Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH vấn đề XUNG đột dân tộc TRÊN THẾ GIỚI và QUAN hệ dân tộc ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.2 KB, 16 trang )

VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI
VÀ QUAN HỆ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY.

Xung đột dân tộc là một khái niệm với nội hàm rộng, bao hàm cả xung
đột giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội bộ dân tộc; cả xung đột giữa các tộc
người trong cùng một dân tộc và cả xung đột giữa các quốc gia dân tộc với
nhau. Xung đột dân tộc là một dạng cao của xung đột xã hội, nó diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự,
tôn giáo và ý thức hệ… Hình thức các cuộc xung đột sắc tộc, dân tộc rất đa
dạng; như xung đột mâu thuẫn quyền lực chính trị giữa các phe phái; xung đột
về tranh chấp lãnh thổ, biên giới giữa các dân tộc; đối đầu, cạnh tranh quyết
liệt giữa các tôn giáo hoặc giữa các giáo phái; tranh chấp về quyền lợi kinh tế,
quản lý, khai thác tài nguyên; xung đột do phân biệt chủng tộc, đòi ly khai
thành lập nhà nước độc lập... Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề xung đột dân
tộc có ý nghĩa quan trọng đối với việc ổn định và phát triển của mỗi quốc gia
dân tộc, cũng như đối với công cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì hòa
bình, độc lập dân tộc, đân chủ và tiến bộ xã hội.
Bước sang thiên niên kỷ mới, thế giới đang đứng trước những vấn đề
hết sức phức tạp, trong đó xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới diễn ra khá
rộng khắp và đe dọa nghiêm trọng độc lập dân tộc, hòa bình, ổn định và an
ninh của nhiều quốc gia và các khu vực trên thế giới. Đánh giá tình hình thế
giới hiện nay, Đảng ta khẳng định: “Trong những năm tới, trên thế giới, hoà
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn … nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu
tố bất trắc khó lường”(1)… “Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.21.

1




trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật
đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều
nơi với tính chất ngày càng phức tạp” (2). Có thể nói rằng hiện nay mâu thuẫn
và xung đột dân tộc, sắc tộc đang diễn ra ở khắp các châu lục trên thế giới.
Ở châu Âu, mặc dù với sự hình thành của Liên minh Châu Âu (EU)
làm cho quá trình nhất thể hoá về kinh tế, chính trị, tiền tệ diễn ra mạnh mẽ…
nhưng xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn bùng nổ ở nhiều nơi, gây nên tình hình
mất ổn định nghiêm trọng. Điểm nóng đầu tiên phải kể đến là sự phân hoá của
Liên bang Nam Tư do sự xung đột giữa cộng đồng người Xéc-bi và người
Bô-xni-a Héc-xê-gô-vi-na với người Croát-ti-a; kế đến là phong trào ly khai
của người An-ba-ni ở Cô-xô-vô là một trong những nguyên nhân dẫn đến
cuộc chiến Cô-sô-vô nồi da nấu thịt năm 2001; cuộc xung đột dai dẳng giữa
hai quốc gia láng giềng ác-mê-ni-a và A-zéc-bai-dan cùng tranh chấp tỉnh Nago-ra-nưi Ca-ra-bắc; cuộc chiến giữa cộng đồng người theo đạo Tin lành với
cộng đồng Thiên chúa giáo ở nước Anh; tình hình tranh chấp giữa cộng đồng
người Síp (gốc Thổ-nhĩ-kỳ) với người Síp gốc Hy-lạp và mới đây nhất là cuộc
xung đột chính trị giữa Liên bang Nga với Cộng hoà Gru-zia về vấn đề Ápkha-zia và Nam Ô-sét-tia.
Ở châu Á, điển hình như phong trào đòi độc lập của người Cuốc ở I-rắc
và Thổ-nhĩ-kỳ đòi thành lập nhà nước Kuốc-đi-xtăng; phong trào ly khai đòi
độc lập ở Tây Tạng ở Trung quốc do Đạt-lai Lạt-ma theo đuổi từ nhiều năm
qua. Khu vực tây Nam Á vẫn nóng lên với cuộc xung đột kéo dài giữa ấn-độ
và Pa-ki-xtan ở khu vực Ca-sơ-mia. Bên cạnh đó cuộc chiến đòi ly khai của
phong trào “Những con hổ giải phóng Ta-min” ở Xri-lan-ca, phong trào đòi
độc lập ở Đông Ti-mo những năm qua và A-xê ở In-đô-nê-xi-a hiện nay; đặc
biệt xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin kéo dài hàng chục năm qua đã giết
2

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.21.


2


hại hàng ngàn người dân vô tội và tạo sự bất ổn nghiêm trong ở khu vực Tây
Á… đó là những vấn đề phức tạp và nhạy cảm ở khu vực châu Á trước đây
cũng như hiện nay.
Ở châu Phi, các cuộc xung đột đẫm máu giữa các bộ tộc người Hu-tu
và người Tút-xi ở U-gan-đa, phong trào Hồi giáo cực đoan ở An-giê-ri, Xuđăng và cuộc chiến tranh giữa Ê-rơ-tê-ri-a và Ê-ti-ô-pi. Còn ở châu Mỹ và
châu Đại dương luôn xảy ra xung đột giữa người gốc Âu với thổ dân bản địa;
vấn đề phân biệt chủng tộc giữa người da đen với người da trắng ở Hoa-kỳ;
xung đột giữa cộng đồng người nói tiếng Pháp với người nói tiếng Anh ở Cana-đa… đã và đang tạo nên nhiều bất ổn cho các châu lục này.
Từ những sự kiện trên cho thấy rằng vấn đề dân tộc, sắc tộc thực sự là
vấn đề phức tạp, căng thẳng gây nên cho các quốc gia những hậu quả hết sức
nặng nề cả về kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội và môi trường; đe doạ hoà
bình, an ninh các khu vực và thế giới. Người ta tính rằng cho đến những năm
cuối của thế kỷ XX, lịch sử loài người đã từng phải hứng chịu khoảng 15.000
cuộc chiến tranh lớn nhỏ, làm khoảng 3 tỷ 650 triệu người chết. Theo bản báo
cáo: “Những cuộc xung đột vũ trang cuối thời kỳ chiến tranh lạnh 1989-1992”
của Viện nghiên cứu quốc tế về hòa bình ở Oslo (Na uy), số lượng các cuộc
chiến tranh nhỏ tăng lên tới 82 cuộc, liên quan ít nhất tới 64 quốc gia, đặc biệt
đẫm máu là ở châu Âu, nơi không có chiến sự kể từ 40 năm trước. Các cuộc
xung đột dân tộc năm 1992 làm chết 70.000 người và năm 1995 con số người
chết không dưới 100.000 người. Cũng theo thông tin của Viện này, năm 1989
có 36 cuộc, năm 1994 có 32 cuộc và năm 1995 có 30 cuộc xung đột xảy ra
trong 25 vùng trên thế giới. Theo một thống kê khác, chỉ trong vong 4 năm
sau chiến tranh lạnh (Tính đến tháng 10 - 1995), trên toàn thế giới có 38 cuộc

3



xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ làm 1,5 triệu người chết, 2,8 người bị
thương và tàn phế, 27 triệu người phải tị nạn chiến tranh.
Mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau: cả nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài;
có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, trong đó nổi lên là do một số
nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Những nguyên nhân do lịch sử để lại.
Đó là những mâu thuẫn từ xa xưa để lại, tích tụ hàng thế kỷ trước đây
và nay khi có điều kiện, những mâu thuẫn này lại trỗi dậy, nếu không phát
hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời, rất dễ bùng phát thành xung đột. Mọi
hiềm khích, nhìn chung đều nẩy sinh từ các vấn đề nhạy cảm như sắc tộc, tôn
giáo, tư tưởng, tâm lý, lợi ích kinh tế, lãnh thổ… Các quan hệ trên các lĩnh
vực đó in sâu vào ý thức, tiềm thức của cư dân cộng đồng. Mọi sự động chạm
đến quyền và lợi ích dân tộc, mọi hành động áp bức, xâm lược đều để lại ký
ức sâu sắc trong nhân dân. Vì vậy, các hiềm khích và mâu thuẫn dân tộc trong
lịch sử luôn chất chứa, âm ỉ và khi gặp sự kích động hay có điều kiện thì bùng
phát thành xung đột.
Thứ hai: Do âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực cực đoan trong các dân tộc.
Chủ nghĩa đế quốc đã, đang và sẽ vẫn là nguyên nhân trực tiếp và chủ
yếu gây ra xung đột dân tộc và sắc tộc. Chúng luôn rêu rao đấu tranh cho hòa
bình, nhưng thực chất bên trong lại xúi giục, tiếp tay chia rẽ các dân tộc, hoặc
tìm cách gây mất ổn định để dễ bề thống trị, xâm lược. Hiện nay, chủ nghĩa
đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng mâu thuẫn và xung đột dân
tộc, đã kích động chiến tranh để kiềm chế sự phát triển của các dân tộc, xé
nhỏ và làm suy yếu các nước không nằm trong quỹ đạo của chúng. Chúng ra

4



sức lợi dụng tình hình đó để bán vũ khí, thử nghiệm vũ khí mới, vừa để thực
thi áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, chống phá lực lượng cách mạng, tiến bộ,
lập chính phủ thân Mỹ như cuộc chiến ở Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, Cô-sô-vô, LiBăng… Đối với một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, chủ nghĩa đế quốc,
đứng đầu là đế quốc Mỹ coi vấn đề dân tộc là mũi tiến công chiến lược, bằng
chiến lược “Diễn biến hòa bình”, tìm mọi cách liên hệ và nuôi dưỡng những
phần tử cực đoan trong các nước XHCN, nhằm chia rẽ đoàn kết dân tộc, kích
động ly khai, đòi “tự trị” để làm suy yếu, đi đến xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã
hội chủ nghĩa trên thế giới.
Thứ ba: Do sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã tác động lớn đến
vấn đề dân tộc. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thoái trào, lực
lượng dân chủ và tiến bộ trên thế giới mất đi chỗ dựa vững chắc. Các lực
lượng tiến bộ ở các dân tộc hoang mang, mất phương hướng chính trị, tình
đoàn kết quốc tế suy giảm, dẫn đến suy yếu. Đồng thời, các dân tộc thuộc thế
giới thứ ba gặp nhiều khó khăn hơn trước, họ thiếu đi sự giúp đỡ trực tiếp của
Liên Xô của hệ thống XHCN thế giới, thiếu đi trụ cột giữ vững hòa bình, an
ninh thế giới. Các trào lưu dân tộc chủ nghĩa thừa dịp bùng phát mạnh mẽ
khắp nơi.
Thứ tư: Do sai lầm trong giải quyết vấn đề dân tộc, sắc tộc của các
giai cấp cầm quyền.
Có thể nói, sự bùng nổ xung đột, nội chiến dân tộc có nguyên nhân lớn
từ các chính sách sai lầm của Đảng và nhà nước cầm quyền, điều đó đã được
thực tế chứng minh. Ở các quốc gia đa dân tộc giai cấp cầm quyền và nhà
nước đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong giải quyết mối quan hệ dân tộc
(tộc người), cũng như giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, nhiều quốc gia,

5


thực hiện đồng hóa cưỡng bức, duy trì quan hệ bất bình đẳng dân tộc, phân

biệt, chia rẽ dân tộc theo tư tưởng dân tộc sô vanh, dân tộc hẹp hòi, không
quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó bộ
máy công chức nhà nước yếu kém năng lực, quan liêu, tham nhũng, tranh
giành quyền lợi mưu cầu lợi ích cá nhân, dẫn đến đời sống nhân dân khổ cực,
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng, làm cho các dân tộc nổi dậy đấu tranh
đòi ly khai, tự trị.
Thứ năm: Do hệ quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện
đại để lại.
Ngày nay, cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại phát triển như vũ
bão, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, đồng thời cũng
làm thức tỉnh ý thức dân tộc, xu thế độc lập dân tộc tự chủ, tự cường tăng lên,
cùng với nó là các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc tìm mọi cách cản trở và
cổ vũ, kích động trào lưu ly khai. Mặt khác, do sự phát triển mạnh mẽ của
các phương tiện thông tin, các ấn phẩm qua mạng Internet đã đe dọa nghiêm
trọng bản sắc văn hóa dân tộc. Các dân tộc tìm mọi cách giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc (tộc người), ý thức dân tộc trỗi dậy và dễ bị kích động phát triển
thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đòi ly khai, phân lập.
Thứ sáu: Do sự kết hợp giữa vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo ở từng
quốc gia dân tộc.
Thực chất điều này cũng nằm trong âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa đế quốc lợi dụng vấn đề tôn giáo để gây mâu thuẫn và xung
đột dân tộc. Các cuộc xung đột dân tộc mang mầu sắc tôn giáo đều diễn ra dai
dẳng, không kém phần quyết liệt như: Bắc Ailen, trung Đông, Tây tạng
(Trung quốc). Vấn đề tôn giáo không chỉ ở một quốc gia mà còn mang tính
khu vực và quốc tế, như: vấn đề đạo Hồi, đạo Thiên chúa.

6


Những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới từ trước đến nay để

lại những hậu quả hết sức to lớn. Không những chỉ ở quốc gia đó, mà còn
ảnh hưởng lớn đến hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế. Trong vài thập kỷ
vừa qua, hàng trăm vạn người đã chết vì chiến tranh xung đột, hàng triệu
dân thường phải chạy tị nạn khắp nơi trong cảnh đói rét khốn cùng, hàng
chục vạn phụ nữ, trẻ em chết đói. Nhất là các cuộc xung đột ở châu Phi, Ban
căng, Áp-ga-ni-xtan, đông Timo, Xéc-bi-a, Cô-sô-vô… Xung đột và nội
chiến gây ra hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội, sự tàn phá các cơ sở kinh tế,
văn hóa, tiềm lực quốc gia bị suy kiệt. Các dân tộc anh em bị đẩy vào cảnh
huynh đệ tương tàn, thù hằn sâu sắc. Quan hệ tộc người, dân tộc bị rạn nứt,
gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác xung đột dân tộc, sắc tộc phá vỡ sự đoàn
kết quốc tế, làm suy yếu lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo
điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động,
chia rẽ. Các nước đế quốc lợi dụng sự tương tàn của thời kỳ hậu chiến tranh ở
các nước, các khu vực để bòn rút tài nguyên, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu
mới. Nội chiến và xung đột dân tộc, sắc tộc còn để lại hậu quả nghiêm trọng
về môi trường trước mắt cũng như lâu dài. Hàng ngàn tấn hóa chất độc hại,
trăm ngàn tấn vũ khí trút xuống trái đất, điều đó không phải ngay một lúc có
thể khắc phục được, mà phải chi hàng chục tỷ đôla trong thời gian dài mới
giải quyết triệt để.
Tóm lại, còn chủ nghĩa đế quốc thì nguy cơ xung đột dân tộc, sắc tộc
còn hiện hữu, sự bất đồng về lợi ích và tư tưởng bá chủ, áp đặt giá trị của chủ
nghĩa đế quốc lên các dân tộc là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến xung đột
và nội chiến. Xung đột dân tộc, sắc tộc để lại hậu quả to lớn cả về người và
của cho nhân loại. Sức tàn phá của nó nặng nề trên tất cả các lĩnh vực: Kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Vì vậy chỉ có đứng vững trên lập
trường GCCN, xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, vì sự

7



tiến bộ của nhân loại, mới có thể giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn và xung
đột dân tộc trên thế giới, xây dựng một thế giới văn minh tiến bộ.

2. QUAN HỆ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

* Khái quát tình hình dân tộc Việt Nam:
Theo truyền thuyết, các dân tộc (các tộc người) trong đại gia đình dân
tộc Việt Nam, cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, được nở ra từ
một bọc trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở
mang xây dựng non sông, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay
và biển Đông bốn mùa sóng vỗ. Bờ cõi dân tộc Việt Nam liền một dải từ
chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây)
đến quần đảo Trường Sa (Đông). Các tộc người trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, có truyền thống yêu
nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội,
trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục
địa với Đông Nam á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hoá
trong khu vực. Ở đây có đủ 3 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á, ngữ hệ
Nam đảo và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8
nhóm ngôn ngữ khác nhau. Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh,
Mường, Thổ. Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng,
Sán Chay, Tày, Thái. Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba na, Brâu, BruVân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ

8


mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn. Nhóm Kađai có 4
dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo. Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là:

Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai. Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái,
Sán dìu. Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau,
song do các tộc người sống xen kẽ với nhau nên một tộc người thường biết
tiếng của các tộc người khác có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với
nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các tộc người vẫn lưu giữ được bản
sắc văn hoá riêng của mình. Trong số 54 tộc người, có những tộc người vốn
sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có những
tộc người từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết
sức thuận lợi nên nhiều tộc người ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên
nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống,
rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho
đến trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn
chuyển đến nước ta sau năm 1945, đây là những đợt di cư lẻ tẻ, do nhiều
nguyên do khác nhau. Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các
tộc người rất không đều nhau, có tộc người có số dân trên một triệu người
như Tày, Thái... nhưng cũng có tộc người chỉ có vài trăm người như Pu-Péo,
Rơ-măm, Brâu... Trong đó, tộc người Kinh là tộc người đa số, chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn, là lực lượng đoàn
kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu dài dựng nước
và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát triển cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
* Quan hệ dân tộc ở Việt Nam:

9


Việt Nam, với đặc thù là một quốc gia đa tộc người. Quá trình phát
triển cùng với các tộc người bản địa sinh sống làm ăn, thì một số tộc người từ
các vùng khác di cư đến và định cư ở Việt Nam, cùng với nhiều lý do khác

nên quan hệ dân tộc ở Việt Nam, cũng có những mâu thuẫn nhất định, nhưng
ở Việt Nam chưa từng xảy ra chiến tranh, hay xung đột giữa các dân tộc.
Tuy số dân và trình độ phát triển mọi mặt, có sự chênh lệch đáng kể,
nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em một nhà, thương yêu đùm bọc lẫn
nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc
khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá,
thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có tình trạng dân tộc ít người
chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước,
các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp,
tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn chung các dân tộc trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam đều bình đẳng, đoàn kết kể cả trong lịch sử trước đây cũng như
hiện nay. Hay nói cách khác xu hướng chủ đạo của quan hệ dân tộc ở nước ta
là bình đẳng, hợp tác và hòa hợp.
Sự đoàn kết gắn bó của các tộc người trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam xuất phát từ một số lý do cơ bản sau:
- Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc có chung cội
nguồn. Nói về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết như
truyện "Quả bầu mẹ" giải thích các dân tộc có chung nguồn gốc; truyện “Đôi
chim” đẻ ra hàng trăm, hàng ngàn trứng nở ra người Kinh, người Mường,

10


người Thái, người Khơ-mú; truyện của dân tộc Ba-na, Ê-đê kể rằng người
Kinh, người Thượng là anh em một nhà; đặc biệt là truyện Lạc Long Quân
lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra trăm người con, một nửa theo

cha xuống biển trở thành người Kinh, một nửa theo mẹ lên núi thành các dân
tộc thiểu số. Vua Hùng được coi là Tổ tiên chung của cả nước. Còn các tài
liệu lịch sử cũng cho thấy, người Việt, người Mường là con cháu của người
Lạc Việt, là chủ nhân của nền văn hoá Đông Sơn. Theo nhiều nhà nghiên
cứu, việc tách nhóm Việt - Mường thành các dân tộc là một quá trình lâu
dài, bắt đầu vào cuối thiên niên kỷ I, đầu thiên niên kỷ II sau công nguyên.
Người Tày, Thái, Nùng là những bộ phận của người Tày, Thái cổ, trong quá
trình lịch sử đã tách thành các dân tộc Tày, Thái, Nùng. Người H'mông, Dao
xưa kia có cùng nguồn gốc, sau tách thành các dân tộc H'mông, Dao và Pà
Thẻn. Cũng có những dân tộc khác nhau về nguồn gốc lịch sử như các dân
tộc La Hủ, Lô Lô, Vân Kiều, Sán Dìu... Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch
sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với
nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một nguồn gốc sinh ra, có sự khác
nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là người trong một nước, con
trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn kề vai
sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Mặt khác, nước ta ở khu
vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng rất khắc nghiệt,
hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt. Do yêu cầu tồn tại và phát triển ở một
nước nông nghiệp, trồng lúa nước là chính, cư dân ở Việt Nam phải liên kết
nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây dựng các hệ
thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm bảo phát triển sản xuất.
Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó, giúp đỡ nhau trong
lao động sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn
đạo đức. Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính

11


toàn cầu, càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức
phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn

hán gây ra. Cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát
huy sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại
gia đình các dân tộc Việt Nam càng thêm gắn bó chặt chẽ. Cùng với lịch sử
chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc ngoại xâm vô
cùng oanh liệt. Đất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao thông
Bắc - Nam, Đông - Tây của khu vực châu Á - Thái bình dương, có tài nguồn
nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý - chính trị, địa – quân sự có
tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm lược luôn nhòm ngó
và tìm cách thôn tính nước ta. Vì vậy một trong những đặc điểm nổi bật của
lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó
có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu
có và hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt
Nam luôn sát cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh
thắng quân xâm lược. Đoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền
thống nổi bật nhất của các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn
năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát huy cao độ, là một trong
những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Những
thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào cho thấy
khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là
động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của
cách mạng nước ta ngày càng được tăng cường.
- Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau.

12


Ở một số vùng nhất định có những tộc người cư trú tương đối tập trung.
Song nhìn chung các tộc người ở nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ
riêng biệt như một số nước trên thế giới. Địa bàn cư trú của người Kinh chủ

yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du; còn các tộc người thiểu số cư trú chủ
yếu ở các vùng miền núi và vùng cao, một số tộc người như Khơ me, Hoa,
một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các tộc người thiểu số có sự tập
trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà
xen kẽ với các tộc người khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và các bản
mường. Cách đây chưa lâu (khoảng bốn, năm chục năm), Tây Nguyên nói
chung, Đắc Lắc nói riêng, hầu hết cư dân vẫn là người bản địa, mỗi tộc người
đều có khu vực cư trú riêng, ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng
còn rõ ràng thì nay tình hình gần đây đã khác xa và xu hướng này còn tiếp tục
gia tăng. Hiện nay tộc người Kinh cư trú ở Đắc Lắc chiếm tỷ lệ khá lớn; cùng
với người Kinh, các tộc người thiểu số miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào
khu vực này ( kể cả di chuyển theo kế hoạch và không kế hoạch) với số lượng
khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một tộc
người cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 tộc người cư trú như Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm đồng... Phần lớn các huyện có từ
5 tộc người trở lên cư trú. Nhiều xã, bản có tới 3-4 tộc người cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các tộc người ở nước ta, tạo điều kiện
để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau giữa các tộc
người. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các tộc người chủ yếu dẫn tới
sự giao lưu kinh tế - văn hoá cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống
gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các tộc người khác nhau
ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân
tộc anh em. Cùng với đó thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của Đảng,
Nhà nước làm cho các tộc người ngày càng hiểu nhau hơn, thông cảm nhau

13


hơn, xóa đi những tự ti mặc cảm hay những hiềm khích có nguyên nhân từ
quá khứ, để cùng đoàn kết làm ăn, sinh sống và xây dựng xã hội mới.

Mặc dù đoàn kết là cơ bản và trở thành truyền thống quý báu của dân
tộc ta, nhưng có nơi, có lúc vẫn xảy ra những va chạm trong quan hệ tộc
người, vẫn còn những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc; hoặc do sự
khác nhau về phong tục tập quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi
ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa những người thuộc các dân
tộc cùng sống trên một địa bàn. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trước
tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, trước các hiện tượng nhận thức và
thực hiện không đúng một số chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở
một số địa phương, như chính sách đất đai, chính sách xây dựng và phát triển
các vùng kinh tế mới hay một số chính sách xã hội khác…đẫn đến nảy sinh
một số mâu thẫn giữa các tộc người nhất là giữa người Kinh với một số đồng
bào thiểu số, hay tình trạng phân hóa giàu nghèo có xu hướng tăng lên…
Cùng với đó các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động đòi ly khai, kích
động chia rẽ dân tộc, như các vụ ở Tây nguyên những năm qua là một điển
hình. Vì vậy trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay đã bắt đầu xuất hiện
một số xung đột cục bộ, xuất hiện tư tưởng đòi ly khai, rõ nhất là ở tộc người
Khơ me Tây nam bộ, hoặc của một số những kẻ phản động, một số người nhẹ
dạ bị lôi kéo trong đồng bào người Thượng ở Tây nguyên… Do đó việc tăng
cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên và
cấp bách không chỉ của Đảng, Nhà nước mà của cả hệ thống chính trị và của
mỗi người dân Việt Nam.
* Quan điểm, chính sách dân tộc của đảng và Nhà nước ta hiện nay.

14


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Vấn
đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng ở nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt nam bình đẳng,

đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ cùng nhau thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN”(3). Để thực hiện tốt quan điểm của Đảng, những năm tới cần tập trung
giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau:
- Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm
nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng
nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các tộc người.
- Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo, làm tốt công tác định canh, định cư và
xây dựng vùng kinh tế mới; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc
phòng - an ninh.
- Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu
trong các dân tộc thiểu số.
- Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức
người dân tộc thiểu số.
- Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước,
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế cho đồng bào dân tộc.
- Chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc;
nghiêm cấm việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr
121.
3

15


trái với pháp luật và trái với chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân
dân, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.

- Kiên quyết đấu tranh và kịp thời đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

16



×