khơng chỉ là bạo lực với bọn bóc lột, mà cịn có chức
năng chủ yếu là việc tổ chức xây dựng thành công xã hội mới. Đây mới là
thực chất của chun chính vơ sản.
Với sự phát triển của VI.Lê-Nin về chun chính vơ sản gắn liền với học
thuyết về đấu tranh giai cấp. Nếu như từ những năm 1852, C.Mác đã khẳng


23
định rằng đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản, thì đến khi
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động đã giành được chính quyền, thiết lập
nền chun chính vơ sản của mình, VI.Lê-Nin tiếp tục khảng định: cuộc đấu
tranh giai cấp chưa chấm dứt mà diễn ra dưới thức mới, nội dung mới và điều
kiện mới. Trong đó tất yếu phải tăng cường sức mạnh của nhà nước chun
chính vơ sản để chấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột tuy bị đánh đổ
nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn; để tiến hành cải tạo xã hội cũ, làm sạch môi trường
xã hội và để tổ chức được một kiểu sản xuất xã hội mới, tăng nhanh năng xuất
lao động tạo cơ sở chiến thắng hoàn toàn xã hội tư bản chủ nghĩa.
Đến đây, chúng ta thấy sự trung thành và kế thừa sáng tạo, tư tưởng về
chun chính vơ sản của C.Mác- Ph. Ăngghen, tư tưởng đó tiếp tục được
VI.Lê-nin bảo vệ và phát triển một cách tồn diện, từ tính chất, chức năng,
nhiệm vụ, hình thức và cả những yêu cầu cần thiết để duy trì và tăng cường
nền chuyên chính vơ sản của giai cấp cơng nhân trong giai đoạn giai cấp công
nhân trở thành giai cấp cầm quyền, tiến hành xây dựng một xã hội mới.

VI.Lê-Nin còn chỉ rõ là, sự lãnh đạo của Đảng là điều cốt yếu trong nền
chun chính vơ sản. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng thì khơng giữ vững
được bản chất của nền chun chính vơ sản, khơng thực hiện được thắng lợi
của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Công lao của VI.Lê-Nin không chỉ ở việc phát triển tư tưởng về chun
chính vơ sản của C.Mác- Ph. Ăngghen lên đến hồn thiện, mà người đã lãnh đạo
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động Nga thực hiện thành công cách mạng
tháng Mười, thiết lập nên một nhà nước chun chính vơ sản đầu tiên, vạch ra cho
Đảng cộng sản và phong trào cách mạng các nước nhìn thấy con đường, bước đi
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở từng nước.


24
* Về cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Lênin đã khái quát về mặt lý luận và thực tiễn công cuộc cải tạo và xây
dựng kinh tế, kinh nghiệm của quần chúng trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới. những khái quát đó đã được Lênin nêu
lên thành những luận điểm khoa học trong kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga, bao gồm nhiều nội dung quan trọng từ chính sách phát triển kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đến những nguyên tắc quản lý
kinh tế trong xã hội mới – xã hội chủ nghĩa.
Điểm mấu chốt trong chính sách kinh tế của Lênin nêu lên trong thời kỳ
này trước hết là vấn đề tư liệu sản xuất. Lênin cho rằng: cần phải xã hội hóa
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Tiến hành xã hội hóa tư liệu sản
xuất bằng cách tước đoạt triệt để tư liệu sản xuất của các giai cấp bóc lột nhơ
nhà máy, xí nghiệp, ruộng đất…Người chủ trương tiến hành xã hội hóa tư liệu
sản xuất bằng những biện pháp và phương pháp khác nhau, nhằm xây dựng chủ
nghĩa xã hội một cách hịa bình.
Mặt khác, trong các biện pháp phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Lênin chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế. Sử

dụng các chuyên gia tư sản trong phát triển một số ngành kinh tế của đất nước.
Tơ nhượng, một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, cũng được Lênin
chú trọng sử dụng.
Trong chính sách kinh tế, chủ trương phát triển cả kinh tế nông nghiệp và
công nghiệp; sự phối hợp, hỗ trợ nhau sẽ tạo điều kiện cho cả hai cùng phát
triển. Chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền sản xuất nơng nghiệp: xã
hội hóa tư liệu sản xuất chủ yếu, đưa nông dân vào làm ăn trong các nông trang
tập thể. Người chỉ rõ: giai cấp cơng nhân cần tham gia tích cực giúp đỡ nơng
dân trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nơng thơn.
Theo Lênin, muố có một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển cả về
công nghiệp và nông nghiệp, điều trước tiên phải làm là diện khí hóa; Lênin
nhấn mạnh: “chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xơ - viết cộng với điện khí


25
hóa tồn quốc”. Từ cuối những năm 1920, tư tưởng điện khí hóa của Lênin bắt
đầu được thực hiện và từng bước thu được thắng lợi quan trọng.
Trong kế hoạch xây dựng kinh tế, Lênin chú trọng đến việc cần phải áp
dụng triệt để những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Bên cạnh đó vấn đề tổ chức, quản lý lao động cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra năng xuất lao động cao của chủ nghĩa xã hội. Lênin chỉ rõ: chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng chủ nghĩa tư bản khi đưa ra một kiểu tổ
chức sản xuất xã hội có năng xuất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin, cả trong thời kỳ
“chính sách kinh tế mới” là sự thống nhất và phát triển những tư tưởng về xây
dựng kinh tế của chủ nghĩa xã hội được Người vạch ra từ mùa xuân năm 1918.
những tư tưởng ấy góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn những tư tưởng lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực.
* Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Phát triển lý luận thời kỳ quá độ của C.Mác – Ph.Ănghen, trong tác phẩm

“Nhà nước và cách mạng”, Lênin cho rằng: trong hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa bao gồm thời kỳ quá độ, giai đoạn thấp – chủ nghĩa xã hội
và giai đoạn phát triển cao là chủ nghĩa cộng sản.
Đặc biệt, Lênin còn chỉ rõ trong tiến trình phát triển của lịch sử, nhân loại
có thể bỏ qua một vài hình thái kinh tế xã hội để xây dựng một hình thái kinh tế
- xã hội mới phù hợp với những điều kiện lịch sử cho phép. Trong thời đại
ngày nay, theo Lênin, vấn đề bỏ qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển là vấn đề hợp quy luật
phát triển của lịch sử.
Mặt khác, Lênin nhấn mạnh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp diễn. tính chất của cuộc đấu tranh ấy không
kém phần gay go, quyết liệt, phức tạp. Cuộc đấu tranh ấy diễn ra trong điều
kiện mới, dưới hình thức mới, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.


×