Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN QUAN hệ QUỐC tế NHỮNG THÁCH THỨC của VIỆT NAM đối với XU THẾ TOÀN cầu hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.04 KB, 18 trang )

NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA XU THẾ TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

Hiện nay không chỉ riêng Việt Nam, mà đời sống xã hội các dân tộc
trên thế giới đang trải qua những biến động dữ dội mang tính toàn cầu, đó là
những biến động trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, quân sự đến văn
hoá, khoa học; từ đời sống của mỗi con người đến đời sống của cả cộng đồng
nhân loại. Tất cả những biến động ấy đã, đang và sẽ dẫn các quốc gia, dân tộc
tới sự liên kết khu vực và quốc tế bằng quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá
đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong thế giới hiện đại, không chỉ giới hạn
trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng sang tất cả các lĩnh vực khác.
1. Toàn cầu hóa - sự tác động đối với các quốc gia, dân tộc.
Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, có quan
điểm cho rằng nó đã xuất hiện ở thế kỷ XVI và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối
thế kỷ XIX. Nhưng trong thời đại hiện nay, toàn cầu hóa mang một nội dung
mới với những nét đặc thù mới. Về bản chất toàn cầu hóa hiện nay là toàn cầu
hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, quá trình đó mang nặng dấu ấn và đang chịu sự
chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản lớn.
Toàn cầu hoá nói chung, là sự tiếp nối, sự khẳng định và hoàn thiện các
khuynh hướng đã hình thành từ lâu trong lịch sử thế giới, mặt khác, nó cũng
là một hiện tượng mới, bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần đần lôi
cuốn theo toàn cầu hoá về các lĩnh khác và tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực
chính trị. Từ khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ,
chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới hai cực đã chuyển sang thành thế giới một

1


cực, với một siêu cường duy nhất là Mỹ. Ngày nay, Mỹ đang từng bước thực
hiện chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền nhằm biến toàn cầu hoá
thành Mỹ hoá cả về kinh tế, văn hoá và chính trị, nuôi hy vọng chiếm địa vị


độc tôn và làm bá chủ thế giới.
Toàn cầu hoá là quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất trên phạm vi
quốc tế làm cho các quan hệ kinh tế vượt ra khỏi biên giới quốc gia dân tộc,
làm cho ý nghĩa biên giới quốc gia ngày càng giảm dần. Toàn cầu hoá là một
xu thế khách quan, là hệ quả tất yếu của sự phát triển của lực lượng sản xuất,
từ sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ hiện đại, cũng như sự
phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của sản xuất hàng hóa đạt đến trình
độ cao. Bên cạnh đó toàn cầu hóa còn mang tính khách quan do nhu cầu hợp
tác của các quốc gia, dân tộc trong giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu
như: vấn đề đói nghèo, dịch bệnh, chống chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố, tội
phạm quốc tế, bảo vệ môi trường sinh thái…
Toàn cầu hoá Toàn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ
đến các quốc gia, dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại,
cũng như đến cuộc sống của từng con người theo cả hướng tích cực và tiêu
cực, thậm chí ảnh hưởng tới cả hệ thống các giá trị văn hoá, các quy phạm
đạo đức, tình cảm, lối sống và nhân cách con người trong mỗi quốc gia, dân
tộc.
Trước hết xét về mặt tích cực: Không ai có thể phủ nhận được rằng
toàn cầu hóa đã và đang tạo ra những cơ hội cho các nước, nhất là các nước
có nền kinh tế chậm và đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới để
trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới công nghệ.
Trước hết toàn cầu hoá phá bỏ những cản trở, những hàng rào ngăn cách giữa
các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trong quan hệ

2


kinh tế, văn hoá, xã hội; đồng thời mở ra khả năng cho các quốc gia chậm và
đang phát triển, nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc
tế, xúc tiến nhanh quá trình chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước

ngoài, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế- xã hội hiệu quả để đẩy nhanh, rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Các quốc gia dân tộc khi tham gia quá trình toàn cầu hoá không những
tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật hiện đại, cũng như công nghệ
quản lý để phát triển kinh tế đất nước mà còn có cơ hội giao lưu, tiếp thu
những giá trị tinh hoa, văn hoá nhân loại, làm phong phú thêm đời sống văn
hoá tinh thần cho nhân dân, tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển. Hiện
nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ và thông tin phát
triển như vũ bão, nên toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu như một quy luật để
tồn tại và phát triển, làm cho tốc độ phát triển kinh tế các quốc gia cũng như
toàn cầu tăng nhanh. Mặt khác toàn cầu hoá cũng chống lại âm mưu của Mỹ
và các nước Phương tây muốn thâu tóm thế giới, chống lại âm mưu của Mỹ
muốn biến toàn cầu hoá thành Mỹ hoá. Toàn cầu hóa còn là một phương thức
quan trọng chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi muốn cô lập dân tộc mình với thế
giới bên ngoài nhằm phục vụ lợi ích của một nhóm người thống trị. Thực tế
trong mấy thập kỷ qua đã cho thấy những tác động tích cực của toàn cầu hóa,
chính nhờ tranh thủ được cơ hội của toàn cầu hóa, nhiều nước ở Châu Á vốn
có nền kinh tế kém phát triển tạo ra được tốc độ tăng trưởng kỷ lục về kinh tế
và trở thành những "con rồng" Châu Á; âm mưu thiết lập thế giới một cực với
siêu cường là Mỹ đang từng bước bị thất bại.
Bên cạnh những mặt tích cực, những thời cơ, vận hội do toàn cầu hoá
đem lại thì toàn cầu hoá còn gây nên những thách thức, những tác động tiêu
cực thậm chí là những nguy cơ đối với nhiều quốc gia, dân tộc, nhất là những

3


nước chậm và đang phát triển. Đó là sự tái diễn bành trướng xâm lược của
chủ nghiã thực dân mới, không phải bằng quân sự như trước kia, mà bằng sự
thâm nhập về kinh tế, bằng sự xâm lược về văn hoá và gây áp lực về chính

trị... làm các quốc gia này ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào những quốc gia
giầu có, không những về kinh tế mà cả về văn hoá và chính trị. Sự mở rộng
thị trường và tự do thị trường dẫn đến việc khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên của các nước chậm phát triển và đang phát triển một cách bừa bãi, thiếu
khoa học, gây ra nạn ô nhiễm môi trường và làm cho nguồn tài nguyên nhanh
chóng bị cạn kiệt. Sự phát triển với quy mô lớn của các công ty đa quốc gia,
xuyên quốc gia làm cho nhà nước mất đi khả năng điều tiết xã hội dẫn đến
phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển. Chính từ những vấn đề trên đã góp
phần làm tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các nước, cũng như giữa các tầng
lớp dân cư - một vấn đề mà đã trở thành cuộc chiến của cả loài người tiến bộ
– cuộc chiến chống đói nghèo.
Báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1999 đã phác họa một
bức tranh khá không bình đẳng giữa các nước, cũng như giữa các tầng lớp
người khác nhau. Theo báo cáo đó, vào cuối những năm 90 của thế kỷ XX,
một phần năm dân số thế giới sống trong những nước có thu nhập cao nhất
chiếm tới: 86% GDP của thế giới, 82% các thị trường xuất khẩu thế giới, 68%
đầu tư nước ngoài trực tiếp, 74% số máy điện thoại thế giới; trong khi đó, một
phần năm dân số sống trong những nước có thu nhập thấp nhất chỉ chiếm 1%
các chỉ số nói trên. Cũng theo báo cáo này, trong thập niên cuối của thế kỷ
XX, các nước OECD với 19% dân số toàn cầu chiếm tới 71% thương mại
toàn cầu về hàng hóa và dịch vụ, 58% đầu tư nước ngoài và 91% tổng số
người sử dụng Internet, 200 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đôi tài sản
ròng của họ trong 4 năm, đến năm 1998 lên tới hơn 1000 tỷ USD. Tài sản của

4


3 tỷ phú hàng đầu nhiều hơn tổng GNP của tất cả các nước kém phát triển với
600 triệu dân của họ gộp lại. Các chỉ số trên cho thấy, trước tác động tiêu cực
của toàn cầu hóa, cuộc đấu tranh cho công bằng, bình đẳng của loài người tiến

bộ vẫn là một khó khăn, thách thức vô cùng lớn.
Bên cạnh đó, toàn cầu hoá còn gây nên những hậu quả mang tính chất
phi kinh tế như: góp phần làm gia tăng chủ nghĩa khủng bố, nạn ma tuý, mãi
dâm, hoặc sự lan tràn của các loại dịch bệnh, đăc biệt là HIV/AIDS... đó là
những vấn đề mà không chỉ riêng một nước, một quốc gia nào có thể giải
quyết được. Đồng thời toàn cầu hoá còn tạo nguy cơ xâm nhập của các loại
hình văn hoá ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục của nhiều dân tộc, làm
băng hoại đạo đức con người, xâm hại đến nền văn hoá dân tộc, làm méo mó,
biến dạng nền văn hoá truyền thống hình thành một nền văn hoá hỗn tạp, gây
ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân lao động.
Như vậy những gì mà toàn cầu hóa mang lại cho con người đã làm cho
không ít các quốc gia băn khoăn, lo lắng. Điều cần nhấn mạnh là ở chỗ, cơ hội
mà toàn cầu hóa đem lại cho các nước khác nhau, các dân tộc khác nhau
không phải lúc nào cũng như nhau. Xét một cách tổng thể, các nước phát triển
hơn về kinh tế, giàu có hơn sẽ có cơ hội nhiều hơn các nước nghèo. Điều đó
cũng có nghĩa là, toàn cầu hóa sẽ đem lại cho các nước nghèo, các nước đang
phát triển nhiều thách thức hơn so với cơ hội.
Mặc dù vậy, phải thấy rằng, toàn cầu hóa hiện nay là một quá trình đi
lên của lịch sử nhân loại, cho nên, sẽ là sai lầm nếu có một nước nào đó tự
mình tách ra đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa, từ chối hợp tác, hội nhập,
đóng cửa với thế giới. Từ tính chất hai mặt của quá trình toàn cầu hoá đặt ra
đối với các quốc gia cần có thái độ đúng đắn để vừa tránh được những tác
động tiêu cực, mặt khác vẫn tận dụng được mặt tích cực và cơ hội của nó đem

5


lại để phát triển đất nước, tham gia vào dòng chảy chung của sự phát triển
nhân loại, cùng tham gia giải quyết các vấn đề hiện nay đang đặt ra. Hay nói
cách khác, để khỏi bị gạt ra ngoài lề sự phát triển chung và sự tiến bộ của lịch

sử các nước, đặc biệt là các nước chậm phát triển, cần căn cứ vào mục tiêu
phát triển và khả năng thực tế của mình, để có chiến lược thích ứng, khôn
ngoan, đề ra chính sách hội nhập quốc tế một cách có lợi nhất trong điều kiện
toàn cầu hóa hiện nay, nhằm vượt qua thách thức, chớp lấy thời cơ, giữ vững
chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia
dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh.
Tóm lại, toàn cầu hoá đang đặt ra hàng loạt những thách thức, khó
khăn cho tất cả các nước. Đó chính là những vấn đề toàn cầu mà nhân loại
đang và sẽ phải đối mặt. Nhận thức cho được các vấn đề này và tìm ra đối
sách để giải quyết chúng là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng đó lại là việc
không thể không làm một cách tích cực, từng bước và làm một cách khoa học.
Có vượt qua được những thách thức đó, mới có cơ hội phát triển nhanh hơn
trong tương lai. Hội nhập sâu rộng với thế giới, tranh thủ tối đa các cơ hội do
toàn cầu hóa hiện nay mang lại là cách tốt nhất để các dân tộc, các quốc gia
cùng tiến bước, cùng phát triển. Đây cũng là cách có hiệu quả giúp cho các
nước chậm tiến thực hiện con đường phát triển rút ngắn, có cơ may thu hẹp
khoảng cách và từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến về kinh tế. Bài học của
các nước công nghiệp mới ở châu Á là minh chứng rõ ràng nhất. Đối với Việt
Nam: “Tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn
diện và đồng bộ hơn, phát triển nhanh hơn và bền vững hơn” (1), là vấn đề
sống còn của chúng ta hiện nay.

1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lầ thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr. 23.

6


2. Thách thức của Việt nam trước tác động của xu thế toàn cầu hóa

hiện nay.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, Việt Nam chính thức thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế, tham gia
vào dòng chảy toàn cầu hóa. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng,
chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện với Trung Quốc; gia nhập Hiệp
hội các nước Đông Nam Á(ASEAN), tham gia Hiệp định mậu dịch tự do
ASEAN; Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); tham gia là sáng
lập viên Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN ký
Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc và New Zealand, ký hiệp định
thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA)… Đây là những bước đi quan
trọng, là sự "cọ xát" từng bước trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Tham gia hội nhập quốc tế, cùng với xu thế chung của thế giới, Việt
Nam cũng đang chịu sự tác động ảnh hưởng khá lớn của quá trình toàn cầu
hoá. Với những ảnh hưởng tích cực của toàn cầu hoá, đã làm cho các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của chúng ta đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Trải qua hơn hai thập kỷ hội nhập chúng ta đã có kết quả bước đầu
quan trọng trên các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, ngoại giao… phá bỏ thế
bao vây, cấm vận, tạo ra môi trường hợp tác và phát triển với các đối tác trên
thế giới; thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cải thiện và không ngừng
nâng cao mức sống của nhân dân; không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế…Đó chính là những thành tựu quan trọng mà Đảng và
nhân dân ta đã đạt được. Song bên cạnh đó chúng ta cần nhận thức sâu sắc
những thách thức đang đặt ra đối với chúng ta trước tác động của toàn cầu
hóa hiện nay. Thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:

7


Một là, về mặt kinh tế, trình độ phát triển của nước ta còn thấp và lạc
hậu so với khu vực và thế giới. Đến nay nước ta lực lượng lao động nông

nghiệp vẫn chiếm hơn 70%, xét về mặt cơ cấu của nền kinh tế, nước ta vẫn là
nước nông nghiệp. Thêm vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập
trung chủ yếu ở 2 đầu của đất nước. Người lao động có trình độ cao rất ít, lại
chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các
vùng sâu, vùng xa đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Về trình độ công nghệ của ta còn rất lạc hậu, do đó năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm của hàng hoá thấp, sức cạnh tranh so với hàng hóa
của nhiều nước khác không cao. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam chưa
thực sự chủ động tham gia quá trình hội nhập, lượng vốn còn nhỏ, trình độ
kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh doanh còn yếu kém, đa số các doanh nghiệp
nhà nước làm ăn thua lỗ, hoặc không có lãi; cơ chế chính sách, thuế chưa ổn
định, thiếu đồng bộ. Vì vậy, đây là những nguy cơ rất lớn khi chúng ta tham
gia vào sân chơi toàn cầu hóa.
Hai là, nước ta xét về kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa hoàn thiện,
các luật chơi trên thương trường chúng ta chưa thông thạo, kiến thức hiểu biết
về thị trường còn đơn giản, thậm chí có mặt còn non kém. Đó chưa kể đến khi
chúng ta hội nhập xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tất yếu vấp phải sự chống đối quyết liệt của các thế lực thù địch với
chiến lược “diễn biến hoà bình” hết sức nham hiểm, chứ không chỉ là sự cạnh
tranh kinh tế thuần túy.
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, trình độ kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, nhất
là đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn mỏng và yếu, trong khi quá trình
hội nhập luôn đặt ra những yêu cầu cao. Thực tế, quá trình hội nhập do những

8


hạn chế về nhiều mặt của phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công
tác hội nhập đã làm thiệt hại về kinh tế khá lớn cho đất nước và ảnh hưởng

không nhỏ đến quốc phòng, an ninh, thậm chí làm giảm lòng tin của nhân
dân. Vì vậy, đây thực sự là thách thức lớn đặt ra cho Nhà nước và doanh
nghiệp phải có biện pháp giải quyết kịp thời.
Ba là, tình trạng tham nhũng, quan liêu, bòn rút tiền của Nhà nước, của
nhân dân trong đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước, nhất là trong đội ngũ
cán bộ làm công tác ngoại giao và có liên quan tới hội nhập cũng là một thực
tế đáng báo động. Đánh giá về thực trạng này, Đại hội X của Đảng đã khẳng
định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ
phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng”(1).
Tình trạng tham nhũng gây phiền hà cho đối tác của một số cán bộ Nhà
nước đã gây khó khăn và ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam với các nhà đầu
tư nước ngoài. Cùng với thủ tục hành chính rắc rối, phiền hà, hiện tượng sách
nhiễu, vòi tiền, thiếu trách nhiệm của một số cán bộ… làm cho các công ty
nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài nản lòng, có ấn tượng không tốt khi
tham gia đầu tư vào Việt Nam. Rõ ràng, để hội nhập tốt, việc xây dựng đội
ngũ cán bộ hội nhập có đủ đức, đủ tài, có trình độ ngoại ngữ là những người
tham mưu đáng tin cậy cho đất nước, cho các doanh nghiệp là một vấn đề
không phải dễ dàng và có thể giải quyết được trong một sớm, một chiều.
Bốn là, với khả năng, trình độ và kinh nghiệm của chúng ta hiện nay,
để xây dựng được một hệ thống luật lệ, chính sách thống nhất, phù hợp với
thông lệ quốc tế mà vẫn đảm bảo được tính độc lập tự chủ và giữ vững chủ
quyền quốc gia, là một vấn đề rất khó của chúng ta khi tham gia hội nhập
quốc tế.
1

Đảng CSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, H. 2006, trang. 65.

9



Những năm qua, Đảng và Nhà nước, các ngành, các cấp đã có nhiều cố
gắng trong soạn thảo các văn bản, xây dựng, ban hành luật pháp, nhưng hệ
thống luật pháp, chính sách của Việt Nam liên quan tới hội nhập vẫn thiếu
đồng bộ, còn nhiều bất cập so với các quy chuẩn quốc tế, nhiều luật thiếu khả
thi, nhiều vấn đề còn thiếu luật. Mặt khác, việc nắm vững luật, tôn trọng và
chấp hành nghiêm luật còn bất cập, các toà án kinh tế trong giải quyết tranh
chấp còn thiếu kinh nghiệm, thiếu uy tín trên thế giới, các doanh nghiệp Việt
Nam còn có hiện tượng vi phạm luật quốc tế. Những hạn chế trên đã gây khó
khăn cho việc đẩy nhanh quá trình hội nhập cũng như nâng cao hiệu quả hội
nhập của nước ta.
Năm là, trước tác động của toàn cầu hóa chúng ta phải đối mặt với
nhiều vấn đề xã hội phức tạp như: nguy cơ phân hoá giàu - nghèo, sự gia tăng
tình trạng thất nghiệp, các tệ nạn xã hội…
Toàn cầu hóa làm cho tính chất cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, do đó
đã làm cho nhiều cơ sở sản xuất, nhiều doanh nghiệp của chúng ta bị phá sản,
nhiều cơ sở sản xuất phải tiến hành tinh giản biên chế. Tình trạng đó làm tăng
thêm đội ngũ những người thất nghiệp hoặc có việc làm không đầy đủ. Thêm
vào đó, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, một năm có khoảng 1 tỷ ngày
công lao động dư thừa trong thời điểm nông nhàn, nếu qui đổi sẽ tương đương
với 5 triệu lao động/năm. Đó là chưa kể tới số bộ đội xuất ngũ, học sinh, sinh
viên ra trường chưa có việc làm. Như vậy, ước tính hàng năm nước ta có
khoảng 9 triệu lao động (kể cả qui đổi). Trong khi đó, khả năng giải quyết việc
làm ở nước ta mới chỉ đạt được 1 triệu lao động/ năm, số việc làm được tạo ra
hàng năm chỉ đủ giải quyết số lao động bổ sung do tốc độ gia tăng dân số.
Toàn cầu hóa còn làm cho khoảng cách giàu - nghèo ngày càng doãng
ra, nếu không có những giải pháp kịp thời, hữu hiệu. Thực ra, sự phân hóa

10



giàu nghèo là kết quả tất yếu của cơ chế thị trường. Điều đó có nghĩa là, trong
nền kinh tế thị trường, người nào lao động giỏi , biết tính 'toán, nhạy bén thì
giàu lên một cách chính đáng; trái lại, người nào lười lao động, không có vốn,
không biết làm ăn thì nghèo đi. Nhưng ở Việt Nam, trong những năm qua
ngoài số người giàu có một cách hợp pháp, còn có không ít những kẻ giàu lên
nhờ những hành vi tham nhũng, buôn gian, bán lậu; làm ăn theo kiểu chụp
giật. Điều đáng lo ngại là, số người giàu lên theo kiểu này không ít. Vì thế
không phải ngẫu nhiên mà tham nhũng đã được xem như là "quốc nạn" ở Việt
Nam. Những hành vi đó đã không chỉ làm suy yếu nền kinh tế, mà còn làm
đảo lộn các giá trị xã hội.
Bên cạnh đó toàn cầu hóa làm xuất hiện sự du nhập của lối sống và các
luồng văn hoá ngoại lai (phương Tây) trái với thuần phong mỹ tục và bản sắc
của văn hoá dân tộc Việt Nam. Nguy hại hơn khi thách thức này lại có xu
hướng tác động trực tiếp và lớn hơn vào thế hệ trẻ - những chủ nhân tương
lai của đất nước.
Một trong những thách thức hết sức nguy hại là, lợi dụng xu thế toàn
cầu hóa, các thế lực thù địch dáo diết thực hiện chiến lược: “diễn biến hoà
bình” nhằm chống phá nước ta về mọi mặt. Vì thế, đây là một thách thức lớn
với Việt Nam trong quá trình hội nhập. Điều đáng lưu ý là, trong những năm
gần đây, cùng với sự phát triển giao lưu kinh tế quốc tế, các hoạt động tội
phạm có yếu tố nước ngoài cũng phát triển mạnh mẽ. Đó là hiện tượng người
nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài
đang có xu thế tăng cao. Một số loại tội phạm nguy hiểm trước đây chưa từng
thấy ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện như: tội buôn bán phụ nữ và trẻ em qua
biên giới Trung Quốc và Campuchia, tội vận chuyển và buôn bán chất ma tuý
từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam đi các nước khác, tội cướp biển,

11



tội rửa tiền, tội khủng bố, bắt cóc con tin... Do mở rộng giao lưu, việc xuất
nhập cảnh vào Việt Nam thuận lợi hơn trước nên nhiều tên tội phạm gây án ở
nước ngoài rồi tìm cách chạy vào Việt Nam để ẩn náu, thậm chí nhiều tên còn
tiếp tục gây án tại Việt Nam. Trái lại, một số tên tội phạm đã gây ra những vụ
án nghiêm trọng ở Việt Nam rồi tìm cách chạy trốn ra nước ngoài hòng lẩn
tránh sự trừng trị của pháp luật Việt Nam.
Trên đây là một số thách thức mà Việt Nam đã và đang gặp trong quá
trình hội nhập. Tuy nhiên, nói tới những thách thức điều đó không có nghĩa là
chúng ta hãy đóng cửa, từ bỏ con đường hội nhập với thế giới, trái lại chúng
ta cần tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên
chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc những thuận lợi cũng như những thách
thức đang đặt ra, trên cơ sở đó đề ra đường lối đối ngoại phù hợp nhằmvượt
qua thách thức, đẩy lùi nguy cơ, tranh thủ tối đa cơ hội cho sự phát triển đất
nước.
Đại hội X của Đảng khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế. Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực khác” (1). Đây là quan điểm nhất quán, thể hiện sự quyết tâm cũng như
khát vọng hòa bình, hợp tác của Đảng và nhân dân ta trong quan hệ đối ngoại
hiện nay. Để thực hiện thắng lợi quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng,
tạo sự phát triển nhanh và bền vững trong quá trình toàn cầu hóa, chúng ta
cần nghiên cứu, thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản, trên nhiều lĩnh
vực khác nhau.

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đâị hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006,
tr.112.
1


12


3. Một số giải pháp cơ bản của Việt nam nhằm đối phó với những
thách thức của toàn cầu hóa hiện nay.
* Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành
nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện các cam kết quốc tế. Trước hết tập trung vào soạn thảo các văn bản
hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành, bảo đảm cụ thể, công khai, minh
bạch phù hợp với nội dung của luật. Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng; hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường đất đai và bất động
sản, tạo bước đột phá trong hoạt động của thị trường này; hoàn thiện cơ chế
và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp để tạo ra môi
trường cạnh tranh lành mạnh; kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền
tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ giá ... để điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao chất lượng của công tác thông tin, dự báo về
thị trường, giá cả, quan hệ cung cầu để xác định các cân đối lớn. Đẩy mạnh
cải cách tiền lương, chế độ bảo hiểm; sớm nghiên cứu hình thành quỹ bảo
hiểm thất nghiệp, và các chính sách an sinh xã hội, nhằm thực hiện tốt sự gắn
kết giữa phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội.
* Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính:
Chủ động rà soát, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không thực sự cần thiết;
công bố công khai quy trình, thời gian giải quyết công việc, những người chịu
trách nhiệm giải quyết các công việc ở tất cả các cơ quan thuộc bộ máy nhà
nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ công để mọi công dân, mọi doanh
nghiệp biết thực hiện và giám sát việc thực hiện; công khai, minh bạch mọi
chính sách, cơ chế quản lý. Điều này không chỉ tạo nên sự thông thoáng trong
giải quyết các công việc, là tiền đề của chống tham nhũng mà còn là điều kiện


13


để tạo ra thị trường cạnh tranh lành mạnh, giảm chi phí giao dịch cho doanh
nghiệp và công dân, là điều kiện bảo đảm hiệu quả của tăng trưởng. Loại bỏ
khỏi bộ máy nhà nước những công chức gây phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân
và doanh nghiệp, những người thiếu trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ.
*Phát triển mạnh nguồn nhân lực:
Hiện tại, những lĩnh vực kinh tế có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi trình độ
cao, chúng ta đang rất thiếu nguồn nhân lực và do đó làm hạn chế khả năng
thu hút đầu tư vào những lĩnh vực này như cơ khí chế tạo, sản xuất các sản
phẩm công nghệ cao, tư vấn thiết kế... Hạn chế này là do những yếu kém, bất
cập trong hệ thống giáo dục của ta, cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp
để khắc phục.
Từ quan điểm hệ thống và bảo đảm tính liên thông trong hệ thống giáo
dục - đào tạo từ phổ thông - đại học và dạy nghề, cần giải quyết trước việc cải
cách giáo dục đại học và dạy nghề. Học tập kinh nghiệm của các nước có nền
giáo dục đại học và dạy nghề tiên tiến để chọn lọc, sử dụng cải cách nền giáo
dục nước nhà. Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong những nguyên tắc
lớn và sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo, phát
huy tính tự chủ, bản sắc riêng và tính cạnh tranh trong đào tạo đại học và dạy
nghề. Khẩn trương xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy, cho đến chế độ thi cử ở tất cả các cấp đào tạo.
* Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông:
Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã và sẽ hạn chế thu hút đầu tư làm tăng
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các nước về
cơ sở hạ tầng sẽ là sự cạnh tranh dài hạn; vì vậy, phải đặc biệt coi trọng sự
phát triển cơ sở hạ tầng nói chung, hạ tầng giao thông nói riêng. Không những
thế, phát triển cơ sở hạ tầng là yêu cầu bức xúc của các địa phương, các vùng


14


kinh tế. Trong phát triển cơ sở hạ tầng (các tuyến đường, bến cảng) cần tập
trung vào những vùng đã và sẽ có trong tương lai gần dung lượng lưu thông
hàng hoá lớn, từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Huy động mọi nguồn lực kể cả các nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài
vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông.
* Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mọi người
đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp:
Việc sắp xếp lại, đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong
những năm qua đã đem lại những kết quả tích cực. Hầu hết các doanh nghiệp
nhà nước được cổ phần hoá đều có doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách cao
hơn trước khi cổ phần hoá; việc làm và đời sống người lao động trong doanh
nghiệp đã cổ phần hoá được bảo đảm và có phần được cải thiện; quyền làm
chủ thực sự trong quản lý doanh nghiệp từng bước được xác lập. Tuy nhiên,
tỷ lệ doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối còn nhiều. Vốn của
nhà nước trong doanh nghiệp còn lớn, tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà
nước chiếm tỷ lệ cao. Phải khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa
sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần, kể cả các tổng công ty, các tập đoàn
kinh tế.
So với dân số và nhu cầu tăng trưởng kinh tế, số lượng doanh nghiệp
nước ta hiện rất thấp. Đây là hạn chế lớn trong việc phát triển kinh tế, giải
quyết công ăn việc làm, tạo ra thị trường cạnh tranh và huy động nguồn lực
của xã hội. Vì vậy, khuyến khích người dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
phát triển các loại hình doanh nghiệp. Định hướng cơ bản để thực hiện việc
này là tạo điều kiện để doanh nghiệp có môi trường sản xuất, kinh doanh
thuận lợi, giảm chi phí tham gia thị trường, miễn giảm thuế trong thời gian


15


đầu lập nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo quản trị doanh nghiệp.
*
*

*

Quân đội nhân dân Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng
chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Quân đội là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước xu thế toàn cầu hóa hiện nay, đã
và đang đặt ra nhiều thách thức, khó khăn đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Do vậy, Quân đội cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, Quân đội phải thường xuyên quán triệt tốt quan điểm, đường
lối đối ngoại của Đảng, đường lối chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, tinh thần cảnh giác cách mạng,
đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” cho mọi cán bộ chiến sỹ.
Đây là vấn đề rất hệ trọng, vì khi hội nhập quốc tế càng đi vào chiều
sâu thì nó ảnh hưởng đến đời sống chính trị tinh thần của mọi cán bộ, chiến sỹ
quân đội. Do vậy, mỗi cán bộ, chiến sỹ quân đội cần phải thường xuyên được
quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, chiến lược bảo
vệ tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng niềm tin của quân đội đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; thấy rõ được tính tất yếu phải tăng
cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc trong quá trình hội nhập.
Trong bối cảnh hiện nay, quân đội phải làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, tập trung vào giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, đường lối quan điểm của Đảng; tiếp tục giáo dục mục tiêu bảo vệ Tổ
quốc, nhiệm vụ của quốc phòng an ninh trong giai đoạn mới, làm cho mỗi cán

16


bộ, chiến sỹ nhận thức rõ đối tượng, đối tác, xác định đúng đắn bạn, thù và
những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, từ đó nâng cao cảnh giác,
không mơ hồ, ngộ nhận hoặc nôn nóng chủ quan trong thực hiện nhiệm vụ và
xử lý các tình huống cụ thể.
Hai là, Quân đội phải điều chỉnh, xây dựng khu vực phòng thủ, hướng
chiến lược trên phạm vi cả nước đủ sức làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù lợi dụng sự mở cửa hôị nhập để chống phá.
Quân đội phải cùng với các lực lượng an ninh nhân dân giữ vững môi
trường hoà bình ổn định cho xây dựng, phát triển đất nước trong quá trình
toàn cầu hóa, do đó một trong những vấn đề hết sức quan trọng là phải xây
đựng được các khu vực phòng thủ vững chắc, đủ sức đối phó với mọi tình
huống, diễn ra trên mọi địa bàn. Trong xây dựng khu vực phòng thủ, thế chiến
lược cần phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vùng trọng yếu,
địa bàn chiến lược, tạo thế mạnh của chiến tranh nhân dân, bảo đảm cho việc
sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù khi có chiến tranh xảy ra.
Ba là, trên từng địa bàn đóng quân, quân đội tích cực, chủ động tham
mưu cho cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chủ
trương gắn kết phát triển kinh tế – xã hội với nhiệm vụ củng cố quốc phòng
an ninh:
Quân đội cần chủ động tham mưu và cùng với cấp uỷ Đảng, chính
quyền và các lực lượng an ninh nơi đóng quân xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của địa phương, xây dựng các phương án tác chiến tại chỗ; tổ
chức diễn tập các phương án đó, bảo đảm tính chủ động sẵn sàng đối phó với
mọi tình huống xảy ra như biểu tình, bạo loạn, tập kích bằng đường không…

giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn, khu vực đóng quân.
Bốn là, nâng cao chất lượng toàn diện các mặt công tác cho quân đội.

17


Để quân đội thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, quân
đội cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng toàn diện trên các mặt công
tác: chính trị, quân sự, kỷ luật, hậu cần kỹ thuật và đối ngoại quân sự. Bước
vào thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mỗi cán bộ, chiến sỹ quân đội
không chỉ cần giữ vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản lĩnh chính
trị, lòng dũng cảm, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”…mà còn phải được quan tâm
và đầu tư một cách thoả đáng trên tất cả các mặt hoạt động như: đào tạo nâng
cao trình độ kiến thức khoa học quân sự hiện đại; khoa học công nghệ tin học,
ngoại ngữ; hiểu biết về kinh tế thị trường và những kiến thức về hội nhập quốc
tế, khu vực… từ đó nâng cao năng lực toàn diện, nhất là đội ngũ cán bộ sỹ
quan. Mặt khác, Đảng, Nhà nước, quân đội cần phải đầu tư mua sắm trang thiết
bị hiện đại phục vụ cho công tác huấn luyện đào tạo cán bộ; quan tâm hơn nữa
đến các chế độ chính sách, thu nhập bảo đảm đời sống vật chất tinh thần, nâng
cao sức mạnh tổng hợp cho quân đội ngày càng chính quy, hiện đại đáp ứng
với yêu cầu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

18



×