Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH XUNG đột dân tộc, sắc tộc TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY, ý NGHĨA đối với CÔNG tác dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.42 KB, 24 trang )

1

XUNG ĐỘT DÂN TỘC SẮC TỘC TRÊN THẾ GIỚI,
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN TỘC
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Bước sang thiên niên kỷ mới, thế giới đang đứng trước những vấn đề
hết sức phức tạp, đến nay thế giới chưa có một ngày im tiếng súng. Sau khi
trật tự thế giới hai cực bị đổ vỡ, thế giới đang diễn ra những quá trình: hợp
tác - đấu tranh - xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau để thiết lập một trật tự thế
giới mới - trật tự theo hướng đa cực, dẫn đến cục diện thế giới có nhiều vấn
đề biến đổi phức tạp, xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới diễn ra mang tính
toàn cầu, đe dọa nghiêm trọng độc lập dân tộc, hòa bình, ổn định và an ninh
quốc tế. Đánh giá tình hình thế giới hiện nay, Đảng ta khẳng định: “Trong
những năm tới, trên TGT, hoà bình, hợp tác là xu thế lớn … nhưng vẫn tiềm
ẩn những yếu tố bất trắc khó lường … những cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra
ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp” 1. Vì vậy nghiên cứu vấn đề
xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Quan hệ daõn toọc (bao goàm quan heọ giửừa caực quoỏc gia daõn
toọc vaứ quan heọ toọc ngửụứi trong moọt quoỏc gia daõn tộc). Quan heọ
saộc toọc laứ quan heọ giửừa caực coọng ủoàng ngửụứi coự sửù khaực bieọt
naứo ủoự veà vaờn hoaự, ngoõn ngửừ, toõn giaựo, toọc ngửụứi, chuỷng toọc.
Ngaứy nay, quan heọ daõn toọc, saộc toọc raỏt nhậy caỷm vaứ heỏt sửực
phửực taùp, bụỷi vỡ quan heọ naứy taực ủoọng tụựi taõm lyự, yự thửực, lụùi
ớch vaứ baỷn saộc vaờn hoaự, cuứng vụựi nhửừng sửù khaực bieọt cuỷa caực
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr.21.



2

toọc ngửụứi. Caực quan hệ dân tộc, sắc tộc thường gắn với các vấn
đề do lịch sử để lại, đã in sâu vào tâm lý, ý thức của tộc người nên rất dễ bị
kích động bùng nổ. Quan hệ dân tộc, sắc tộc còn tồn tại lâu dài, thậm chí còn
tồn tại lâu hơn quan hệ giai cấp và nhiều khi nó tồn tại đan xen giữa đấu
tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp nên tính chất vơ cùng gay gắt và quyết
liệt. Những năm gần đây, quan hệ dân tộc trên thế giới rất nóng bỏng, vừa là
vấn đề mang tính tồn cầu, vừa là vấn đề xã hội phức tạp, nhức nhối của
nhiều quốc gia, khu vực và trên tồn thế giới. Quan hệ dân tộc, sắc tộc đã và
đang bùng nổ thành các cuộc xung đột, chiến tranh ở những quy mơ, cường
độ khác nhau, tạo ra các điểm nóng, gây nên tình hình mất ổn định, đe doạ
hồ bình, an ninh khu vực và quốc tế. Có thể nói rằng hiện nay mâu thuẫn và
xung đột dân tộc, sắc tộc đang diễn ra ở khắp các châu lục.
Ở châu Âu, mặc dù đang diễn ra q trình hình thành và phát triển của
Liên minh Châu Âu (EU) với sự nhất thể hố về kinh tế, chính trị, tiền tệ,…
nhưng xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn bùng nổ ở nhiều nơi gây nên tình hình
mất ổn định nghiêm trọng. Điểm nóng đầu tiên phải kể đến là sự phân hố của
Liên bang Nam Tư do sự xung đột giữa cộng đồng người Xéc-bi và người
Bơ-xni-a Héc-xê-gơ-vi-na với người Crốt-ti-a; kế đến là phong trào ly khai
của người An-ba-ni ở Cơ-xơ-vơ; cuộc xung đợt dai dẳng giữa hai quốc gia
láng giềng Ác-mê-ni-a và A-zéc-bai-dan cùng tranh chấp tỉnh Na-go-ra-nưi
Ca-ra-bắc; cuộc chiến giữa cộng đồng người theo đạo Tin lành với cộng đồng
Thiên chua giáo ở nước Anh; tình hình tranh chấp giữa cộng đồng người Síp
(gốc Thổ-nhĩ-kỳ) với người Síp gốc Hy-lạp và mới đây nhất là cuộc xung đột
chính trị giữa Liên bang Nga với Cộng hồ Gru-di-a.
Ở Châu Á, điển hình hiện nay là xung đột giữa chủ nghĩa ly khia Trêni-a đòi tách ra khỏi Liên bang Nga; phong trào đòi độc lập của người Cuốc ở
I-rắc và Thổ-nhĩ-kỳ đòi thành lập nhà nước Kuốc-đi-xtăng; xung đột giữa I-



3

xra-en và Pa-le-stin; phong trào ly khai đòi độc lập ở Tây Tạng do Đạt-lai
Lạt-ma theo đuổi từ nhiều năm qua. Khu vực tây Nam Á vẫn nóng lên với
cuộc xung đột kéo dài giữa Ấn-độ và Pa-ki-xtan ở khu vực Ca-sơ-mia. Bên
cạnh đó cuộc chiến đòi ly khai của phong trào “Những con hổ giải phóng Tamin” ở Xri-lan-ca, phong trào đòi độc lập ở Đông Ti-mo và A-xê ở In-đô-nêxi-a, đó là những vấn đề phức tạp và nhậy cảm ở khu vực Châu Á hiện nay.
Ở châu Phi, các cuộc xung đột đẫm máu giữa các bộ tộc người Hu-tu
và người Tút-xi ở U-gan-đa, phong trào Hồi giáo cực đoan ở An-giê-ri, Xuđăng và cuộc chiến tranh giữa Ê-rơ-tê-ri-a và Ê-ti-ô-pi. Còn ở châu Mỹ và
châu Đại dương luôn xảy ra xung đột giữa người gốc Âu với thổ dân bản địa;
vấn đề phân biệt chủng tộc giữa người da đen với người da trắng ở Hoa-kỳ;
xung đột giữa cộng đồng người nói tiếng Pháp với người nói tiếng Anh ở Cana-đa.
Từ những sự kiện trên cho thấy rằng vấn đề dân tộc, sắc tộc thực sự là
vấn đề phức tạp, căng thẳng gây nên cho các quốc gia những hậu quả hết sức
nặng nề cả về kinh tế, chính trị, văn hoá-xa hội và môi trường; đe doạ hoà
bình, an ninh các khu vực và thế giới. Các cuộc xung đột, chiến tranh dân tộc,
sắc tộc gây nên sự chia rẽ làm suy yếu các lực lượng cách mạng và tiến bộ, có
lợi cho chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế. Thông qua các cuộc
xung đột, chiến tranh ở các khu vực, các nước đế quốc được dịp bán vũ khí,
bòn rút tài nguyên các nước để thu lợi nhuận. Lợi dung tình hình phức tạp,
chúng ra sức kích động, chia rẽ làm suy yếu các nước đang phát triển, các lực
lượng tiến bộ; tìm cách gây ảnh hưởng hoặc quay trở lại các khu vực, thực
hiện ách thống trị kiểu mới đối với các dân tộc.
Hính thức các cuộc xung đột sắc tộc, dân tộc rất đa dạng; xung đột mâu
thuẫn quyền lực chính trị giữa các phe phái; xung đột về tranh chấp lãnh thổ,
biên giới giữa các dân tộc; đối đầu, cạnh tranh quyết liệt giữa các tôn giáo


4


hoặc giữa các giáo phái; tranh chấp về quyền lợi kinh tế, quản lý khai thác tài
nguyên; xung đột do phân biệt chủng tộc.
Xung đột dân tộc, sắc tộc có nguyên nhân sâu xa từ việc giải quyết
chưa thỏa đáng quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc, thực chất là áp
bức dân tộc, là quan hệ giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc.
Thế giới hiện nay có khoảng hơn 200 quốc gia thì có đến trên190 quốc
gia đa dân tộc, sắc tộc với khoảng 10000 tộc người, nói 3000 ngôn ngữ khác
nhau. Chính vì vậy, quan hệ dân tộc, sắc tộc mang tính phổ quát trên thế giới.
Mâu thuẫn và xung đột dân tộc, sắc tộc đang diễn ra khắp nơi trên thế giới, nổ
ra ở trên tất cả các châu lục, không phụ thuộc vào khu vực địa lý, thể chế
chính trị hay trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Xung đột diễn ra từ các nước
phát triển đến các nước nghèo nàn, lạc hậu nhất, như các nước ở châu Phi.
Xét đến cùng, mâu thuẫn và xung đột dân tộc bao giờ cũng xuất phát và mang
nội dung lợi ích của giai cấp, dân tộc. Theo sát sự vận động và tổng kết các
biến đổi trong quan hệ dân tộc - giai cấp nửa cuối thế kỷ XIX, C.Mác Ph.Ăngghen đã rút ra những kết luận có ý nghĩa hết sức quan trọng: “Hãy xóa
bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị
xóa bỏ” và “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc
không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” 1.
Theo Mác và Ăngghen, xóa bỏ áp bức dân tộc tách rời cuộc đấu tranh xóa bỏ
áp bức giai cấp chỉ là điều không tưởng. Tuy nhiên, vấn đề đấu tranh giải
phóng dân tộc chưa đặt ra như là một nhiệm vụ lớn của những năm giữa thế
kỷ XIX, một nhiệm vụ có tính độc lập tương đối luôn gắn với đấu tranh giai
cấp, nhưng không phụ thuộc một chiều vào đấu tranh giải phóng giai cấp. Bởi
“Giai cấp công nhân không có tổ quốc” và giai cấp công nhân phải “Trở thành
C.Mác-Ph.Ăngghen, toàn tập,Nxb CTQG, H.1995, tập 4, tr.624.

1


5


dân tộc” là bước khởi đầu. Do điều kiện lịch sử chưa bộc lộ rõ, các ông chỉ
làm sáng tỏ vấn đề công nhân quyết định vấn đề dân tộc, chưa thấy chiều
ngược lại, vấn đề dân tộc đối với vấn đề giai cấp, áp bức dân tộc đối với áp
bức giai cấp, đấu tranh dân tộc đối với đấu tranh giai cấp. Song, từ cuối thế kỷ
XIX, vấn đề các cường quốc tư bản áp bức bóc lột thuộc địa ngày càng gia
tăng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra cho giai cấp công nhân ở các nước đi áp
bức thấy rằng: “Hãy lấy địa vị của dân tộc đi áp bức mà nói, một dân tộc đi áp
bức dân tộc khác có thể có tự do được không?” 1. Những tư tưởng cơ bản của
Mác và Ăngghen về quan hệ giai cấp - dân tộc sau này được Lênin phát triển
một cách sâu sắc, là ngọn đuốc soi sáng các vấn đề thực tiễn của cách mạng
giải phóng dân tộc trong thời đại mới.
Đến nay mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân không
còn gói gọn trong một quốc gia dân tộc, mà mang tính toàn cầu. V.I.Lênin
khẳng định: “Những lợi ích của giai cấp công nhân và của cuộc đấu tranh của
giai cấp ấy chống chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có sự đoàn kết hoàn toàn và
sự thống nhất chặt chẽ nhất của công nhân tất cả các dân tộc, những lợi ích đó
đòi hỏi phải chống lại chính sách dân tộc chủ nghĩa của giai cấp tư sản thuộc
bất cứ quốc gia nào”1. Như vậy, mối quan hệ dân tộc - giai cấp đặt ra cần phải
được giải quyết đồng thời trong tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân,
đấu tranh giải phóng dân tộc cũng đồng nghĩa với giải phóng giai cấp và
ngược lại. Chủ nghĩa xã hội chính là việc giải phóng con người và xã hội khỏi
mọi hình thức áp bức, bóc lột và sự tha hóa. Nhưng, nói đến chủ nghĩa xã hội
không chỉ nói đến sự tồn tại của các giai cấp, áp bức và đấu tranh giai cấp, mà
còn phải đề cập đến sự tồn tại của các dân tộc, quốc gia, áp bức và đấu tranh
dân tộc. Trong cuộc đấu tranh ấy: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân
tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: đó là
1
1


Mác Ăngghen toàn tập Sđd, tr.624.
V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 25, tr.337.


6

cương lĩnh dân tộc và chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh
nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”2. Như vậy, mâu thuẫn và xung đột
dân tộc, sắc tộc trên thế giới cả trong lịch sử và sự gia tăng trong thời đại hiện
nay, xét về nguồn gốc sâu xa đều do những bất đồng về lợi ích và áp bức dân
tộc.
Ngày nay, mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc có rất nhiều nguyên nhân khác
nhau: cả nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài; có nguyên nhân trực
tiếp, nguyên nhân gián tiếp, trong đó nổi lên là do một số nguyên nhân cơ bản
sau:
Thứ nhất: Những nguyên nhân do lịch sử để lại. Đó là những mâu
thuẫn tích tụ hàng mấy thập kỷ trước đây, cũng có thể là món nợ truyền kiếp
từ xa xưa để lại. Mọi hiềm khích đều nẩy sinh từ các vấn đề nhạy cảm như
sắc tộc, tôn giáo, tư tưởng, tâm lý, lợi ích kinh tế … Các quan hệ trên các lĩnh
vực đó in sâu vào ý thức, tiềm thức của cư dân cộng đồng. Mọi sự động chạm
đến quyền và lợi ích dân tộc, mọi hành động áp bức, xâm lược đều để lại ký
ức sâu sắc trong nhân dân. Vì vậy, các hiềm khích và mâu thuẫn dân tộc trong
lịch sử luôn chất chứa, âm ỉ và khi gặp sự kích động hay có điều kiện thì bùng
phát thành xung đột.
Thứ hai: Do âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc. Chủ
nghĩa đế quốc là những kẻ “lái súng”, không ít trường hợp đã “đổ thêm dầu
vào lửa”, để bán thêm được nhiều vũ khí. Chủ nghĩa đế quốc đã, đang và sẽ là
nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu gây ra xung đột dân tộc và sắc tộc. Ngoài
thì rêu rao “hòa bình”, nhưng thực chất bên trong lại xúi giục, tiếp tay chia rẽ
các dân tộc, hoặc tìm cách gây mất ổn định để dễ bề thống trị, xâm lược và

kiếm chác. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ra sức lợi
dụng mâu thuẫn và xung đột dân tộc, đã kích động chiến tranh để kiềm chế sự
2

V.I. Lênin toàn tập, Sđd, tr. 375.


7

phát triển của các dân tộc, xé nhỏ và làm suy yếu các nước không nằm trong
quỹ đạo của Mỹ. Chúng ra sức lợi dụng tình hình đó để bán vũ khí, thử vũ khí
mới, vừa để thực thi áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, chống phá lực lượng cách
mạng, tiến bộ, lập chính phủ thân Mỹ như cuộc chiến ở Ápganixtan, I.rắc,
Côsôvô, Li Băng … Đối với một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại đế quốc
Mỹ coi vấn đề dân tộc là mũi tiến công chiến lược, bằng chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, tìm mọi cách chia rẽ đoàn kết dân tộc, kích động ly khai, “tự
trị” để làm suy yếu, đi đến xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa trên thế
giới.
Thứ ba: Do sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã tác động lớn đến vấn đề
dân tộc. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thoái trào, lực lượng dân
chủ và tiến bộ trên thế giới mất đi chỗ dựa vững chắc. Các lực lượng tiến bộ ở
các dân tộc hoang mang, mất phương hướng chính trị, tình đoàn kết quốc tế
suy giảm, dẫn đến suy yếu. Đồng thời, các dân tộc thuộc thế giới thứ ba gặp
nhiều khó khăn hơn trước, họ thiếu đi sự giúp đỡ trực tiếp của Liên Xô, thiếu
đi trụ cột giữ vững hòa bình, an ninh thế giới. Các trào lưu dân tộc chủ nghĩa
thừa dịp bùng phát mạnh mẽ khắp nơi.
Thứ tư: Do sai lầm trong giải quyết vấn đề dân tộc, sắc tộc của các
giai cấp cầm quyền. Có thể nói, sự bùng nổ xung đột, nội chiến dân tộc có
nguyên nhân lớn từ các chính sách sai lầm của Đảng và nhà nước cầm quyền,

điều đó đã được thực tế chứng minh. Ở các quốc gia đa dân tộc giai cấp cầm
quyền và nhà nước đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong giải quyết mối
quan hệ dân tộc (tộc người), cũng như giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc,
nhiều quốc gia, thực hiện đồng hóa cưỡng bức, duy trì quan hệ bất bình đẳng
dân tộc, phân biệt, chia rẽ dân tộc theo tư tưởng dân tộc sô vanh, dân tộc hẹp
hòi, không quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Bên


8

cạnh đó bộ máy công chức nhà nước yếu kém năng lực, quan liêu, tham
nhũng, tranh giành quyền lợi mưu cầu lợi ích cá nhân, dẫn đến đời sống nhân
dân khổ cực, kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng, làm cho các dân tộc nổi
dậy đấu tranh đòi ly khai, tự trị.
Thứ năm: Do hệ quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện
đại để lại. Ngày nay, cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại phát triển như
vũ bão, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa, đồng thời
làm thức tỉnh ý thức dân tộc, xu thế độc lập dân tộc tự chủ, tự cường tăng lên,
cùng với nó là các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc tìm mọi cách cản trở và
cổ vũ, kích động trào lưu ly khai. Mặt khác, do sự phát triển mạnh mẽ của
các phương tiện thông tin, các ấn phẩm qua mạng Internet đã đe dọa nghiêm
trọng bản sắc văn hóa dân tộc. Các dân tộc tìm mọi cách giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc (tộc người), ý thức dân tộc trỗi dậy và dễ bị kích động phát triển
thành chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đòi ly khai, phân lập.
Thứ sáu: Do sự kết hợp giữa vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo ở từng
quốc gia dân tộc. Thực chất điều này cũng nằm trong âm mưu thủ đoạn của
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa đế quốc lợi dụng vấn đề tôn giáo để gây mâu
thuẫn và xung đột dân tộc. Các cuộc xung đột dân tộc mang mầu sắc tôn giáo
đều diễn ra dai dẳng, không kém phần quyết liệt như: Bắc Ailen, trung Đông,
Tây tạng (Trung quốc). Vấn đề tôn giáo không chỉ ở một quốc gia mà còn

mang tính khu vực và quốc tế, như: vấn đề đạo Hồi, đạo Thiên chúa.
Những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới từ trước đến nay để
lại những hậu quả hết sức to lớn. Không những chỉ ở quốc gia đó, mà còn ảnh
hưởng lớn đến hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế. Trong vài thập kỷ vừa
qua, hàng trăm vạn người đã chết vì chiến tranh xung đột, hàng triệu dân
thường phải chạy tị nạn khắp nơi trong cảnh đói rét khốn cùng, hàng chục vạn
phụ nữ, trẻ em chết đói. Nhất là các cuộc xung đột ở châu Phi, Ban căng,


9

Ápganixtan, đông Timo, Xécbia, Côsôvô … Xung đột và nội chiến gây ra hậu
quả nặng nề về kinh tế - xã hội, sự tàn phá các cơ sở kinh tế, văn hóa, tiềm lực
quốc gia bị suy kiệt. Các dân tộc anh em bị đẩy vào cảnh huynh đệ tương tàn,
thù hằn sâu sắc. Quan hệ tộc người, dân tộc bị rạn nứt, gây hậu quả nghiêm
trọng. Mặt khác xung đột dân tộc, sắc tộc phá vỡ sự đoàn kết quốc tế, làm suy
yếu lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho
các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động, chia rẽ, dung túng. Các
nước đế quốc lợi dụng lúc tương tàn của chiến tranh để bòn rút tài nguyên, áp
đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Nội chiến và xung đột dân tộc, sắc tộc còn
để lại hậu quả nghiêm trọng về môi trường trước mắt cũng như lâu dài. Hàng
ngàn tấn hóa chất độc hại, trăm ngàn tấn vũ khí trút xuống trái đất, điều đó
không phải ngay một lúc có thể khắc phục được, mà phải chi hàng chục tỷ
đôla trong thời gian dài mới giải quyết triệt để.
Tóm lại, còn chủ nghĩa đế quốc thì nguy cơ xung đột dân tộc, sắc tộc
còn hiện hữu, sự bất đồng về lợi ích và tư tưởng bá chủ, áp đặt giá trị của chủ
nghĩa đế quốc lên các dân tộc là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến xung đột
và nội chiến. Xung đột dân tộc, sắc tộc để lại hậu quả to lớn cả về người và
của cho nhân loại. Sức tàn phá của nó nặng nề trên tất cả các lĩnh vực: Kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường.

Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, hạn chế và đi đến xóa bỏ được những
hận thù, xung đột dân tộc và sắc tộc, điều quan trọng và cấp bách là phải vận
dụng đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, trong
đó cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là: Mỗi dân tộc đều có quyền tồn tại và phát triển. Quyền đó phải
được cộng đồng quốc tế công nhận, trong mỗi quốc gia đa dân tộc, nhà nước
phải thừa nhận quyền các tộc người, tránh đồng hóa cưỡng bức, hòa tan tộc
người nhỏ vào cộng đồng lớn.


10

Hai là: Mỗi dân tộc và tộc người đều có quyền bình đẳng và quyền
bình đẳng phải được công nhận trên thực tế. Không cho phép dân tộc này là
thượng đẳng, đứng trên dân tộc khác, dân tộc khác là hạ đẳng, nô lệ. Nguyên
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói: Trong thời đại ngày nay con sông không
phụ dài hay ngắn, quả núi không phụ cao hay thấp miễn là có tên. Với cái lẽ
bình thường ấy chúng ta tôn trọng và quý mến mọi dân tộc dù nhỏ hay lớn,
giàu hay nghèo, mạnh hay yếu không có dân tộc nào là thượng đẳng dân tộc
nào là hạ đẳng.
Ba là: Đảm bảo quyền tự quyết dân tộc, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau. Quyền tự quyết bao gồm cả quyền tự do lựa chọn, quyết
định xây dựng chế độ xã hội của mình, tự quản xã hội của mình, không ai có
quyền xâm phạm.
Bốn là: Có quyền bảo lưu, gìn giữ các giá trị bản sắc văn hóa của dân
tộc, bao gồm các lĩnh vực ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, thuần phong, mỹ
tục. Đồng thời, quyền được tiếp thu những thành tựu văn hóa thế giới. Mọi
dân tộc có quyền hòa nhập với thời đại, sử dụng các thành tựu chung của loài
người.
Năm là: Có quyền kiểm soát, khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo

vệ tài nguyên và môi trường sinh thái.
Sáu là: Quyền công dân được đảm bảo bất kể nguồn gốc là dân tộc
nào. Trong một quốc gia đều có quyền bình đẳng trong mọi mặt hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội; quyền bình đẳng này phải được thể chế bằng pháp
luật.
Bảy là: Các Đảng và nhà nước cầm quyền, cần phải có đường lối,
chính sách giải quyết vấn đề dân tộc phù hợp, không ngừng xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, phải nâng cao trình độ sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất, kỹ
thuật, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các dân tộc; giải quyết tốt


11

quan hệ xã hội bằng cách thủ tiêu bóc lột, đảm bảo công bằng xã hội, xóa bỏ
tình trạng áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Đồng thời đấu tranh khắc phục chủ
nghĩa sô vanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc, tôn trọng quyền tự
quyết của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc; hợp tác phát triển trên cơ sở đảm bảo lợi
ích của tất cả các dân tộc. Không ngừng giáo dục ý thức, trách nhiệm của các
dân tộc trong cộng đồng quốc gia dân tộc, tăng cường đoàn kết với các dân
tộc khác trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, cùng chung sức xây dựng khối đoàn
kết, hòa bình, tương thân, tương ái giúp đỡ nhau tiến bộ. Đấu tranh chống các
hành động chia rẽ, gây hận thù giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt nam. Xuất phát từ thực tiễn, nước ta là một quốc gia đa tộc
người (gồm 54 tộc người) trong đó người Việt (Kinh) chiếm đa số (khoảng
87%), các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 13%. Các dân tộc (tộc người) sống
đan xen trên toàn bộ lãnh thổ cả nước, ở các xã, huyện, tỉnh từ Bắc vào Nam.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, cùng với sự phát triển của quá trình tộc
người, các quan hệ tộc người cũng hình thành và phát triển đa dạng, phức tạp.

Đặc điểm chủ yếu của quan hệ tộc người ở nước ta xuyên suốt chiều
dài lịch sử là quan hệ đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Các tộc người ở
nước ta, không phân biệt miền núi hay miền xuôi, đa số hay thiểu số, đã gắn
bó lâu dài, đồng cam cộng khổ lao động sản xuất, chiến đấu để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Đặc biệt từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, có chế độ xã hội chủ nghĩa, truyền thống và sức mạnh dân tộc Việt Nam
đã được phát huy cao độ, làm cho dân tộc ta giành được những thắng lợi vẻ
vang. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, truyền thống quy báu và sức mạnh Việt Nam đang là một động lực tinh
thần to lớn để phát huy nội lực dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước


12

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” vững bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Truyền thống yêu nước, đoàn kết tương trợ, tương thân, tương ái của dân
tộc đã thấm sâu vào tâm hồn, nhân cách con người Việt Nam. Khi đất nước có
hoạ ngoại xâm, các tộc người không phân biệt miền xuôi hay miền ngược,
dân tộc đa số hay thiểu số đều đoàn kết chiến đấu bên nhau để giành và bảo
vệ nền độc lập dân tộc. Con người Việt Nam nhìn chung không phân biệt tộc
người, tôn giáo, địa phương đều chung sống hoà đồng, nhân hậu, nghĩa tình.
Kể cả những người Việt Nam vì nhiều lý do và hoàn cảnh lịch sử khác nhau
đã ra sinh sống ở nước ngoài, đại đa số vẫn một lòng hướng về Tổ quốc, cội
nguồn dân tộc.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, do cùng chung vận mệnh trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước nên các dân tộc ở nước ta sớm có truyền thống
đoàn kết thân ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ dân tộc (tộc người) tốt
đẹp, hầu như không có xung đột dân tộc, không có các cuộc chiến tranh sắc
tộc, chiến tranh tôn giáo đẫm máu như nhiều quốc gia khác trên thế giới; vấn
đề dân tộc cực đoan, quá khích, ly khai không mang tính phổ biến. Trong thời

kỳ thực dân Pháp xâm lược, chúng dùng chính sách ngu dân, chia để trị, dùng
người dân tộc này cai trị dân tộc khác, nên cũng có giai đoạn mất đoàn kết
giữa các dân tộc miền núi và miền xuôi. Từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo cách
mạng Việt nam thì vấn đề đoàn kết dân tộc là chiến lược của cách mạng Việt
nam. Bất kể ở giai đoạn nào, đấu tranh giành độc lập cũng như xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn chú trọng giải quyết tốt: “Chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát
triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển
chung của cộng đồng các dân tộc Việt nam”1. Trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc: Đảng ta luôn coi “đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
1

ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước TKQĐ lên CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr.16.


13

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 2. Chính
vì vậy, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, nhà nước ta đều tôn trọng lợi
ích, truyền thống,văn hóa, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc; chống mọi
biểu hiện dân tộc lớn, kỳ thị hoặc gây chia rễ dân tộc. Trong các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đều có những ưu tiên đúng mức cho các
vùng dân tộc thiểu số còn lạc hậu, bảo đảm bình đẳng trên thực tế giữa các
dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt nam.
Bên cạnh những mặt tích cực, trong những năm qua, quan hệ dân tộc ở
Việt Nam cũng còn không ít những vấn đề phức tạp mà kẻ thù có thể lợi dụng
để chống phá.

Trước hết là những vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ tộc người,
nhất là quan hệ giữa dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số khác; mặt khác,
sự chênh lệch trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa
miền núi với miền xuôi, giữa tộc người thiểu số với đa số, cũng có những
khác biệt phức tạp, tình trạng lạc hậu về kinh tế, xã hội, sự tồn tại của nhiều
tập tục cũ trong cộng đồng các tộc người cũng có thể gây ra những mâu thuẫn
lớn nếu chúng ta giải quyết không thoả đáng.
Ngoài ra, một số vấn đề phức tạp mới nảy sinh trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế-xã hội, như du canh, du cư, phá
rừng, khai thác rừng, định canh định cư, xây dựng các nông lâm trường, các
công trình kinh tế; vấn đề di dân tự do, tranh chấp về quyền lợi giữa đồng bào
đi xây dựng kinh tế mới với đồng bào địa phương.

2

Đcsvn, văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006,tr. 40.


14

Tình trạng quan liêu, tham nhũng, sa sút phẩm chất đạo đức, yếu kém
năng lực quản lý xã hội của bộ máy nhà nước và đội ngũ công chức trong hệ
thống chính trị; sự thiếu hiểu biết và tình trạng vi phạm quyền lợi, bản sắc văn
hoá, phong tục tập quán của một số cán bộ, nhân viên Nhà nước trong quá
trình thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội và chính sách dân tộc dẫn tới
hiệu qủa công tác dân tộc chưa cao.
Đặc biệt, hiện nay các thế lực đế quốc và thù địch đang ráo riết đẩy
mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, trong đó chúng triệt để lợi dụng quan
hệ dân tộc, vấn đề dân tộc để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Chúng
khuyến khích tư tưởng ly khai, tiếp sức cho các phần tử xấu, nhen nhóm tổ

chức lực lượng phản động, gây bạo loạn. Chúng tăng cường xâm nhập biên
giới, tuyên truyền xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của
Đảng, chia rẽ các tộc người, truyền đạo, mua chuộc nhân dân … hòng gây
mất ổn định chính trị xã hội. Lợi dụng nhận thức còn hạn chế của đồng bào
dân tộc thiểu số, kích động xúi dục gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa miền núi và
miền xuôi. Chúng âm mưu chia nhỏ nước ta với kế hoạch “3 Tây” đi đến
thành lập “Vương quốc người HMông” ở Tây bắc, “Nhà nước Đề ga tự trị” ở
Tây nguyên và “Nhà nước Khơme crôm” ở Tây nam. Thực trạng trên cho
thấy vấn đề dân tộc và mối quan hệ dân tộc hiện nay là vấn đề hết sức nhạy
cảm và đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta.
Hơn bao giờ hết, chúng ta phải hết sức cảnh giác phát hiện và ngăn chặn kịp
thời những nguyên nhân có thể gây ra mâu thuẫn và xung đột dân tộc. Một
mặt phải tích cực hơn nữa trong việc nâng cao nhận thức của cả cộng đồng,
có chính sách hợp lý phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của từng vùng, miền, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, xa,
vùng căn cứ cách mạng, thực hiện bình đẳng thực sự giữa các dân tộc trên
mọi lĩnh vực. Mặt khác, phải luôn nêu cao cảnh giác, tích cực đấu tranh trên


15

lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kịp thời phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả
những âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng, thực hiện
tốt quan điểm chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, thực hiện bình đẳng,
đoàn kết và tương trợ đưa dân tộc Việt nam vững bước trên con đường xã hội
chủ nghĩa.
Từ thực trạng quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay, để giải quyết tốt vấn
đề dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, cần nhận thức và tiến hành
tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, quán triệt và thực hiện tốt quan điểm, chính sách dân tộc

của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và thực trạng tình hình dân tộc, công tác dân tộc
ở nước ta trong những năm qua, Hội nghị BCHTW lần thứ 7 khoá IX đã đề ra
quan điểm, chính sách về công tác dân tộc. Trong đó Đảng nhấn mạnh: Vấn
đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời
cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Những thắng lợi to lớn trong lịch sử chống ngoại xâm, giải phóng dân
tộc giành và giữ độc lập của dân tộcViệt Nam có một nguyên nhân mang ý
nghĩa quyết định chính là sự đoàn kết đồng lòng chung sức của đại gia đình
các dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay nước ta đang tiến hành công
cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu bước đầu to lớn. Những thành tựu
to lớn và quan trọng đó cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có
tầm cao và chiều sâu mới, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất
nước, làm cho thế và lực của cách mạng nước ta ngày càng được nâng cao.
Trước yêu cầu của thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, càng


16

đòi hỏi nhân dân ta phải ra sức phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn
kết dân tộc hiện nay vẫn là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Thực
hiện tốt điều đó cần phải xây dựng các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau
phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu
tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phải tiến hành phát triển toàn diện

chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng
dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân
lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy
những giá trị , bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Thực tế
cho thấy, hiện nay giữa các vùng, miền và các dân tộc vẫn còn tồn tại sự
chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển trên nhiều mặt, tạo ra sự bất bình
đẳng trong thực tế cuộc sống của nhân dân, thể hiện rõ nhất là giữa miền núi,
vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số với miền xuôi, đồng bằng, đô thị.
Cần phải có sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn nữa của Nhà nước, của các địa
phương cho các vùng khó khăn, vùng dân tộc. Tạo điều kiện tốt nhất cho
đồng bào tranh thủ được cao nhất sự giúp đỡ, phát huy tối đa nội lực để phát
triển theo kịp sự phát triển chung của cả nước. Lĩnh vực trọng tâm cần đặc
biệt quan tâm là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và
gắn với đó là giải quyết tốt các vấn đề xã hội như y tế, việc làm, tệ nạn xã
hội. Quan tâm chăm lo phát triển nguồn nhân lực bằng tăng cường đầu tư mở
rộng và nâng cao chất lượng giáo dục, xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học,
trung học cơ sở, ưu tiên đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Ưu


17

tiên phát triển kinh tế-xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập
trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo; khai
thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền
vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của
đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung
ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước. Về văn hoá, mỗi dân
tộc có bản sắc văn hoá đặc sắc cần được giữ gìn, bảo tồn và phát triển để tạo

lên sự đa dạng phong phú của nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bẳn sắc
dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc
hẹp hòi, dân tộc cực đoan.
Thứ hai, quán triệt và thực hiện tốt phương châm "Chân thành, tích
cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc" trong tiến hành công tác dân
tộc.
Chân thành là: trung thực, không khách sáo, thành thật, không giả dối.
Chân thành mong muốn đoàn kết dân tộc, mong muốn cải thiện nâng cao mọi
mặt đời sống nhân dân. Tích cực là: chủ động, hăng hái, năng nổ nhiệt tình,
không ngại khó ngại khổ, luôn giành nhiều thời gian cho công tác, làm việc
với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Tích cực gắn với năng động sáng tạo,
không dựa dẫm ỷ lại, không dập khuôn máy móc, hướng tới đích là công việc
đạt hiệu quả cao nhất. Thận trọng là: cân nhắc xem xét kỹ càng khi giải quyết
mỗi vấn đề của đồng bào, nắm chắc, hiểu rõ phong tục tập quán của đồng bào
và những vấn đề có liên quan. Không để xảy ra sai sót làm ảnh hưởng xấu tới
mối quan hệ với đồng bào, hay tạo sơ hở cho kẻ địch lợi dụng. Làm bất kỳ
việc gì cũng phải cân nhắc, tính toán nhiều mặt kỹ lưỡng, bảo đảm đã làm là
đạt được kết quả. Thậân trọng không chấp nhận đầu óc phiêu lưu, thói làm ẩu,
làm bừa; đồng thời cũng không chấp nhận thái độ nhút nhát sợ sệt, không
quyết đoán, bỏ lỡ thời cơ. Thận trọng có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác dân


18

tộc, tiến hành cpông tác dân tộc một cách thận trọng sẽ đạt được hiệu quả cao,
đồng thời tránh được những hậu quả xấu ảnh hưởng đến công tác dân tộc của
Đảng. Giải quyết các vấn đề trong đồng bào dân tộc không hề đơn giản mà rất
phức tạp, ( bởi nhiều lý do như: trình độ nhận thức, phong tục tập quán lạc
hậu, tâm lý, tư tưởng, nhu cầu, lợi ích … có những đặc điểm riêng, dễ bị kẻ
địch lợi dụng). Do đó không được hấp tấp vội vàng, mà phải kiên nhẫn, quyết

tâm cao vượt mọi khó khăn trở ngại. Kiên trì động viên, khích lệ, tuyên truyền
vận động từng bước làm cho đồng bào nâng cao nhận thức, hiểu biết, nhận rõ
điều hay lẽ phải, điều đúng, điều sai. Hấp tấp vội vã dễ hỏng việc và khó xây
dựng được lòng tin trong đồng bào. Bà con dân tộc rất nhạy cảm với những
hành vi thô bạo, quát nạt, ép buộc phải làm những việc mà "cái bụng" chưa
ưng. Vì thế, làm công tác dân tộc phải kiên trì. Tuy nhiên, phải hiểu kiên trì
không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Trái lại, phải tích cực bám sát quần
chúng, bằng nhiều cách khéo léo tác động để hiểu bà con và giúp bà con hiểu
rõ tình hình, nhiệm vụ hăng hái thực hiện những công việc do Đảng, Nhà
nước đề ra đem lại lợi ích cho nhân dân.
Trong quan hệ đối xử với đồng bào phải tế nhị, khéo léo, khiêm tốn thể
hiện có văn hoá, được giáo dục tốt để gây thiện cảm, sự cảm phục quí mến
của nhân dân. Khi giao tiếp phải sử dụng ngôn từ dân dã, đại chúng mộc mạc
dễ nghe, dễ hiểu để cho nhân dân tiếp cận được với những thông tin, các tri
thức khoa học mà ta mong muốn trang bị cho họ. Không giáo điều, máy móc,
không sử dụng ngôn từ bóng bẩy trừu tượng khó hiểu, dễ tạo ra khoảng cách,
sự xa lạ, làm mất cảm giác thân mật gần gũi với đồng bào, mất cơ hội tiếp cận
để hiểu đời sống và tuyên truyền vận động đồng bào thiểu số.
Công tác dân tộc phải đảm bảo tính chắc chắn, có hiệu quả, quá trình
xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ cần xác định rõ
các bước tiến hành cụ thể nối tiếp nhau, nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Vững


19

chắc ở đây là sự vững chắc về quan điểm, chính sách, quyết tâm tiến hành dân
vận và tạo ra kết quả bền chặt trong đồng bào, dù có bị tác động xấu vẫn
không thay đổi. Kết quả công tác dân tộc phải mang lại sự phát triển bền vững
đối với từng địa phương, vùng dân tộc và toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Đảng.

Thứ ba, quán triệt và thực hiện tốt phương pháp tiến hành công tác
dân tộc: "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân"; "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin".
Nội dung phương pháp tiến hành công tác dân tộc được xác định dựa
trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê-nin về vai trò của quần chúng
trong sự nghiệp cách mạng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử,
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng . Hồ Chí Minh khẳng định quần
chúng nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh, trong bầu trời không có gì
quí bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng của nhân
dân. Truyền thống của dân tộc Việt Nam cũng khẳng định rõ trong lãnh đạo
đất nước phải lấy dân làm gốc.
Trọng dân phải là điểm đầu tiên, điểm gốc, khi tiến hành công tác dân
vận muốn có hiệu quả trước hết phải tôn trọng nhân dân, khắc phục bệnh xem
thường dân, quan liêu cửa quyền, tự cho mình đứng trên nhân dân ban ơn huệ
cho dân, làm quan cách mạng.
Tiến hành công tác dân tộc phải gần dân, có cách tiếp cận tốt từ phong
cách, lối sống, gần gũi, thân thiện, đi sâu sát vào đời sống thực tế của nhân
dân, không xa rời cách biệt với dân, không tiến hành công tác dân vận theo
kiểu "tác phong làm việc bàn giấy". Phải gần dân thực sự, miệng nói tay làm,
bám sát, trực tiếp hoạt động cùng với dân,"cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng
nói tiếng dân tộc với dân". Gần dân để tìm hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt


20

của từng dân tộc để đề ra chủ trương, nhiệm vụ công tác đúng đắn, sát hợp, có
tính khả thi, có thể mang lại hiệu quả cao nhất.
Hiểu dân đòi hỏi phải có tình cảm yêu mến và nghệ thuật tiếp cận dân,
thường xuyên trao đổi và nghe dân nói, phải thực sự gần dân. Thông qua tiếp
xúc hàng ngày, qua trao đổi, trò chuyện trong lao động sản xuất và công tác

để hiểu tâm tư nguyện vọng của bà con nhân dân, hiểu phong tục tập quán,
tình hình kinh tế, chính trị đời sống mọi mặt của nhân dân. Hiểu dân có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, đó là cơ sở để đề ra những chủ trương chính sách
đúng đắn, phù hợp mang lại hiệu quả trực tiếp cho công tác dân vận và nâng
cao đời sống nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: "Cán bộ không gần
dân, không hiểu dân thì Đảng, Nhà nước như người bị bịt mắt, bịt tai ". Vị trí
và sức mạnh của dân là vô cùng to lớn, do vậy dù là cán bộ cũng có nhiều
điểm phải học dân. Người thường dạy: phải "học dân chúng" để "nâng cao
dân chúng", phải khiêm tốn, biết gợi ý cho dân nói, biết lắng nghe, không
được tự cho mình cái gì cũng hay cũng giỏi, tự cao tự đại. Trên thực tế cuộc
sống và hoạt động lao động sản xuất của nhân dân đã làm nảy sinh nhiều sáng
kiến hay, tổng hợp được nhiều kinh nghiệm quí báu đòi hỏi người cán bộ cách
mạng phải tiếp thu bổ sung cho quá trình công tác của mình.
Tiến hành công tác dân tộc yêu cầu trước hết với người cán bộ là phải
có trách nhiệâm với dân, phải vì dân. Bởi vì dân là gốc, là cơ sở để có thể giải
quyết và giải quyết tốt mọi vấn đề nếu biết dựa vào dân. Có trách nhiệm với
dân là biết quan tâm chăm lo, bảo vệ lợi ích thiết thực chính đáng hợp pháp
của nhân dân, mọi chương trình kế hoạch được vạch ra là nhằm nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân, vì lợi ích của dân, vì sự phát triển của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "cán bộ, nhân viên từ cấp trên đến cấp dưới đều


21

là đầy tớ của nhân dân, đều phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân" 1; "bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…".
Phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm
với dân" luôn gắn chặt với cách tiếp cận dân : "nghe dân nói, nói dân hiểu,
làm dân tin". Nghe dân nói là trọng dân, là phải gần dân, để hiểu dân và học
dân, tiếp thu những ý kiến đóng góp của dân. Chân thành mong muốn được

nghe dân nói, nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của dân, nghe dân nói cũng là
một nghệ thuật, phải khéo léo làm sao cho dân tin tưởng và bày tỏ chính kiến
của họ một cách thẳng thắn và trung thực nhất. Qua đó mới có thể hiểu dân và
hiểu chính sách đã đúng đắn, đã sát với thực tế chưa, đã hợp với lòng dân
chưa, có đi vào cuộc sống không, đó cũng chính là học dân.
Nói dân hiểu là khi tiến hành tuyên truyền vận đôïng, giáo dục thuyết
phục quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau,
phương thức là gần gũi đại chúng dân dễ hiểu, dễ học, dễ làm. Tiến hành
tuyên truyền dần dần, từ từ từng bước một giúp cho nhân dân tiếp cận các tri
thức khoa học một cách tốt nhất từ dễ đến khó, từ biết ít đến biết nhiều. Nói
dân hiểu không tách rời với nghe dân nói mà tiến hành đồng thời kết hợp với
nhau để nâng cao hiệu quả của công tác dân tộc, do đó phải thường xuyên tiếp
xúc, trao đổi với dân tạo sự gần gũi, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.
Làm dân tin là khi tiến hành công tác dân tộc, không chỉ bằng lời nói,
mà phải bằng việc làm, phải có trách nhiệm, năng nổ nhiệt tình, gương mẫu
nói phải đi đôi với làm trên thực tế, làm tốt và làm có hiệu quả để dân tin, dân
học, do vậy "làm" là cách tốt nhất, trực tiếp nhất, hiệu quả nhất để cho dân
hiểu, dân tin.
Thứ tư, quán triệt và thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng
về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
1

Hồ Chí Minh toàn tập tập 10, Nxb CTQG, H. 2000, tr, 251.


22

Đảng ta khẳng định: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên
nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng

Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Ở nước ta, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là
lực lượng đông đảo nhất, chiếm đa số trong dân cư Việt Nam, giữ vai trò nền
tảng cơ sở chính trị - xã hội. Trong đó, giai cấp công nhân là lực lượng cách
mạng nhất, tiến bộ nhất trong xã hội, có đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt
Nam giữ vai trò lãnh đạo đất nước. Do vậy, xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc dự trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho
sự nghiệp cách mạng nước ta. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đã làm nên những thành tựu to lớn
trong thế kỷ XX, cũng như những năm đầu của thế kỷ XXI, đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta tiến lên tầm cao mới. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa hội nhập kinh tế thế
giới, để vượt qua những khó khăn, thách thức, đưa cách mạng nước ta vững
bước tiến lên, cần phải tiếp tục tăng cường, củng cố, khối đại đoàn kết dân tộc
trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải lấy mục tiêu giữ vững độc
lập thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt
đối xử về quá khư,ù thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mơ,û tin cậy


23

lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: Đoàn
kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài, không phải là thủ

đoạn chính trị, ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc phụng sự
nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Do vậy xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc phải dựa trên cơ sở mục tiêu chung vì sự phồn thịnh của tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, vì cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc của nhân dân. Xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, khai thác tối đa mọi tiềm năng, nội lực, đồng thời tranh
thủ ngoại lực để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Xung đột dân tộc, sắc tộc trên thế giới hiện nay là một vấn đề nhạy cảm
và hết sức phức tạp, để lại hậu quả năng nề cả về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, đe doạ đến nền hoà bình, an ninh thế giới. Nguyên nhân của các cuộc
xung đột đó rất phong phú đa dạng, có cả nguyên nhân bên trong, có cả
nguyên nhân bên ngoài song nguyên nhân chủ yếu nhất đó là do sự chống phá
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch và sự sai lầm trong đường lối
chiến lược, sách lược của các giai cấp cầm quyền. Đối với nước ta, trong
những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân tộc chúng ta đã thu
được nhiều thắng lợi, thực hiện tốt tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đở nhau
cùng tiến bộ, song bên cạnh đó chúng ta còn nhiều bất cập trong quá trình giải
quyết vấn đề dân tộc. Quán triệt và thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết TW7
khoá IX, Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về vấn đề
dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, đòi hỏi chúng ta phải đưa Nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống; phải thực hiện tốt phương châm "Chân thành, tích
cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc" và phương pháp "trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân"; "nghe dân nói, nói dân
hiểu, làm dân tin" trong tiến hành công tác dân tộc; đồng thời quán triệt và


24

thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết

toàn dân, đoàn kết dân tộc, tạo nên động lực to lớn, đưa sự nghiệp cách mạng
nước ta vững bước tiến lên.



×