Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác lê NIN về GIAI cấp và đấu TRANH GIAI cấp, NHẬN THỨC của ĐẢNG về GIAI cấp và đấu TRANH GIAI cấp TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.92 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

Trang
2

MỞ ĐẦU
1. Quan điểm Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp

3

1.1. Nguồn gốc giai cấp

3

1.2. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt các giai cấp trong xã hội

4

1.3. Về đấu tranh giai cấp

7

1.4. Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản

9

2. Nhận thức của Đảng ta về giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
KẾT LUẬN

13



25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
26

MỞ ĐẦU
1


Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những nội dung
cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Lý luận đó đã có ảnh hưởng sâu rộng
trong phong trào cách mạng từ thế kỷ XIX đến nay, tạo ra những biến động to
lớn trong đời sống chính trị - xã hội trên toàn thế giới.
Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì các thành phần
kinh tế được khuyến khích phát triển, vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trở
thành một vấn đề gây rất nhiều tranh luận. Về mặt lý luận, chúng ta đã có nhiều
chuyển biến trong nhận thức, tư duy lý luận. Tuy nhiên, trong sự chuyển đổi đó
vẫn còn có những vấn đề cần phải tiếp tục làm sâu sắc và rõ ràng hơn. Thực chất
quan điểm mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp cũng cần được nhận thức,
liên hệ, vận dụng một cách linh hoạt hơn, đặc biệt là thực tiễn đổi mới của nước
ta hiện nay đã khẳng định kết quả của công cuộc đổi mới, đã chứng minh rằng:
Lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp đã ngày càng được nhận thức và vận dụng
đúng đắn và sáng tạo ở Việt Nam. Những thành tựu quan trọng ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, nhất là về kinh tế, đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên
tất cả các mặt của đời sống xã hội, tình hình an ninh chính trị được tăng
cường, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được hình thành rõ nét… điều đó
đã chứng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn dài, diễn biến xã hội còn
hết sức phức tạp. Vì vậy, nghiên cứu một cách sâu sắc lý luận giai cấp và đấu

tranh giai cấp gắn với tổng kết kinh nghiệm cách mạng, học tập kinh nghiệm
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sẽ góp phần phát triển sáng
tạo và vận dụng ngày càng thành công lý luận Mác - Lênin vào sự nghiệp xây
dựng một chế độ xã hội mới. Đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp cần được nhận thức và xem xét
một cách khoa học để luận giải những vấn đề có tính nguyên tắc cả lý luận và
thực tiễn đã và đang là thời cơ và thách thức trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước ta hiện nay.
1. Quan điểm Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2


1.1. Nguồn gốc giai cấp.
Đứng vững trên lập trường duy vật về lịch sử và từ những con người cá
nhân hiện thực, C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã tìm ra quy luật phát sinh và phát triển
của xã hội có giai cấp và quy luật đấu tranh giai cấp. Nếu các nhà tư tưởng trước
Mác cho rằng: nguồn gốc của xã hội có giai cấp, của chế độ tư hữu là do tư
tưởng tư hữu của con người, thì ngược lại C.Mác chỉ rõ, chính những tiền đề vật
chất do xã hội tạo ra đã làm nảy sinh ra tư tưởng tư hữu. Bởi vì, như các nhà
kinh điển mác xít đã khẳng định: Do sự phát triển của sản xuất đã đưa đến sự
phân công lao động trong xã hội và sự phân công lao động xã hội lại thúc đẩy sự
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, đó là nguồn gốc cơ
bản để sinh ra chế độ tư hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội. Thực tiễn lịch
sử phát triển và tiến hoá của nhân loại đã chỉ ra rằng, nguyên nhân vật chất,
nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân cơ bản, sâu xa sản sinh ra giai cấp và xã hội
có giai cấp. Sự tồn tại, phát triển và diệt vong của giai cấp và xã hội có giai cấp
là do nguyên nhân kinh tế - vật chất quyết định - suy cho đến cùng. Như vậy, tư
tưởng biện chứng duy vật về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác Lênin hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm, tôn giáo đã tồn tại rất lâu trong
lịch sử. Tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh
giai cấp, về sự ra đời, tồn tại và diệt vong của nó đã góp phần vào cuộc đấu

tranh, khắc phục tư tưởng ảo tưởng, chủ quan về vấn đề hoà hợp giai cấp, xoá
nhoà đấu tranh giai cấp trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,
hoặc muốn đi tìm lời giải, một động lực ở ý thức tư tưởng để thúc đẩy sự phát
triển giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay.
Trong vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa Mác - Lênin đã có
sự đánh giá rất khách quan, khoa học đối với sự ra đời của xã hội có đối kháng
giai cấp, các ông đã khẳng định sự ra đời của xã hội có giai cấp thay thế xã hội
cộng sản nguyên thuỷ là một bước tiến hoá, phát triển của lịch sử nhân loại,
Ph.Ăng-ghen viết: “Từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xã hội xuất hiện thì
chính những dục vọng xấu xa của con người - lòng tham và sự thèm muốn
3


quyền lực đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển của lịch sử”. Trong xã hội có
giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trò nhất định trong lịch sử, kể cả giai cấp
thống trị bóc lột. Sự tồn tại của các giai cấp đối kháng đều do sự quy định của
điều kiện kinh tế, quan hệ kinh tế. Theo đó, sự ra đời, tồn tại, phát triển của giai
cấp tư sản cũng là một tất yếu khách quan của lịch sử và cũng đã từng đóng vai
trò hết sức cách mạng trong lịch sử, bởi chính giai cấp tư sản đã làm cách mạng
xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời lạc hậu để mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển, hình thành những thị trường và quốc gia rộng lớn, mở ra sự
hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Từ các quan điểm mác xít về sự hình thành giai cấp theo lập trường duy
vật về lịch sử, đã cho chúng ta thấy rõ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, sự xuất hiện xã hội có giai cấp là một tất yếu khách quan, trước hết là
tất yếu về kinh tế, chính “cái có thể chiếm hữu” đã sinh ra tư tưởng chiếm hữu.
Hai là, xã hội có giai cấp là một giai đoạn tất yếu của lịch sử phát triển của
nhân loại, nó chính là nhân tố để thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trò nhất
định, trước hết là vai trò trong phát triển kinh tế, đây cũng chính là lý do tồn tại

của mỗi giai cấp và quy định địa vị chính trị - xã hội của nó.
1.2. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt các giai cấp trong xã hội.
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà kinh tế - chính trị học tư sản
trước đó, C.Mác đã cho rằng, trong xã hội tư sản tồn tại “những người chỉ sở
hữu có sức lao động, những kẻ sở hữu tư bản và những kẻ sở hữu ruộng đất, mà
nguồn thu nhập tương ứng là tiền công, lợi nhuận và địa tô, tức là công nhân
làm thuê, nhà tư bản và địa chủ, đó là ba giai cấp lớn của xã hội hiện đại dựa
trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” 1. Theo đó, tiêu chí của giai cấp
trước hết phải gắn liền với những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, gắn
liền với phương thức sản xuất. Không có tiêu chí chung cho mọi giai cấp trong
mọi thời đại lịch sử, các tiêu chí đó luôn vận động biến đổi không ngừng theo
1

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 25, tr 643.

4


thực tiễn của sản xuất và đời sống xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen, thì tiêu
chí cơ bản quan trọng hàng đầu để phân biệt giai cấp này với giai cấp khác, đó là
vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vai trò tổ chức, quản lý sản xuất và gắn liền với
nó là sự thu nhập từ các quyền sở hữu đó.
Chính sự sở hữu tư liệu sản xuất trong những lĩnh vực khác nhau sẽ hình
thành nên những giai tầng khác nhau trong xã hội: người sở hữu tư liệu sản xuất
trong công nghiệp hình thành nên giai cấp tư sản, những kẻ sở hữu ruộng đất là
giai cấp địa chủ, còn những người chỉ sở hữu sức lao động của mình và bán sức
lao động cho nhà tư bản công nghiệp là giai cấp công nhân. Đồng thời, những ai
là chủ tư liệu sản xuất sẽ đóng vai trò tổ chức, quản lý, điều hành quá trình sản
xuất, còn những người không có tư liệu sản xuất thì phải chịu sự tổ chức, quản lý,
điều hành của kẻ có tư liệu sản xuất. Theo đó, sự hưởng thụ các sản phẩm trong

xã hội cũng có sự khác nhau, nguồn thu nhập của người làm thuê là tiền công, là
một phần rất nhỏ trong tổng số giá trị lao động mà chính họ tạo ra, còn nguồn thu
nhập của chủ tư bản là lợi nhuận. Đó là sự phân phối bất bình đẳng, là sự bóc lột
của giai cấp tư sản, địa chủ đối với giai cấp công nhân, nông dân.
V.I.Lênin đã kế thừa, phát triển, xây dựng và hoàn thiện những tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăng-ghen về tiêu chí giai cấp thành tiêu chí giai cấp nói chung và tiêu
chí cụ thể cho từng giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” V.I.Lênin viết:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau
về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn
người này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn
có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”2.
Theo V.I.Lênin:
2

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 39, tr 17 - 18.

5


Thứ nhất, giai cấp trước hết phải là tập đoàn người to lớn, đông đảo trong
xã hội, gắn liền với một hệ thống sản xuất nhất định. Điều đó cho thấy với một
vài cá nhân đơn lẻ không thể là giai cấp, mặc dù họ có thể nắm giữ những vị trí,
vai trò quan trọng có ảnh hưởng to lớn trong đời sống tinh thần xã hội. Cũng
không phải mọi tập đoàn đông đảo, to lớn trong xã hội sẽ là giai cấp, giai cấp
không phải là sự cộng lại đơn thuần, là tổng số của các cá nhân, mà đó phải là sự
gắn bó, hợp lại với nhau trên cơ sở có chung một địa vị trong hệ thống sản xuất

nhất định của xã hội. Mặt khác, không phải mọi hệ thống sản xuất đều sinh ra
giai cấp, mà chỉ hệ thống sản xuất nào tạo ra tiền đề để những tập đoàn này có
quan hệ và địa vị khác nhau trong quá trình sản xuất mới tạo ra giai cấp khác
nhau, chỉ có những xã hội dựa trên những quan hệ sản xuất nhất định nào đó
mới tạo ra giai cấp.
Thứ hai, sự khác nhau giữa các giai cấp được thể hiện trên những phương
diện cơ bản sau:
- Quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất (thường thì được pháp luật quy định
và thừa nhận). Vai trò đó được thể hiện ở các quyền cơ bản: quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu… Nền kinh tế càng phát triển thì các quyền này càng được mở rộng, biến
đổi và hình thành các quyền mới, đáp ứng sự phát triển của thực tiễn sản xuất.
- Vai trò tổ chức và phân công lao động trong quản lý, tổ chức sản xuất.
Tập đoàn người nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì nắm quyền điều
hành, tổ chức, quản lý sản xuất. Ở đây cần phân biệt rõ ràng giữa việc tổ chức,
quản lý sản xuất với quyền quyết định tổ chức, quản lý sản xuất, bởi trước yêu
cầu phát triển sản xuất hiện nay mà việc tổ chức quản lý ngày càng đòi hỏi cao,
phức tạp, có nhiều người cùng tham gia quản lý trong đó có cả người không nắm
tư liệu sản xuất, song vai trò quyết định quá trình sản xuất, quản lý sản xuất phải
là người nắm phần lớn tư liệu sản xuất.
- Phương thức, quy mô thu nhập. Tập đoàn nào nắm quyền sở hữu tư liệu
sản xuất thì nắm quyền về tổ chức phân phối sản phẩm. Sự phân phối sản phẩm
xã hội phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tiến hành theo những phương thức khác
6


nhau. Trong xã hội hiện đại, sự phân phối sản phẩm xã hội được phân phối cho
các cá nhân sau khi đã khấu trừ các phần cơ bản.
Như vậy, giai cấp là một phạm trù xã hội, gắn liền với sản xuất vật chất,
đặc biệt là với quan hệ sản xuất, do đó các tiêu chí do V.I.Lênin đưa ra chủ yếu
là những tiêu chí về kinh tế và vật chất. Nhưng chúng ta cũng cần thấy rằng, sự

khác biệt về vật chất giữa các giai cấp sẽ dẫn tới sự khác biệt về chính trị, tinh
thần. Thừa nhận sự khác biệt giữa các giai cấp về kinh tế thì không thể không
thừa nhận sự khác biệt về chính trị, tinh thần, bởi trong xã hội có giai cấp, giai
cấp nào thống trị về lực lượng vật chất thì sẽ thống trị về mặt tinh thần, chính
trị trong xã hội. Nói cách khác, tư tưởng thống trị đó chính là biểu hiện tinh
thần của những quan hệ vật chất dưới hình thức tư tưởng.
1.3. Về đấu tranh giai cấp.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: trong xã hội có giai cấp, đấu tranh
giai cấp là tất yếu khách quan. Lịch sử loài người cũng đã chứng minh rằng: lịch
sử tất cả các xã hội có giai cấp tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh
giai cấp giữa những “Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất
và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và
người bị áp bức luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh
không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng
kết thúc bằng một cuộc cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai
giai cấp đấu tranh với nhau”3.
Đấu tranh giai cấp là do nguyên nhân của mâu thuẫn giai cấp, song theo
V.I.Lênin, nguyên nhân trước hết là do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. V.I.Lênin
cho rằng: đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống
lại một bộ phận khác, là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị
áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản” 4. Thực chất của đấu tranh
3
4

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 596 - 597.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 7, tr 237 - 238.

7



giai cấp là đấu tranh giữa những giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau không
thể điều hoà được.
Theo quan điểm mác xít, lợi ích giai cấp là những giá trị khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu nhất định của một giai cấp, đảm bảo cho giai cấp đó tồn tại và phát
triển. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức giai cấp sinh ra và quy định, mà nó do
địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó tạo nên, do đó, muốn chỉ ra lợi ích giai cấp và
sự đối kháng lợi ích giai cấp phải phân tích tình hình, điều kiện phát triển cụ thể của
từng giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp khi có sự đối kháng gay gắt sẽ dẫn tới đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội, khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết sẽ tạo ra
động lực thúc đẩy toàn bộ xã hội có giai cấp phát triển. Chính vì vậy, đấu tranh giai
cấp trở thành một trong những động lực cơ bản, quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của xã hội có đối kháng giai cấp.
Trong đời sống xã hội, nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn
trong quá trình sản xuất vật chất, mà trước hết và trực tiếp là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do tính cách mạng, luôn vận động biến đổi
của lực lượng sản xuất, do đó, quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất luôn vận động từ chỗ phù hợp tới không phù hợp và mâu thuẫn. Khi quan hệ
sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì phải
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Song, để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, giai cấp thống trị
luôn tìm mọi cách bảo vệ quan hệ sản xuất hiện có, cản trở, kìm hãm sự phát triển
của quan hệ sản xuất mới. Do đó, muốn mở đường cho lực lượng sản xuất phát
triển phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tiên tiến với giai cấp thống trị đã phản
động, lỗi thời luôn diễn ra gay go quyết liệt, song giai cấp mới tiên tiến sẽ tất yếu
giành thắng lợi, bởi cuộc đấu tranh của họ ngày càng được quần chúng ủng hộ, vì
cuộc đấu tranh của giai cấp mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Như
vậy, đấu tranh giai cấp là phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, để cho phương thức sản xuất mới trở thành
8


phương thức sản xuất thống trị trong xã hội, cùng với đó, một chế độ chính trị
mới, văn hoá mới ra đời. Nói cách khác, thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao
của nó là cách mạng xã hội sẽ dẫn tới sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội
mới, cao hơn. Toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chứng
minh cho tính khoa học đúng đắn của chủ nghĩa Mác về vai trò của đấu tranh giai
cấp trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Thực tiễn đã chứng minh, trong xã hội có đối kháng giai cấp, đấu tranh
giai cấp là động lực phát triển của xã hội, nhưng đó không phải là động lực duy
nhất, mà đó chỉ là động lực cơ bản, ngoài ra trong xã hội còn có rất nhiều động
lực khác. Bởi vì, trong đời sống xã hội, con người có vô vàn các hoạt động khác
nhau với những nhu cầu, mục đích, động cơ khác nhau, trong đó những nhu cầu
sống, nhu cầu về vật chất, tinh thần, nhu cầu chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ… cũng
là những động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động và tạo ra sự
phát triển của xã hội. Mặt khác, trong xã hội có giai cấp do trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất còn hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ mọi nhu cầu vật chất
của con người, chính vì vậy, đấu tranh để đòi lợi ích kinh tế, đảm bảo điều kiện
sống cho con người trở thành những cuộc đấu tranh có quy mô lớn, quyết liệt nhất
để dẫn tới những sự chuyển biến lớn lao trong xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp
theo quan điểm mác xít, vấn đề cơ bản của nó không phải là vấn đề chính trị thuần
tuý, đạo đức thuần tuý, mà thực chất và cơ bản là vấn đề kinh tế.
1.4. Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mang tính triệt để: Từ khi
mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã sớm thực hiện cuộc cách mạng trong lĩnh vực
công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá và ngay từ
đầu nó đã mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, chủ
nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng cao, càng gay gắt. Đó chính

là nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong chủ
nghĩa tư bản, chính vì vậy, giai cấp tư sản luôn tìm mọi cách để điều chỉnh quan
hệ sản xuất dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, nhưng sự điều chỉnh ấy
9


lại dẫn tới hệ quả đó là, sự tập trung tư bản càng lớn, do đó, mâu thuẫn xã hội
ngày càng trở nên gay gắt. Những tiền đề mà chủ nghĩa tư bản tạo ra trong quá
trình tồn tại và phát triển đã dẫn tới sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai
cấp tư sản với mục tiêu là xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản
xuất, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Mục tiêu đó là đòi hỏi tất yếu
khách quan của lịch sử và nó được xuất phát từ nhu cầu giải phóng lực lượng
sản xuất, giải phóng con người tiến tới một xã hội không có giai cấp. Đây là
cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử, bởi vì, sau cuộc đấu tranh ấy,
chế độ công hữu về cơ bản là phải chiếm ưu thế, giữ vai trò thống trị trong xã
hội. Do đó, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản là triệt
để nhất, nó đã xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nguyên nhân của mọi
mâu thuẫn trong xã hội.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản dựa trên chiến lược liên
minh công nông rộng lớn: Mọi cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới liên minh
giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp vô sản lãnh đạo và thực hiện nó
khác hẳn với các cuộc cách mạng trước kia trong quan niệm và thực hiện vấn đề
liên minh giai cấp với giai cấp nông dân. Nếu như trước đó, sự liên minh giữa
các giai cấp tiến hành cách mạng với giai cấp nông dân chỉ mang tính chất tạm
thời, thì nay trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản liên minh giữa công
nhân với nông dân là sự liên minh chiến lược và rộng lớn. Sự liên minh ấy được
xuất phát trước hết từ bản chất, mục tiêu của cuộc cách mạng mà giai cấp công
nhân thực hiện.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin đã phát
triển lý luận về liên minh giai cấp trong điều kiện mới của giai cấp vô sản.

Trước hết, V.I.Lênin khẳng định liên minh công - nông là “nguyên tắc cao
nhất” của cuộc cách mạng XHCN, liên minh ấy phải được đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản. Đồng thời, V.I.Lênin còn chỉ rõ, liên minh công - nông
không chỉ được thực hiện để giành lấy chính quyền, thiết lập chuyên chính vô
sản, mà nó còn cần được tiếp tục duy trì, phát triển trong quá trình giữ vững
10


chính quyền “…Nếu không liên minh được với nông dân thì không thể có chính
quyền của giai cấp vô sản, không thể nghĩ đến việc duy trì chính quyền…”5.
Liên minh công - nông, theo V.I.Lênin, đó không chỉ là liên minh về chính
trị, mà còn cần phải chuyển sang liên minh về kinh tế, trong đó, giai cấp vô sản
cần phải đem lại ruộng đất cho nông dân, V.I.Lênin khẳng định, đây chính là một
đặc trưng của cuộc cách mạng XHCN, và ông viết “…Nếu không tống cổ bọn đại
địa chủ đi và không chia ruộng đất cho nông dân thì cách mạng chỉ là cách mạng
tư sản thôi chứ không phải là cách mạng XHCN” 6. Vì vậy, trong và sau cách
mạng, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải lấy lợi ích thiết thân của cá nhân nông dân làm
cơ sở trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội XHCN.
Như vậy, liên minh công - nông dựa trên lợi ích căn bản và lâu dài của họ,
nó được thể hiện trong thời kỳ giành chính quyền và giữ chính quyền, từ liên
minh chính trị chuyển sang liên minh kinh tế trong suốt cả thời kỳ quá độ. Đó là
một đặc điểm của liên minh giai cấp trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
- Sự thống nhất giữa giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản: Nhờ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã khiến “Những địa phương độc lập liên hệ với nhau gần như chỉ bởi
những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác
nhau thì đã tập hợp thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất,
một pháp luật thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất, có tính giai cấp và
một thuế quan thống nhất”7. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc xuyên

suốt trong toàn bộ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và ảnh hưởng trực tiếp tới
cuộc đấu tranh này. Trong mỗi dân tộc có một giai cấp đứng đầu thống trị dân
tộc, giai cấp đó sẽ dân tộc hoá các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nó, và
nó cũng giai cấp hoá hình thức phát triển của dân tộc. Vì vậy, mối quan hệ giữa
giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trước hết là quan hệ
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 57.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 8.
7
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 603.
5
6

11


giữa giai cấp vô sản và dân tộc, mà giai cấp vô sản là một bộ phận cấu thành nên
dân tộc ấy. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản là giai cấp thống trị dân tộc, điều
đó đã làm cho cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản trong từng nước đều
nhằm vào việc lật đổ chính quyền tư sản, chuyển nó vào tay giai cấp công nông.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “Mục đích trước mắt của những người
cộng sản là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác tổ chức những
người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô
sản giành lấy chính quyền”8. Chính việc đấu tranh giành chính quyền trong từng
dân tộc là đòi hỏi khách quan của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, đó là điều
kiện để giai cấp vô sản tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở
thành dân tộc, xoá bỏ dân tộc tư sản để hình thành dân tộc XHCN, dân tộc vô
sản. Vì vậy, “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, dù về mặt nội dung không
phải là cuộc đấu tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc”9.
Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc còn được thể hiện trong mối quan hệ
giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. C.Mác viết: “Hãy xoá bỏ tình

trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng
sẽ bị xoá bỏ”10.
Quan điểm mác xít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách mạng
vô sản được V.I.Lênin tiếp tục phát triển trong thời đại mới, khi mà chủ nghĩa tư
bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, và phong trào giải phóng dân tộc đã
phát triển mạnh mẽ. V.I.Lênin khẳng định: kẻ thù chung của giai cấp vô sản ở
các nước tư bản và thuộc địa lúc này là đó chính là giai cấp tư bản, nhà nước đế
quốc, do đó, giai cấp vô sản phải liên kết với các nước thuộc địa, cho dù ở các
nước thuộc địa đó giai cấp nào lãnh, và V.I.Lênin đã chuyển khẩu hiệu “Vô sản
các nước đoàn kết lại” của C.Mác thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Đối với các nước thuộc địa có phong trào
vô sản phát triển mạnh mẽ, theo V.I.Lênin, phải có sự liên kết phong trào vô sản
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
10
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 625.
8
9

12


ở những nước đó với phong trào vô sản ở chính quốc. Đồng thời, ông cho rằng,
khi các “dân tộc XHCN lớn” được hình thành, quần chúng lao động tự giải
phóng khỏi ách áp bức của giai cấp tư sản sẽ hướng toàn lực của họ vào việc
liên minh và thống nhất với các dân tộc XHCN để tạo nên sức mạnh tổng hợp
chiến thắng chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Như vậy, mặc dù đã được xuất hiện từ rất sớm, nhưng chỉ đến C.Mác và
Ph.Ăng-ghen và sau đó là Lênin kế thừa, phát triển thì lý luận về giai cấp và đấu
tranh giai cấp mới thực sự mang tính cách mạng và khoa học. Đứng vững trên

lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển mác xít đã luận
chứng làm rõ những vấn đề về nguồn gốc giai cấp, tiêu chí phân biệt giai cấp,
cũng như nguyên nhân, điều kiện, mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản. Từ lý luận đó, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ đặc thù của
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nhiệm vụ lịch sử mà nó phải giải quyết, cũng
từ lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng
nên chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận này đã xoá tan mọi ảo tưởng về xoá
bỏ giai cấp, xoá bỏ áp bức dựa trên cơ sở thuần tuý về giáo dục đạo đức mà
không xuất phát từ kinh tế, lực lượng sản xuất.
2. Nhận thức của Đảng ta về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1975 nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất cách mạng Việt Nam
đã hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc bước sang một giai đoạn lịch sử mới,
đó là thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV khẳng định: nước ta vẫn ở trong quá
trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khó khăn
lớn nhất là nền kinh tế lạc hậu lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá, kẻ thù luôn tìm
mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thế
giới, cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và

13


chủ nghĩa tư bản, giữa độc lập, dân chủ, hoà bình với các thế lực phản động, đế
quốc, hiếu chiến vẫn diễn ra hết sức quyết liệt.
Từ thực tiễn của đất nước, Đại hội IV vạch ra đường lối chung của cách
mạng XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới là: Nắm vững chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng

tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy
mạnh công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn
XHCN; xây dựng nền văn hoá mới XHCN; xoá bỏ chế độ người bóc lột người,
xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình,
độc lập, thống nhất và XHCN, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Quá trình cách mạng XHCN ở giai đoạn lịch sử này được xác định là quá
trình kết hợp giữa cải tạo và xây dựng, trong đó xây dựng là là chủ yếu. Quá
trình xây dựng phải tạo ra được cả lực lượng sản xuất mới, cơ sở hạ tầng mới và
kiến trúc thượng tầng mới, cả đời sống vật chất và tinh thần mới, đồng thời vẫn
phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu của các thế lực thù địch nhằm
bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.
Với tinh thần đó, công cuộc cải tạo XHCN đã được đẩy mạnh, phong trào
hợp tác hoá, xây dựng các tập đoàn sản xuất, tổ đoàn kết sản xuất trong nông
nghiệp ngày càng phát triển, bộ phận tư sản mại bản ở Miền Nam được xoá bỏ.
Công thương nghiệp tư bản tư doanh được cải XHCN. Đến giữa năm 1979, việc
chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp, vận
tải, xây dựng, thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh cơ bản đã hoàn
thành. Dĩ nhiên quá trình cải tạo đó có tính chất nóng vội, nhưng nó cũng đã phản
ánh quan điểm giai cấp nhất quán của Đảng ta và cũng chứng tỏ việc nhận thức và
vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một quá trình phức tạp.

14


Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Đảng ta vẫn khẳng định: “Phải
hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện
quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất trong cả nước”.
Như vậy, cho đến Đại hội V, quan niệm về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp

cơ bản như trước đây.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, được coi là cái mốc của thời kỳ đổi
mới. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi quan trọng nhất trong việc nhận thức các
vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong sự đổi
mới nhận thức đó, sự nhận thức và vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai
cấp cũng được phát triển lên một tầm cao mới ở Việt Nam.
Từ phân tích những yếu kém, hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vẫn xác định rõ hai nhiệm vụ cơ bản
của cách mạng Việt Nam là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Điều đặc biệt quan trọng là Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước và khẳng định đây là chiến lược lâu dài trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước chuyển biến quan trọng trong nhận
thức về đấu tranh giai cấp ở thời kỳ quá độ, đó là sự vận dụng sáng tạo những
luận điểm của V.I.Lênin trong thời kỳ phát triển kinh tế mới ở Nga trước đây
vào Việt Nam.
Đại hội VI cũng đề ra đường lối đổi mới nhằm tạo ra những chuyển biến
trong nhận thức, trong hành động của toàn xã hội, đồng thời tạo ra những
chuyển biến quan trọng trong tình hình kinh tế - xã hội, đưa đất nước vượt qua
những khó khăn trước mắt. Đây là bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời, cũng là bước
chuyển biến quan trọng trong nhận thức về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ.
Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, VIII, Đảng ta luôn kiểm điểm, đánh giá
tình hình trong nước và quốc tế, tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh
15


nghiệm, xác định rõ thời cơ và thách thức, phê phán những tư tưởng chủ quan
nóng vội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đưa ra những mục
tiêu cụ thể phù hợp với tình hình đất nước. Tuy nhiên, quan điểm giai cấp của

Đảng đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX mới được trình bày một cách rõ
ràng và đầy đủ với những vấn đề cụ thể quan trọng sau:
Một là, khẳng định sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế, các giai
cấp xã hội khác nhau trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Điều đó là một nhận định dứt khoát, rõ ràng, thể hiện nhận thức đầy đủ về vai
trò thực tế của các giai cấp trong tình hình mới.
Hai là, xác định quan hệ giữa những giai cấp và các tầng lớp xã hội ở
nước ta vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng là đấu tranh trong nội bộ nhân dân.
Ba là, nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta là: đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục đói nghèo, chậm phát triển, đưa
đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Bốn là, động lực của sự phát triển xã hội là phát huy tinh thần đoàn kết
toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nông và trí thức.
Năm là, đặt ra yêu cầu, tôn vinh những người biết tổ chức sản xuất kinh
doanh, đội ngũ doanh nhân mới.
Đại hội IX khẳng định: “Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục
diễn ra gay gắt”. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, mối quan hệ hợp tác và đấu
tranh giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam là mối quan hệ lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản. Các giai cấp và các dân tộc trong cộng đồng phải lấy mục tiêu giữ vững
độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh làm nền tảng tương đồng; đồng thời phải xoá bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối sử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.

16


Chúng ta có thể khẳng định, đây là một bước phát triển lớn trong việc

nhận thức vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay. Điều này
vừa tạo ra sức mạnh cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc vừa tạo ra khả năng mới
cho sự cho sự phát triển đất nước. Những thành tựu đạt được từ sau Đại hội IX
đã minh chứng cho đường lối đúng đắn đó.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta vẫn tiếp tục nhất quán
về tính tất yếu và vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay, đấu
tranh giai cấp là vấn đề xuyên suốt và là nội dung cấu thành của lịch sử đương
đại. Đại hội X khẳng định: “Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt” 11.
Ở tầm khái quát, Đại hội X đã xem vấn đề đấu tranh giai cấp của thời đại hiện
nay trong bức tranh toàn cảnh và gắn với đặc điểm, loại hình đấu tranh khác của
thời đại. Đây là cơ sở để xác lập quan điểm khoa học và biện chứng trong giải
quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chống việc phủ nhận hoặc cường
điệu, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp trong thời đại hiện nay.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trong cương lĩnh xây dựng đất
nước (bổ sung, phát triển năm 1991) Đảng tiếp tục khẳng định: “Các mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn
tồn tại và phát triển…đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ,
biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra
phức tạp.”12 cho thấy nhận thức của Đảng về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai
cấp vẫn bá, sát lý luận và thực tiễn, biểu hiện sự nhất quán trong tư duy và đưa
ra những dự báo khoa học.
Như vậy, phát triển lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lênin ở Việt Nam là một quá trình nhận thức cơ bản và đúng đắn. Từ việc
nhận thức vai trò đến việc xác định nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp trong
thời kỳ lịch sử, từ chủ trương coi trọng vấn đề giải phóng dân tộc đến phát triển
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng tỏ lý
11
12


Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 74.
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 67.

17


luận giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam đã ngày càng được nhận thức và
vận dụng đúng đắn hơn. Đó là cơ sở lý luận hết sức quan trọng để hình thành
đường lối chiến lược và sách lược cách mạng sát đúng trong từng giai đoạn lịch
sử, tránh được các tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh tư
tưởng cũng như trong quá trình bảo vệ và phát triển đất nước.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ với những điều kiện mới, nội dung và hình thức mới. Đây là
cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong một bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế
có nhiều diễn biến phức tạp, mau lẹ và rất nhạy cảm: chủ nghĩa xã hội ở Liên xô
và Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN và phong trào công nhân quốc tế tạm thời
thoái trào. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản lại có bước phát triển mới nhờ sự điều
chỉnh thích nghi, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ thực hiện một loạt âm mưu
bá chủ toàn cầu. Về mặt kinh tế, chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh quá trình toàn cầu
hoá, tăng cường đầu tư vào những nước đang phát triển, chậm phát triển, tạo ra
những thời cơ và những thách thức lớn trong quá trình phát triển của những nước
đó. Về mặt chính trị, chủ nghĩa đế quốc tìm mọi cách để can thiệp vào nội bộ, sử
dụng các công cụ tuyên truyền hiện đại để chống phá các nước XHCN, các nước
trung lập… Trong bối cảnh quốc tế đầy những phức tạp, khó khăn, Việt Nam đi
lên chủ nghĩa xã hội chưa có những yếu tố tiền tư bản và đầu tư bản, chịu ảnh
hưởng của chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm. Chiến tranh kéo dài hơn
30 năm với các cường quốc đế quốc đã làm cho đất nước hết sức nghèo nàn bởi
sự tàn phá của chiến tranh. Đã thế, Mỹ lại thực hiện chính sách thù địch bao vây,
cô lập cấm vận Việt Nam trong thời gian dài, thực hiện âm mưu “Diễn biến hoà
bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, luôn đặt Việt Nam vào những tình huống hết

sức khó khăn. Trong tình hình đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam lại phát triển không mấy thuận lợi: nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam phát triển chưa toàn diện, đồng bộ, lành mạnh đáp ứng tình
hình mới, trong khi đó thành phần kinh tế nhà nước, tập thể không mạnh, hiệu quả
kinh doanh, khả năng cạnh tranh thấp, cho dù nó vẫn giữ vai trò trọng yếu trong
18


nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển, hội nhập, các thành phần kinh tế
đẩy mạnh hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, trong mối quan hệ đa
phương, đa dạng đó không chỉ có những thuận lợi mà còn có những khó khăn bởi
sự xâm nhập của các yếu tố tư bản chủ nghĩa ảnh hưởng đến định hướng XHCN.
Để giữ vững định hướng XHCN, một vấn đề đặt ra là phải tạo điều kiện cho thành
phần kinh tế nhà nước phát triển để giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, song muốn thực hiện được điều đó nó cần có sự nỗ lực của chính bản
thân thành phần kinh tế nhà nước, cùng với sự ủng hộ của tất cả các thành phần
kinh tế, của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Kéo theo sự phát triển của nền công nghiệp là quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, nhất là trong những năm gần đây. Cơ cấu
kinh tế và lao động nông thôn có sự chuyển dịch phù hợp với yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp chuyển dần sang sản
xuất hàng hoá, kết cấu hạ tầng ở nông thôn được xây dựng ngày càng đồng bộ
đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá ở nông thôn. Tuy nhiên, quá trình
chuyển dịch cơ cấu sản xuất ở nông thôn còn chậm, sản xuất còn manh mún, hiệu
quả còn thấp kém nhất là ở các tỉnh miền núi.
Từ sự biến đổi, phát triển của các thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội cũng có những biến đổi quan trọng: Giai cấp từ chỗ phát triển
thuần nhất bao gồm những người sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh, nay
họ có sự tham gia của các bộ phận khác từ các doanh nghiệp, thành phần kinh tế
khác nhau, và bộ phận này hết sức đông đảo. Bên cạnh đó, lực lượng công nhân

ở các khu vực kinh tế có sự khác nhau về nhiều phương diện kinh tế, chính trị.
Tiếp cận từ vấn đề kinh tế, giai cấp công nhân ở các thành phần kinh tế
khác nhau thì thu nhập của họ cũng khác nhau, trong đó, công nhân ngoài quốc
doanh thường có thu nhập cao hơn, điều đó đã tạo nên sự khác biệt về tiêu dùng,
lối sống trong bộ phận giai cấp công nhân.
Về chính trị, nhiều công nhân ở các xí nghiệp tư nhân không được sinh hoạt
chính trị đầy đủ, các tổ chức chính trị - xã hội ở đó không có hoặc phát triển không
19


mạnh, dẫn đến, trình độ chính trị của họ không cao, và họ thường xuyên bị vi phạm
về quyền con người, bị đánh đập, bị xúc phạm về thể xác, tinh thần. Do đó, mâu
thuẫn giữa công nhân và chủ các doanh nghiệp ngày càng tăng, và trong cả nước đã
có nhiều vụ đình công của công nhân. Nhưng có một điều đáng lưu ý là các cuộc
đình công đó thường diễn ra không đúng theo trình tự, thủ tục, quy định của pháp
luật, điều này phản ánh trình độ chính trị của công nhân chưa cao, còn mang tính tự
phát, thiếu sự lãnh đạo chặt chẽ. Điều đó, đã đặt ra vấn đề về vị trí, vai trò tiên
phong của giai cấp công nhân trong sự phát triển của các thành phần kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Giai cấp nông dân Việt Nam vẫn là lực lượng đông đảo nhất, họ chiếm tới
80% dân số cả nước. Đây là nguồn tiềm lực quan trọng của mọi thành phần kinh tế,
song, đời sống của nông dân đang có sự phân hoá rõ nét, cùng với đó quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn đến tình trạng đất canh tác của họ bị thu hẹp,
thất nghiệp tạo nên những bức xúc ở nông thôn. Vì vậy, đã phát sinh nhiều điểm
nóng, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
Tầng lớp trí thức Việt Nam phát triển nhanh chóng, cho đến nay đã có hàng
triệu người tốt nghiệp đại học với hàng chục ngàn người có trình độ sau đại học.
Công - nông - trí thức là lực lượng cơ bản của xã hội. Sự liên minh chặt
chẽ của họ là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước
ta hiện nay. Song, tất cả những vấn đề nêu trên cũng ảnh hưởng phần nào tới sự

liên minh này.
Về giai cấp tư sản Việt Nam, hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có
quan điểm cho rằng Việt Nam chưa có giai cấp tư sản. Đây cũng có những cơ sở
chính đáng, bởi thực tế tư sản Việt Nam hiện nay chưa phải là một “tập đoàn
người to lớn”, họ cũng không liên kết thành một lực lượng độc lập, đối diện với
các giai cấp khác. Nhưng sự tồn tại thực tế của họ trong sản xuất kinh doanh
cũng đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn phù hợp. Tất nhiên, không đồng
nhất họ với tư sản nước ngoài và khi giai cấp công nông giành chính quyền.
Song, trên thực tế giữa họ với các giai tầng khác trong xã hội vẫn nảy sinh
20


những mâu thuẫn về kinh tế - xã hội, cần có sự điều chỉnh kịp thời của Đảng và
Nhà nước, tránh để những mâu thuẫn ấy phát triển theo hướng xấu.
Các vấn đề xã hội diễn biến phức tạp cùng với sự biến đổi của cơ cấu giai
cấp - xã hội, , đặc biệt là vấn đề tham nhũng, thoái hoá biến chất của một bộ phận
không nhỏ cán bộ Đảng viên ở tất cả các cấp. Đây là một vấn đề hết sức nhức
nhối của toàn xã hội, nó đã trở thành quốc nạn, trong khi những biện pháp khắc
phục nó đều không có hiệu quả thực sự. Theo đánh giá của Hội nghị lần thứ IX
Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khoá IX (1 - 2004) chỉ trong vòng ba năm, sau
Đại hội IX đã có 45.000 cán bộ đảng viên vi phạm kỷ luật, trong đó, có 69 cán bộ
do Trung Ương quản lý. Đây là một khó khăn hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh
giai cấp hiện nay.
Dựa trên những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, Đảng ta đã đưa ra những
quan điểm đúng đắn về quan hệ giai cấp và những nội dung chủ yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp hiện nay. Tuy nhiên, do chưa có sự nhận thức sâu sắc về mặt
lý luận và chưa đánh giá hết được tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp
hiện nay, do đó, những tinh thần cơ bản đó của Đảng vẫn chưa được thực sự
quán triệt trên phạm vi toàn xã hội.
Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp của chúng ta hiện nay diễn ra trong bối

cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp. Để có thể giành được thắng lợi
trong cuộc đấu tranh đó, đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo và có tinh thần
cách mạng rất cao.
Để góp phần khắc phục tình trạng trên cần phải nhận thức đúng hơn nữa
những vấn đề sau.
1. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
trong cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay.
Khẳng định, những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
đến phát triển kinh tế của đất nước đều được xuất phát từ sự nhận thức và giải
quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam. Đó
chính là việc Đảng ta lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm hàng
21


đầu, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Nhờ đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trở
thành người lãnh đạo, tổ chức mọi lực lượng dân tộc, và lôi cuốn được tuyệt đại
đa số nhân dân tham gia. Việc giải quyết mối quan hệ giai cấp, dân tộc của Đảng
ta hoàn toàn phù hợp với lý luận mác xít, rằng: cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân về bản chất là có tính quốc tế, nhưng cuộc đấu tranh ấy được diễn ra trên
địa bàn dân tộc, và giai cấp công nhân phải trở thành dân tộc, người đại diện cho
dân tộc, lãnh đạo dân tộc chứ không chỉ riêng cho một giai tầng nhất định. Điều
đó, đòi hỏi giai cấp công nhân phải biết khai thác và phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc. Mặt khác, bất kỳ một giai cấp nào cũng có những lợi ích riêng, nhưng
khi đã trở thành giai cấp thống trị xã hội thì nó phải nhân danh lợi ích chung của
toàn xã hội thì nó mới có thể giữ vững quyền thống trị của mình. Do vậy, đặt lợi
ích dân tộc lên trên hết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VNXHCN
hiện nay là một đòi hỏi tất yếu của lịch sử, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của
đất nước, điều đó chỉ sai lầm, hữu khuynh khi chúng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản, từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo
đó cần quan tâm: phát huy tối đa tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc; xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự vững chắc trên nền tảng liên minh công
nông - trí thức, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp, song phải giữ
vững nguyên tắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Nhận thức rõ vai trò trọng tâm của sự phát triển kinh tế trong đấu
tranh giai cấp.
Đây là vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất của thời kỳ quá độ.
Phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, thực chất là phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra được
những nhân tố để thúc đẩy sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế, trên cơ sở
vận dụng sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Bên cạnh việc phát triển tất cả các thành phần kinh tế
cần phải xác định vai trò, vị trí của từng thành phần kinh tế, xác định thành phần

22


nào là trọng tâm trong từng giai đoạn lịch sử. Để xác định vị trí của từng thành
phần kinh tế phải dựa trên trình độ của lực lượng sản xuất.
Ở nước ta hiện nay, lực lượng sản xuất phổ biến là trình độ thủ công thì
thành phần kinh tế phù hợp nhất với nó là thành phần kinh tế tư nhân. Nhưng
kinh tế tư nhân ở Việt Nam hoàn toàn khác với kinh tế tư nhân ở các nước tư
bản chủ nghĩa, bởi, ở Việt Nam thành phần này là một bộ phận quan trọng để
tạo ra sự phát triển của kinh tế thị trường XHCN, tạo tiền đề vật chất kỹ thuật để
xây dựng quan hệ sản xuất XHCN. Muốn phát triển thành phần kinh tế tư nhân,
nhà nước cần tạo ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển nó. Mặt khác, kinh tế
tư nhân trong thời kỳ quá độ thực chất không phải là kinh tế tư bản thuần tuý,
mà là một hình thức của tư bản nhà nước, do đó, vấn đề quan trọng là trong quá
trình phát triển nó, Đảng - Nhà nước phải có sự điều chỉnh các quan hệ sản xuất,
xu hướng vận động của nó, đồng thời phải có sự quản lý của nhà nước. Đảng và
Nhà nước cần chủ động, kịp thời điều chỉnh khi thành phần này đã phát triển

mạnh tạo ra sự mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để thúc
đẩy quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cùng phát triển.
3. Coi trọng cuộc đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá- xã hội.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng hiện nay cũng là một vấn đề
hết sức quan trọng và nhạy cảm, đây là một “trọng điểm” mà kẻ thù tập trung chống
phá, nếu xem nhẹ nó thì sẽ dẫn tới những hậu quả khôn lường về kinh tế - xã hội.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng hiện nay, trước hết phải nhằm phục
vụ cho việc thúc đẩy, phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố thế trận
quốc phòng, an ninh, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh
chính trị - tư tưởng phải kết hợp với đấu tranh kinh tế - văn hoá để tạo nên sức mạnh
tổng hợp để bảo vệ vững chắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, làm thất bại những tư tưởng
phản động, cơ hội dưới mọi hình thức.

23


Bên cạnh đó, phải luôn coi trọng việc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản, nâng cao vai trò, năng lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước. Đó là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở nước ta, nhân tố
quyết định cho cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay. Để hoàn thành được
nhiệm vụ quan trọng này Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên tự đổi mới về mọi
mặt, cả về con người, tổ chức, đường lối, chủ trương chính sách, tổ chức thực hiện,
mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị… đặc biệt là phải tỏ rõ thái
độ kiên quyết không khoan nhượng với các hiện tượng suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức trong cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng, Nhà nước.
4. Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế một cách toàn diện.
Đây là nhân tố tạo điều kiện cho Việt Nam giành được nhiều thắng lợi trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trên

phương diện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Để chiến thắng được chủ nghĩa tư bản khi chưa có tiềm lực lớn hơn chủ
nghĩa tư bản thì cần phải tạo ra tiềm lực kinh tế - xã hội bằng những biện pháp
khôn ngoan và hiệu quả nhất. Một trong những biện pháp đó là mở rộng quan hệ
quốc tế, đặc biệt là với những nước tư bản phát triển, nhằm tiếp thu những thành
tựu kinh tế, khoa học, công nghệ, phương thức tổ chức, quản lý xã hội… nhanh
chóng đạt được mục tiêu “đi tắt đón đầu” rút ngắn quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Tạo nên sự đan cài về lợi ích, sự cạnh tranh và những
động lực mới để phát triển toàn diện đất nước.

24


KẾT LUẬN
Lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết
cách mạng, nội dung chiến đấu triệt để, sâu sắc. Mặc dù tính đến nay đã qua hàng
trăm năm kể từ khi các tư tưởng đó ra đời, song học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị
cả về lý luận và thực tiễn, là cơ sở cho các Đảng Cộng sản các nước và nhân dân tiến
bộ trên thế giới đấu tranh cho công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Từ khi lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin
được Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá vào Việt Nam, được nhận thức và vận dụng
một cách sáng tạo, linh hoạt qua các giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau, phù hợp
với điều kiện lịch sử đặc thù của dân tộc, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giai
cấp, quan hệ giai cấp - dân tộc và quốc tế. Tất nhiên, trong suốt chặng đường dài ấy,
do những nguyên nhân khác nhau, không thể không có những vấp váp, sai lầm tả
khuynh. Song, sau mỗi sai lầm, Đảng Cộng Sản Việt Nam lại đã nhận thức được và
tìm cách khắc phục vượt qua để phát triển đi lên.
Từ kết quả lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn đã đạt được trong sự
nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong những năm vừa qua đã chứng tỏ lý luận
về giai cấp và đấu tranh giai cấp ngày càng được nhận thức và vận dụng đúng đắn
hơn. Việc nghiên cứu sâu sắc lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp là hết sức cần

thiết, trên cơ sở tổng kết lý luận, thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới, rút ra
những vấn đề có tính quy luật để nhận thức nó ngày càng rõ hơn, trên cơ sở đó soi
xét thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay, nhất là những vấn đề nhạy
cảm trong xã hội. Có như vậy chúng ta mới có thể phát triển một cách sáng tạo và
vận dụng ngày càng thành công lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.

25


×