Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học tư TƯỞNG TRIÊT học hồ CHÍ MINH về văn hóa và vận DỤNG XEM xét một số vấn đề về văn hóa ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.99 KB, 15 trang )

Mở đầu
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng của Người là tài sản vô giá của Đảng, nhân dân và mỗi
người dân Việt Nam. Hồ Chí Minh là người đưa chủ nghĩa Mác vào hiện thực
Việt Nam và phát huy giá trị của nó linh hoạt, hiệu quả và mang sắc thái
riêng. Về khía cạnh tư tưởng lý luận, chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh đã thổi một luồng gió mới vào trình độ lý luận của dân tộc, trong đó có
nội dung triết học của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của tư
tưởng triết học Việt Nam, phản ánh bước phát triển nhảy vọt về chất của tư
duy triết học dân tộc trong thời đại mới. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là
phương pháp luận của triết học Mác-Lênin được vận dụng, chuyển hóa vào
cách mạng Việt Nam nhưng có sự đặc sắc riêng có của Hồ Chí Minh.
Với bề dày truyền thống suốt mấy nghìn năm dựng và giữ nước của dân
tộc Việt Nam, văn hóa nói chung và tư tưởng triết học về văn hóa Việt Nam
có vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần và tư duy lý luận dân tộc. Là
người con ưu tú của dân tộc, Hồ Chí Minh ln quan tâm sâu sắc tới văn hóa
và xây dựng nền văn hóa mới. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là nội dung
quan trọng trong tồn bộ hệ thống tư tưởng triết học của Người. Nó thể hiện
sâu sắc và toàn diện những nội dung cơ bản về một nền văn hóa mới- văn hóa
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh vừa là vinh dự vừa là trách
nhiệm của mỗi chúng ta hơm nay. Nó góp phần nâng cao nhận thức và củng
cố niềm tin của mỗi người về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
tạo ra kháng thể miễn dịch, loại bỏ những tàn dư và thù địch trên mặt trận văn
hóa tư tưởng, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc


Nội dung
1. Tư tưởng triết học Hồ Chí minh về văn hóa


1.1. Thế giới quan Hồ Chí Minh về văn hóa
Dưới góc độ triết học, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa chính
là thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa gắn với điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Thế giới quan đó được thể hiện sâu sắc và triệt để
trong quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn”1.
Quan điểm của Hồ Chí Minh thể hiện đầy đủ tư duy triết học, cụ thể là
quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử. Tư tưởng trên khẳng định nguồn
gốc của văn hóa xuất phát từ nhu cầu hiện thực của con người, nhằm phục vụ
trực tiếp cho nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của họ. Chính nhu cầu
đó thúc đẩy con người sáng tạo ra ra các giá trị văn hóa. Con người là chủ thể
sáng tạo và là đối tượng, mục đích của văn hóa. Văn hóa là sự phát huy và
hiện thực hóa năng lực bản chất của con người. Văn hóa được con người tạo
ra khơng nằm ngồi những khả năng hiện thực đang có của mơi trương, hồn
cảnh lịch sử cụ thể. Bởi vì nó là phương thức tồn tại và biểu hiện của nó là sự
thích ứng của con người trong những hoàn cảnh nhất định. Tức là tư tưởng

1

Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1995, TËp 3, tr 431.


triết học về văn hóa của Hồ Chí Minh khẳng định một lần nữa ý thức xã hội
phản ảnh tồn tại xã hội theo đúng quan điểm triết học Mác-Lênin.

Đồng thời tư tưởn trên con xác định được cấu trúc của văn hóa. Đó là
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa bao gồm cả ngơn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật( văn hóa vật
chất) và các cơng cụ, phương tiện đáp ứng nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại, giao
tiếp( văn hóa vật chất). Văn hóa, trong quan niệm của Hồ Chí Minh khơng
phải là những giá trị mà con người đã tạo ra nói chung mà là các giá trị mà
nhân loại đã sáng tạo ra và phục vụ nhu cầu của con người. Những sản phẩm
khác, đi người với lợi ích dân tộc, giai cấp, nhân loại thì khơng phải là văn
hóa. Những sản phẩm đó cần phải được loại bỏ.
Bên cạnh đó, trong tồn bộ tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, người
thường dùng văn hóa với nghĩa hẹp, đó là văn hóa tinh thần, là hoạt động sản
xuất ra các giá trị tinh thần nhằm phục vụ cho nhu cầu con người hướng tới
các giá trị chân, thiện, mỹ. Cịn văn hóa vật chất chẳng qua chỉ là vật thể hóa
các giá trị văn hóa tinh thần, truyền tải các giá trị văn hóa tinh thần. Với cách
hiểu như vậy, văn hóa là một mặt của đời sống tinh thần xã hội. Nó là bộ phận
quan trọng cùng với đời sống vật chất làm nên đời sống xã hội con người
trong mối quan hệ biện chứng với đời sống vật chất.
Từ quan niệm về văn hóa theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, khơng
chỉ nhận thức quan niệm về văn hóa mà cịn xác định phương pháp luận cụ
thể trong nhận thức, xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ đó bao gồm cả việc xây dựng và cải tao được tiến hành trong quá
trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước. Xây dựng văn hóa gắn
với con người, xuất phát từ con người và phục vụ con người và hoàn thiện
con người mới xã hội chủ nghĩa.


1.2 Quan niệm Hồ Chí Minh về bản sắc, bản chất của văn hóa
Tư tưởng triêt học Hồ Chí Minh về bản sắc, bản chất của văn hóa bao
giờ cũng bao hàm nội dung, tính chất của quan hệ hài hịa. Đó là mối quan hệ
hài hịa với tự nhiên và với con người. Cốt lõi trong mối quan hệ hài hịa đó là

sự thống nhất tính dân tộc và nhân loại và vấn đề đại đoàn kết dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, văn hóa khơng phải là một khái niệm mơ hồ, chung
chung mà nó là cụ thể hàng ngày trong chính cuộc sống con người. Văn hịa
là sự hài hòa trong cách cư xử của con người đối với tự nhiên. Người khẳng
định:
“ Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”
Con người là một bộ phận của tự nhiên nhưng con người làm chủ với
tự nhiên, nhưng không tàn phá tự nhiên mà phải cải tạo tự nhiên, để tự nhiên
trở thành nguồn sức mạnh, phục vụ lợi ích cho chính con người. Các giá trị
văn hóa mà con người tạo ra bắt nguồn từ những tiền đề vật chất nhất định,
trong đó có hồn cảnh tự nhiên. Và xuất phát từ nhu cầu, mục đích hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của con người trong khi đó điều kiện hồn cảnh tự
nhiên khơng thay đổi hoặc cạn kiệt dần nên q trình sáng tạo văn hóa là q
trình con người quan hệ hài hịa với hồn cảnh tự nhiên xung quanh mình.
Trên tất cả, con người phải cư xử hài hòa với mọi người xung quanh
hay với chính bản thân mình. Ngay trong giai đoạn kháng chiến chống thực
dân Pháp, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được biểu hiện trong quan niệm về
đối tượng chiến đấu của nhân dân và cách mạng Việt Nam. Người quan niệm:
cuộc chiến đấu của chúng ta không đánh vào nước Pháp và những người dân
lương thiện của nước Pháp, chúng ta đánh chủ nghĩa thực dân Pháp đang đàn
áp và bóc lột Đơng Dương. Tính hài hòa được thể hiện trong quan niệm của


Hồ Chí Minh về đối tượng chiến đấu và mối quan hệ hài hài, đoàn kết giữa
dân tộc Việt Nam và dân tộc Pháp và những người yêu chuộng hòa bình trên
thế giới. Tất cả mọi người trên thế giới dù ở quốc gia, dân tộc nào cũng đều
tìm thấy điểm chung trong lý tưởng của mình. Là một người cộng sản chân
chính nhưng Hồ Chí Minh vẫn tiếp thu và tìm thấy điểm chung của nhiều vĩ
nhân trong lịch sử tư tưởng nhân loại, bởi tinh thần nhân đạo, chủ nghĩa nhân

văn sâu sắc của họ. Người tự nhận mình là học trị của những vị sáng lập ra
các tơn giáo lớn như : Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Giê Su, của các vị cách
mạng tiền bối như Tơn Dật Tiên, C. Mác. Có lẽ vì thế mà một nhà văn - nhà
báo phương Tây đã có nhận xét tinh tế về Người: "ở con người Hồ Chí Minh
mỗi người đều thấy hiển hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được
yêu quý nhất trong gia đình mình…Hình ảnh Hồ Chí Minh được hồn chỉnh
với sự khơn ngoan của Phật, lịng bác ái của Chúa, triết học của C. Mác, thiên
tài cách mạng của V. I.Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả
bao bọc trong dáng dấp rất tự nhiên". Hồ Chí Minh đã gạn đục khơi trong,
tiếp thu những giá trị của tôn giáo như: Đạo lý uống nước nhớ nguồn của đạo
thờ tổ tiên, quan niệm nhân nghĩa của đạo Nho, từ bi của Phật, bác ái, bình
đẳng của Chúa. Người nói:"Chúa Giê Su dạy: Đạo đức là bác ái, Phật Thích
Ca dạy: Đạo đức là từ bi, Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”. Người còn
chỉ ra sự tương đồng của các tôn giáo là: "Mục tiêu cao cả của Phật Thích Ca
và Chúa Giê Su đều giống nhau: Thích Ca và Giê Su đều muốn mọi người có
cơm ăn, áo mặc, bình đẳng chú, tự do và thế giới đại đồng”. Người đánh giá
cao ưu điểm của Nho giáo là trọng tu dưỡng cá nhân và Người đưa ra lời
khuyên: "… chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc
các tác phẩm của Khổng Tử, về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của
V.I.Lênin".


Những nội dung trên, một phần nào đó giúp chúng ta nhận thức tư
tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về văn hóa trong đó nổi bậc là sự thống nhất
và đấu tranh của hai mặt đối lập trong một chủ thể. Hồ Chí Minh phân biệt rõ
“đối tác” và “ đối tượng” ở nước Pháp và nền văn hóa Pháp. Đó cũng là
những bài học sâu sắc trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh nói riêng và tư
tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một chỉnh thể nói chung.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, văn hóa ln là văn hóa của dân
tộc trong mối quan hệ biện chứng với văn hóa thế giới. Khi nói về giá trị văn

hóa nhân văn của con người, Hồ Chí Minh khẳng định: bất kỳ dân tộc nào
cũng có những giá trị văn hóa riêng, dân tộc nào văn hóa ấy. V Dân tộc ta là
một dân tộc anh hùng, Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nớc. Đó là một
truyền thống quí báu của ta. Từ xa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cïng m¹nh mÏ, to lín,
nã lít qua mäi sù nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán níc vµ lị
cíp níc”2. Nhưng bất kỳ dân tộc nào cũng u sự lành và ghét sự dữ, có tính
nhân văn, nhân đạo, yêu thương con người, khoan dung độ lượng. Trong Đề
cương văn hóa soạn thỏa năm 1943, Đảng ta xác định nguyên tắc: “ Dân tộc
hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa” để phát triển nền văn hóa nước nhà.
Những quan điểm đó được Hồ Chí Minh xác định trong Báo cáo chính trị Đại
hội Đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng. Người viết: “ Xúc tiến cơng tác
văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến,
kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của
văn hóa đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa
dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”3.

2
3

Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1995, TËp 6, tr 171.
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1996, TËp 6, tr 173.


Quan điểm đó là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về đặc điểm và quy
luật tồn tại và phát triển của văn hóa. Văn hóa vừa mang những giá trị đặc
trưng riêng có của từng quốc gia dân tộc, thậm chí của từng giai cấp, chế độ,
nhưng cũng vừa mang những giá trị chung, phổ biến của toàn nhân loại trong
giai đoạn cụ thể hay theo chiều dài lịch sử. Văn hóa ln có sự giao thoa và

tiếp biến. Vì vậy, mỗi quốc gia dân tộc, mỗi chế độ xã hội cần xác định và giữ
vững những giá trị văn hóa mang bản sắc của mình nhưng đồng thời phải mở
rộng giao lưu, học hỏi những thành tựu văn hóa của các quốc gia, dân tộc, các
nền văn hóa khác để làm giàu, sinh động và xây dựng nền văn hóa của mình
đủ sức đáp ứng nhu cầu của những chủ thể hưởng thụ nó.
Trong tất cả các giá trị văn hóa của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đồn kết dân tộc mang nhiều nét độc đáo về cả lý luận và thực tiễn. Lối diễn
đạt ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, Người khẳng định tư tưởng triết học của mình
qua tư tưởng về đồn kết dân tộc qua nhiều tác phẩm, nhiều mẫu chuyện,
nhiều câu thơ. Nhưng tựu trung lại là “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết,
thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định
mâu thuẩn nội tại là động lực của sự phát triển của mỗi sự vật hiện tượng
trong thế giới. Nhưng Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong sự bổ
sung những yếu tố “dân tộc học” của Châu Á. Đoàn kết là nguồn gốc của
thắng lợi đúng như quy luật hình thành dân tộc Việt Nam và lịch sử Việt Nam
đã khẳng định điều đó. Nhưng đồn kết theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
khơng phải là đồn kết xi chiều mà nó được hình thành từ những nguyên
nhân tác động cùng chiều và trong mối quan hệ biện chứng với đấu tranh .
Đồn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh ln có mục đích cụ thể. Chính
mục đích chung này là nguyên nhân cùng chiều trong tư tưởng đồn kết Hồ
Chí Minh. Tháng Tám năm 1945, những điều kiện khách quan và chủ quan
cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã hội tụ chín muồi, thời cơ tổng khởi


nghĩa đã đến, lãnh tụ Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể đồng bào: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Trong đồn kết quốc tế cũng như vậy, Hồ Chí
Minh tìm thấy mối liên hệ giữa cách mạng Việt Nam và phong trào đấu tranh
của các bạn Lào, Miên nên đã xây dựng ba nước Đông Dương trong một
phong trào chung, đánh đuổi kẻ thù chung, cùng mục tiêu giành lấy độc lập

dân tộc cho đất nước mình.
1.3 Phép biện chứng trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh cụ thể hóa quy luật về tính phụ thuộc của văn hóa đối với
kinh tế và chính trị. Như đã trình bày ở trên, Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm
văn hóa theo nghĩa hẹp. Văn hóa là những hoạt động sản xuất ra các giá trị
tinh thần, nhằm hình thành ở con người khát vọng vươn tới giá trị chân, thiện,
mỹ. Do đó, văn hóa là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng chịu sự chi phối
trong mối quan hệ biện chứng với cơ sở hạ tầng. Người khẳng định: “ văn hóa
là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi
văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”4. Và “ văn hóa,
nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngồi, mà phải ở
trong kinh tế và chính trị”5.
Trong mối quan hệ biện chứng đó, văn hóa tác động và có vai trị to lớn
đối với kinh tế và chính trị. Văn hóa là nền tảng, động lực của sự phát triển
kinh tế, xã hội, phục vụ cho giai cấp, cho nhân dân. Người viết : “ trình độ
văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi
phục kinh tế, phát triển dân chủ…cần thiết để xây dựng nước ta thành một
nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”6.

Hå ChÝ Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr 345.
Hồ Chí Minh, Toàn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1995, TËp 6, tr 369.
6
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1995, TËp 8, tr 281- tr 282.
4
5


Với tư duy biện chứng về văn hóa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ
của văn hóa “phải soi đường cho quốc dân đi” 7, và “ trong công cuộc kiến
thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau:

chính trị, kinh tế, xã hội, văn” 8. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, “ nói đến đời sống
thì phải nói cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần”9. Quan điểm duy vật
biện chứng của Hồ Chí Minh về văn hóa là cơ sở lý luận cho quá trình xây
dựng nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Văn hóa là một dòng chảy liên tục. Sự phát triển của văn hóa là sự
thống nhất của hai q trình: lọc bỏ những cái xấu, phản giá trị, phản tiến bộ
và kế thừa cái tốt, cái tinh hoa, cái có giá trị. Theo Hồ Chí Minh, trong thời
đại chúng ta, ai cũng ít nhiều mang những vết tích của xã hội cũ. Nên theo
Người, cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái cũ mà phiền phức thì phải sữa đổi, cái
cũ mà tốt thì phải phát triển, cái hay mà mới thì phải làm. Đây chính là sự kế
thừa biện chứng trong nội dung tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa.
Q trình kế thừa đó khơng có giới hạn về không gian và thời gian. Người
học tập văn hóa phương Tây, phương Đơng và tìm thấy ánh sáng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, chính ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin lại là yếu tố quyết
định cho sự kế thừa truyền thống mấy nghìn năm chủ nghĩa u nước của dân
tộc. Đó là: “ Các vua Hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Như vậy, tư tưởng biện chứng triết học Hồ Chí Minh khẳng định, văn
hóa là một sự giao thao và kế thừa trong mối quan hệ với các bộ phận của
kiến trúc thượng tầng và chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng.
Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh phát hiện những
mâu thuẫn trong quá trình phát triển văn hóa và coi văn hóa là một mặt trận
Hå Chí Minh, Về văn hoá, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội 1997, tr 320.
Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hµ Néi 1981, tr 345.
9
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 2000, TËp 10, tr 660.
7
8



phải đấu tranh. Đó là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập đang cịn tồn tại trong
đời sống văn hóa của nhân dân, là cái cũ, lạc hậu với cái mới, tiến bộ; giữa cái
thiện và cái ác; giữa đẹp và xấu; truyền thống và phản truyền thống…Đồng
thời người xác định phương pháp giải quyết là sự kết hợp giữa loại bỏ và xây
dựng trên quan điểm biện chứng. Vì vậy, Hồ Chí Minh phê phán những thói
lai căng văn hóa, quá đề coi văn hóa ngoại, cọi nhẹ văn hóa dân tộc. Người
cảnh báo: “ Có những trí thức Việt Nam rất thông thuộc lịch sử, địa lý và các
chuyện thần thoại của nước Pháp, Hy Lạp và La Mã. Nhưng khi hỏi đến các
vị anh hùng là tổ tiên, ơng cha mình, hỏi đến địa lý nước mình thì mù tịt…coi
chừng có nhiều người Việt Nam lại khơng hiểu rõ lịch sử, đất nước, con
người và những cái vốn q báu của mình bằng người nước ngồi”10. Vì vậy,
người yêu cầu: “ Phải chú ý phát huy hết cốt cách dân tộc, lột cho hết tình
thần dân tộc… để cổ vũ đồng bào ta, để giáo dục con cháu ta”11. Và để thực
hiện được điều đó, giải quyết những mâu thuẫn trong q trình xây dựng nền
văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh ln coi trọng giáo dục. Lấy giáo dục là
phương pháp cơ bản để cảm hóa con người bỏ cái xấu, cái ác để xây dựng nền
văn hóa mới của nước nhà.
Tóm lại, tuy khơng có những tác phẩm triết học riêng biệt bàn về văn
hóa nhưng trong tồn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh có những giá trị triết học sâu
sắc về vấn đề này. Nó làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản nhất của quan
niệm, sự tồn tại và phát triển của văn hóa cũng như nhưng mâu thuẫn nội tại
và phương pháp để xây dựng nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

10
11

Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1996, TËp 12, tr 556- tr 557.
Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hµ Néi 1995, TËp 3, tr 221.



2. Vận dụng những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa để xem xét một số vấn đề về văn hóa hiện nay
2.1Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh tầm nhìn của thời đại
Những quan niệm về văn hóa trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh vẫn
cịn ngun giá trị thời sự và cấp bách trong xem xét những vấn đề văn hóa
hiện nay cũng như giá trị to lớn trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ những quan điểm lớn của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể vận dụng
để xem xét những vấn đề nhỏ đến những vấn đề trọng đại của quốc gia hay
những vấn đề được quốc tế quan tâm. Quan điểm văn hóa là hài hịa, hài hịa
với thiên nhiên và hài hòa với con người của Bác quả thật độc đáo nếu như
nhìn vào vấn đề bảo vệ môi trường mà thế giới hiện nay đang chung tay góp
sức. Nó trở thành tiêu chí quan trọng để xác định chất lượng cuộc sống của
con người hiện nay. Người ta không chỉ quan tâm đến thu nhập, đời sống vật
chất mà hiện nay họ cịn quan tâm đến mơi trường sống, đến vấn đề nước
sạch, khơng khí…điều mà Hồ Chí Minh đã đề cập ở giữa thế kỷ trước.
Trong đời sống quốc tế hiện nay, vấn đề nhân quyền được quan tâm sát
sao. Bởi vì nó là giá trị nhân văn cao quý nhất. Con người phải ứng xử hài
hòa với với con người. Trong một cộng đồng chung, mọi người đều có quyền
bình đẳng, tự do, có quyền được có “ cơm ăn, áo mặc”, “ học hành”. Đó là
trách nhiệm chung của cộng đồng xã hội, là mục tiêu mà nhân loại hướng đến.
Trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh đã xuất hiện “đối tượng” và “đối
tác” dù là trong lĩnh vực văn hóa. “ Đối tượng” và “đối tác” là khái niệm mà
đảng ta đã vận dụng sau thời kỳ đổi mới, trong quá trình hội nhập của đất
nước. Chính sự vận dụng đó đã xóa bỏ tư duy dập khn, máy móc đã đè
nặng lên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội của đất nước trong một chặng
đường tương đối dài. Chúng ta tách biệt giữa đối tượng và đối tác. Đối tác là


hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản cơng nhân quốc

tế. Cịn đối tượng là các nước tư bản chủ nghĩa, các nước thực dân, đế quốc.
Chính điều này đã cơ lập nước ta về văn hóa, khoa học kỹ thuật và những
thành tựu khác mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh là nguồn gốc, cơ sở lý luận trực tiếp cho quá
trình đổi mới và hội nhập của nước ta hiện nay.
Phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta kế thừa và vận
dụng sáng tạo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh trong xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh đã khẳng định văn
hóa là một dịng chảy liên tục, nó có sự giao thoa và tiếp biến trong quá trình
phát triển của mình. Vì vậy, để xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn mới cần kết hợp cả yếu tố tuyền thống và hiện đại. Những nội dung cơ
bản của nền văn hóa đó cần đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
nhân dân mà cơ bản là sự tích hợp cả yếu tố truyền thống và hiện đại; dân tộc
và nhân loại. Chỉ có như vậy mới phát triển nền văn hóa Việt Nam theo thời
đại mới và chỉ có nền văn hóa với đầy đủ đặc điểm, tính chất đó mới đáp ứng
đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.
Quá trình phát triển của văn hóa nước nhà ln chứa đầy mâu thuẩn.
Những mâu thuẫn đó được giải quyết thơng qua biện pháp giáo dục. Đảng
Cộng Sản Việt Nam khẳng đinh: cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Giáo dục đóng vai trị quan trọng trong xây dựng nền văn
hóa mới, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, xây dựng đạo đức cách mạng.


Từ những nội dung đã phân tích, để tiếp tục quán triệt và thực hiện tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa cần có phương pháp luận tổng quát
đồng thời thực hiện tốt các biện pháp cụ thể sau:
Một, bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm,
chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao văn hóa để tạo sự
phát triển đồng bộ của các lĩnh vự trên trong một chỉnh thể thống nhất.
Hai, tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc

dân tộc trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa nhân loại và bảo
tồn, phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền, các nét đẹp văn hóa dân tộc.
Đấu tranh chống khuynh hướng sùng ngoại, lai căn hiện nay.
Ba, phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các
dân tộc anh em, làm phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì
của cố nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu
tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại khối
đoàn kết dân tộc.
Huy động mọi tiềm lực xã hội cho sự nghiệp văn hóa. Đảng, Nhà nước
có cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện cho văn hóa nước nhà phát triển
đúng hướng và vững chắc, phục vụ tối ưu nhu cầu văn hóa của nhân dân.


Kết luận
Cùng với triết học Mác-Lênin, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là cơ sở
thế giới quan, phương pháp luận khoa học của Đảng ta trong xây dựng đường
lối chiến lược, sách lược đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của thế giới
quan và phương pháp luận triết học Mác-Lênin, Hồ Chí Minh.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa là sự vận dụng linh hoạt,
sáng tạo triết học Mác-Lênin vào xem xét lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam. Tư
tưởng đó đã xác định rõ nguồn gốc, quan niệm về văn hóa, nội dung và các
yếu tố cơ bản của văn hóa làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu, xem xét các vấn
đề về văn hóa và quan trọng hơn là xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang thực hiện xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là một trong những nội
dung quan trọng trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về văn hóa. Thực hiện
tư tưởng đó của Người khơng chỉ là tình u và trách nhiệm mà là vấn đề có
tính khoa học cần thiết để xây dựng và đáp ứng nhu cầu cần thiết trong đời

sống nhân dân. Xây dựng nền văn hóa mới kết hợp với đấu tranh loại bỏ
những tàn dư văn hóa cũ, lạc hậu, tiếp thu nhưng thành tựu văn hóa mới của
nhân loại, giai cấp và đồng bào anh em để làm giàu cho nền văn hóa nước
nhà. Có như vậy, Đảng, nhà nước và nhân dân ta mới xây dựng được nền văn
hóa mới của chế độ xã hội mới-nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.


Tài liệu tham khảo
1. Hồng Chí Bảo (1998), “Tìm hiểu tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh”,
Thơng tin lý luận, số 5, Tr.10-19.
2.C.Mác- Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20
3. Lê Hữu Nghĩa (2000), “ Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh”, Nxb Lao Động,
Hà Nội, tr214.
4. Nguyễn Đức Đạt (2001), “Quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh”, Triết
học, Tháng 7, số 4 (122),Tr.15-17.
5. Học viện Chính Trị Quân sự: Hỏi- Đáp triết học Mác-Lênin, Nxb. Quân đội
nhân dân
6.Hå ChÝ Minh, Toµn tËp, Nxb CTQG, Hà Nội 1996, Tập 12.
7.Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội
1981
8.Hồ Chí Minh, Về văn hoá, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội 1997
9.Hi ng lý lun Trung ương: Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2008.



×