Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận “KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.88 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A. Mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài:…………………………………………………………………….......2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:……………………………………………………...2
3. Phương pháp nghiên cứu:………………………………………………………………..3
4. Kết cấu đề tài:………………………………………………………………………........3
B. Nội dung:
1. Chương 1: Những vấn đề lý luận về KH - CN và đạo đức trong điều kiện hiện đại hóa
xã hội:
• KH - CN trong điều hiện hiện đại hóa xã hội....………………………................4
• Tác động của KH - CN đối với đạo đức………………………………………....4
2. Chương 2: Thực trạng KH - CN……………………………………………................10
3. Chương 3: Phương hướng và giải pháp…………………………………….................13
C. Kết luận:……………………………………………………………………................16

1


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên thế giới
và tác động sâu sắc đến quá trình phát triển của các nước, nhất là các nước đang và chậm phát
triển. Nó trở thành nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đưa nhân loại
tiến đần đến một nền văn minh mới. Bởi vậy, để hoà vào dòng chảy chung, các nước chậm
phát triển không thể không tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó khoa học và
công nghệ có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, ngoài mặt tích cực, trong bối cảnh
của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học, kỹ thuật và công nghệ nào để lại những
hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực đạo đức. Do
vậy, việc làm rõ mối quan hệ, sự tác động của khoa học và công nghệ đối với đạo đức trong
điều kiện kinh tế thi trường là cần thiết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Trong quan niệm của triết học macxít, giữa khoa học, kỹ thuật và công nghệ với đạo đức


có mối quan hệ gắn bó, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, khoa học, kỹ thuật và
công nghệ cùng với những thành tựu của nó luôn là cơ sở và nền tảng cho sự hình thành, phát
triển các giá trị đạo đức thực sự, chân chính của con người.
Thực tế đã chứng minh rằng sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại cùng với việc nó đang từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp không chỉ làm
thay đổi vị trí của con người trong quá trình sản xuất, mà hơn thế, còn làm thay đổi căn bản
chính nền sản xuất xã hội. Do đó, khoa học, công nghệ cũng tác động mạnh mẽ đến sụ phát
triển của đạo đức, làm thay đổi thang giá trị và những nguyên tắc chi phối hoạt động của con
người, của xã hội.
Sự tác động của khoa học và công nghệ đến sự phát triển của đạo đức mang tính hai mặt.
Dựa vào những tri thức, vào sự hiểu biết khoa học (vốn ngày càng phong phú và đa dạng) và
thông qua công nghệ, con người với tư cách là những chủ thể đạo đức, một mặt, nhận thức,
đánh giá và lựa chọn đúng đắn các giá trị đạo đức, mặt khác, xác định được các biện pháp,
cách thức ứng xử hợp lý nhằm điều chính hành vi của mình trong đời sống đạo đức xã hội.
Xu hướng chung của sự phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại là hướng tới phục
vụ con người ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn. Đó vừa là mục tiêu, vừa là chuẩn mực đạo đức
cao nhất của sự phát triển khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là bất cứ
ở đâu, bất ký lúc nào sự tác động của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đối với đạo đức cũng
diễn ra theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh mặt tích cực, sự tác động đó còn bao hàm mặt
tiêu cực. Tính chất và mức độ của sự tác động đó như thế nào, một mặt, phụ thuộc vào các
yếu tố như chế độ chính trị, nền tảng kinh tế - xã hội, nhu cầu và lợi ích giai cấp, dân tộc...
mặt khác, phụ thuộc vào chính bản thân các thành tựu khoa học, công nghệ.
Để thúc đẩy Khoa học - Công nghệ phát triển, phát huy tính tích cực của nó, đồng thời hạn
chế mặt tiêu cực trong đời sống xã hội hiện đại, tôi chọn đề tài: “KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI”

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
 Mục đích:
Trên cơ sở hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về Khoa học - Công nghệ
trong điều kiện hiện đại hóa xã hội và tác động của nó tới đạo đức để phân tích thực trạng

2


nước ta và đề ra phương hướng, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để phát huy mặt tích
cực và khắc phục mặt tiêu cực của KH - CN và đạo đức.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những nội dung sau:
- Một là, khái quát những vấn đề lý luận chung về KH - CN trong điều kiện hiện đại hóa
xã hội. Làm rõ sự cần thiết của việc phát triển KH - CN và áp dụng những thành tựu của
KH - CN một cách hiệu quả nhất.
- Hai là, chỉ ra tác động tích cực và tiêu cực của KH - CN tới đạo đức con người.
- Ba là, đưa ra phương hướng, mục tiêu để đề ra một số giải pháp nhằm phát huy tính tích
cực và giảm thiểu tính tiêu cực của KH - CN
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp thu thập và xử lí thông tin.
- Phương pháp so sánh.
4. Kết cấu đề tài: Tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, tiểu luận được bố cục
thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về KH - CN và đạo đức trong điều kiện hiện đại hóa
xã hội.
- Chương 2: Thực trạng của khoa học công nghệ.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp.

3


B. NỘI DUNG


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG
ĐIỀU KIỆN HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI

* Khoa học - công nghệ trong điều kiện hiện đại hóa xã hội:
Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang là quá trình mang tính toàn cầu. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là việc áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ để đổi
mới về căn bản và nâng cao toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của xã hội, từ kinh tế đến chính
trị, văn hoá,… Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII của
Đảng đã xác định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học
và công nghệ”, “khoa học - công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”.

Tuy nhiên, khi đóng vai trò là nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
những thành tựu của khoa học - công nghệ vẫn có thể gây ra những tác động tiêu cực nhất
định đến tiến bộ xã hội và đặc biệt là đến sự phát triển nhân cách đạo đức con người. Ngay từ
thế kỷ XIX, C.Mác đã cảnh báo về tính hai mặt hay nghịch lý của việc áp dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ. Ông viết: “Chúng ta thấy rằng, máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong
việc giảm lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại
đem nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới, từ xưa đến
nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc
của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái giá của sự
suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người càng chinh phục được tự nhiên nhiều hơn thì
con người lại càng trở thành nô lệ của những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính
mình”. Nghịch lý đó dường như càng thể hiện rõ rệt hơn trong điều kiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Năm 1988, Fedérico Mayor cũng nhận xét: “Chưa bao giờ như ngày nay, sự
căng thẳng giữa khoa học và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực điểm đã trở
thành mối đe dọa toàn thế giới”. Vì thế, việc nhận diện biểu hiện và xem xét cơ chế tác động
của tiến bộ khoa học - công nghệ đối với đạo đức là cần thiết nhằm xác định giải pháp cho
4



việc phát huy những tác động tích cực, khắc phục tác động tiêu cực của tiến bộ khoa học công nghệ trong điều kiện hiện nay.
* Tác động của khoa học - công nghệ đối với đạo đức:
 Thứ nhất: Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, tiến bộ khoa học - công nghệ
tạo điều kiện cho việc mở rộng sản xuất và tăng năng suất lao động. Từ đó dẫn tới sự phát
triển kinh tế, gia tăng thu nhập của xã hội và con người.
Theo Ngân hàng thế giới, tiến
trình toàn cầu hoá với các nước đang phát triển giữ vai trò trung tâm sẽ giúp thu nhập thế giới
trong 25 năm tới tăng nhanh hơn so với giai đoạn 1980 – 2005, đưa tổng giá trị GDP toàn cầu
tăng từ 35.000 tỉ USD năm 2005 lên 72.000 tỉ USD vào năm 2030(4). Đồng thời, sự phát
triển kinh tế và khoa học - công nghệ vừa làm cho các lĩnh vực sản xuất, các lĩnh vực hoạt
động nghề nghiệp gia tăng và mở rộng, vừa tạo điều kiện cho con người tham gia sâu rộng
vào các hoạt động, các quan hệ xã hội. Tất cả những điều đó tác động thuận lợi đến sự phát
triển đạo đức. Tác động này thể hiện cả trên bình diện xã hội, cả trên bình diện cá nhân.

Trên bình diện xã hội, dưới tác động của tiến bộ khoa học – công nghệ, cùng với
sự mở rộng phạm vi của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội, phạm vi điều chỉnh lợi ích
và do đó, phạm vi điều chỉnh của đạo đức được mở rộng. Sự mở rộng phạm vi điều chỉnh
của đạo đức chính là một trong những biểu hiện của tiến bộ đạo đức.

Trên bình diện cá nhân, do có nhiều điều kiện hơn và được tham gia nhiều hơn
vào các hoạt động, các quan hệ xã hội, nhân cách nói chung và nhân cách đạo đức của con
người nói riêng có thêm điều kiện để phát triển. Hơn thế, đạo đức giờ đây được thể hiện ra
trong tính tích cực xã hội của con người, thay vì thứ đạo đức trong xã hội truyền thống mang
nặng tính thụ động bởi con người không có nhiều cơ hội gia nhập vào các quan hệ, các hoạt
động xã hội.
Tuy nhiên, tiến bộ khoa học - công nghệ trong điều kiện kinh tế thị trường lại đẩy mạnh
quá trình cạnh tranh kinh tế. Những người đi tiên phong trong việc đổi mới công nghệ sẽ thu
được nhiều lợi nhuận, lợi nhuận siêu ngạch so với những người khác. Vì vậy mà mặc dù, tổng

thu nhập xã hội tăng lên nhanh chóng, nhưng phân phối lại không đồng đều. Cùng với tiến bộ
khoa học - công nghệ là sự phân cực giàu nghèo ngày một sâu sắc. Ngày nay, khi một nhóm
nhỏ giới chủ các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia giàu lên nhanh chóng, thì hơn 1 tỷ
người lao động trên toàn thế giới, bao gồm cả hàng trăm triệu người ở các nước tư bản phát
triển nhất, lại rơi vào cảnh đói nghèo, bệnh tật, thất học và bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển.
Theo Báo cáo về phát triển con người năm 1999 của UNDP, mức chênh lệch về thu nhập
giữa 20% dân số thế giới sống ở các nước giàu nhất và 20% dân số thế giới sống ở các nước
nghèo nhất đã tăng từ 30/1 năm 1960 lên 74/1 năm 1997. Theo Ngân hàng thế giới, năm
2006, tổng số người nghèo ở châu á là 1,9 tỷ, trong khi đó, tổng số người giàu (1triệu USD
trở lên) chỉ là 9,5 triệu. Hơn thế, đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ vào các nước
đang phát triển đã gạt ra ngoài lề nền sản xuất xã hội hàng loạt người lao động trong các
ngành nghề truyền thống. Điều đó vừa làm gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng tại các quốc
gia đang phát triển, vừa làm gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia phát triển với các quốc
gia đang phát triển. Đối lập quá mức giữa giàu nghèo, bất bình đẳng, thất nghiệp,… đó chính
5


là điều kiện kinh tế, xã hội dẫn tới sự thù hận, bạo lực, các tệ nạn xã hội, nghĩa là dẫn tới sự
xuống cấp đạo đức trong xã hội hiện đại.
 Thứ hai: Trong điều kiện kinh tế thị trường, những thành tựu khoa học - công nghệ
chính là tác nhân trực tiếp và quyết định nhất rút ngắn chu trình và mở rộng đầu tư sản xuất.
Nhưng để rút ngắn chu trình và mở rộng sản xuất thì phải khuyến khích tiêu thụ. Trong điều
kiện của xã hội hiện đại, khuyến khích tiêu thụ (kích cầu) chính là một trong những động lực
trực tiếp để phát triển sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập xã hội. Hơn thế, trên
bình diện cá nhân, kích cầu nghĩa là khuyến khích tiêu dùng cho phát triển thể chất cũng như
phát triển tinh thần tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mở rộng và phát triển sản xuất
trong điều kiện hiện đại, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển nhân cách đạo đức. Nhưng
cùng với vai trò và ý nghĩa đó, việc khuyến khích tiêu thụ từ chỗ chỉ là một yêu cầu có tính
tất yếu về mặt kinh tế lại dẫn tới sự hình thành lối sống tiêu thụ đặc trưng cho xã hội hiện
đại.

Trong các xã hội tiền thị trường, kể cả phương Đông và phương Tây, do sự kém phát triển
về kinh tế và công nghệ, thu nhập thấp, nên nhìn chung, con người không thể có mức sống
cao được. Do vậy, tiết dục và tiết kiệm là yêu cầu phổ biến của lối sống; đó cũng là chuẩn
mực đạo đức phổ biến, tiêu biểu và đặc trưng cho đạo đức xã hội. Trong các xã hội truyền
thống, tiết kiệm được coi là đức tính, hoang phí bị coi là thói xấu về mặt đạo đức. Ngược lại,
trong xã hội hiện đại, lối sống tiêu thụ đã thay thế cho lối sống tiết kiệm. Lối sống tiêu thụ
dựa trên nguyên lý: cái gì mới, hợp mốt là cái có giá trị; cái gì cũ, không hợp mốt là không
còn giá trị. Dưới tác động của nguyên lý này, người ta đua nhau tiêu dùng, mua sắm, xài sang
để khẳng định sự sành điệu. Càng tiêu thụ, con người càng thấy thiếu, càng khát tiêu thụ.
Việc khẳng định sự sành điệu qua tiêu thụ trước hết được thực hiện ở những người giàu có,
những người có quyền lực, ở giới trẻ. Điều đó dẫn đến sự đối lập giữa họ với tầng lớp nghèo
khó của xã hội, nghĩa là dẫn đến tâm lý bất bình ở tầng lớp nghèo khó. Nhưng với tư cách là
một đặc trưng của xã hội hiện đại, lối sống tiêu thụ với những độ khác nhau cũng ảnh hưởng
tới toàn xã hội, kể cả người nghèo. Khi nhu cầu tiêu dùng, dưới áp lực của lối sống tiêu thụ,
vượt quá khả năng kinh tế thì trong không ít trường hợp, người ta sẽ vi phạm pháp luật và đạo
đức, thực hiện những hành vi tiêu cực, như làm ăn phi pháp, biển thủ công quỹ, trộm cướp,…
Lối sống tiêu thụ, do vậy, cũng là một trong những tác nhân dẫn đến những tiêu cực về mặt
đạo đức.
 Thứ ba: Dưới tác động của khoa học - công nghệ, nhịp độ công nghiệp hóa, đô thị hóa
ngày một gia tăng. Nhịp độ này được thể hiện rõ nét nhất ở mức độ gia tăng tỷ lệ dân số đô
thị. Nếu như, vào những năm đầu thế kỷ XX, tỷ lệ dân số đô thị ở Nhật Bản khoảng 20%, ở
châu Âu khoảng 30% thì đến nay, tỷ lệ này đã lên tới trên 90%, thậm chí ở Bắc Âu lên tới
trên 95%. Hiện nay, diện tích các thành phố trên thế giới chỉ chiếm 0,3%, nhưng dân số từ
năm 1960 đến năm 2000 đã tăng gấp 3 lần, đạt 3,2 tỷ người tức là 1/2 dân số thế giới.
Sự gia tăng dân số đô thị là kết quả của sự phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ. Sản xuất
công nghiệp lôi cuốn lao động nông thôn vào các khu công nghiệp, đô thị; các khu công
nghiệp, đô thị được mở rộng hoặc xây dựng mới nhằm đáp ứng nhu cầu của phát triển sản
6



xuất, của công nghiệp hoá. Dân số đô thị tăng lên quá nhanh và thông thường là nhanh hơn
khả năng cung ứng những dịch vụ hạ tầng, chẳng hạn giao thông, điện nước, cơ sở giáo dục,
y tế,… Hơn thế, con người lại bị cách biệt với thiên nhiên và bị dồn nén vào những khu dân
cư đông đúc và thường là chật hẹp. Điều đó dẫn đến tình trạng gia tăng áp lực cuộc sống,
kích thích bạo lực và các tệ nạn xã hội. Đối với những quốc gia phát triển, quá trình đô thị
hoá mang tính tự giác hơn, nghĩa là được quy hoạch một cách hợp lý nhằm đảm bảo sự cân
bằng giữa việc đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất với việc đáp ứng các nhu cầu sống ngày
càng cao của con người. Điều đó làm giảm bớt đi áp lực cuộc sống. Ngược lại, với những
quốc gia chậm phát triển, quá trình gia tăng đô thị hoá thường là mang tính tự phát. Đô thị
hoá tự phát là quá trình gia tăng và mở rộng đô thị một cách tự phát, thiếu quy hoạch khoa
học, là hệ quả của sự gia tăng dân số cơ học và những làn sóng nhập cư ồ ạt, cũng như sự
quản lý yếu kém của các cấp chính quyền. Điều đó dẫn tới sự gia tăng tội phạm, bạo lực, tệ
nạn xã hội với tư cách biểu hiện của tình trạng xuống cấp đạo đức.
Quá trình đô thị hoá còn dẫn đến tình trạng xáo trộn cư dân, sự ly hương cư dân nông
thôn. Khi con người rời bỏ quê hương vào thành phố, vào các khu công nghiệp với nghề
nghiệp mới, cuộc sống mới thì mối dây liên hệ với gia đình, quê hương bị suy yếu đi. ở các
khu công nghiệp, các thành phố mới, con người từ tứ xứ không thể ứng xử với nhau theo
những chuẩn mực văn hóa, đạo đức thuần tuý của quê hương mình nữa. Học giả phương Tây
nổi tiếng - E.Fromm đã đưa ra cách nhìn nhận tiêu cực về hiện tượng này. Theo ông, trong
điều kiện như vậy, định hướng lối sống, đạo đức của họ không có gì khác hơn là những định
hướng từ truyền thông đại chúng. Công nghiệp hoá, đô thị hóa, truyền thông đại chúng với tư
cách kết quả của tiến bộ công nghệ đã biến những con người vốn có một truyền thống văn
hoá thành những kẻ nặc danh, trống rỗng, không bản sắc, chỉ biết trông cậy vào truyền thông
đại chúng để định hướng cho các ứng xử của mình. Họ trở thành những khối đại chúng, yếu
tố cấu thành hệ thống truyền thông đại chúng và là đối tượng phục vụ của truyền thông đại
chúng. Cách nhìn nhận có phần thái quá như vậy chắc là không hoàn toàn hợp lý. Nhưng đô
thị hoá với việc làm suy yếu đi mối dây liên hệ của con người với gia đình và quê hương
chính là một trong những tác nhân làm suy giảm các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống.
 Thứ tư: khi cả thế giới đang từng bước trở thành một đại thị trường thì sự đồng nhất
hoá các tiêu chuẩn của công nghệ sản xuất, của tiêu dùng trở thành một tất yếu. Ngày nay,

một chiếc máy bay Boing được xuất xưởng ở Mỹ, nhưng các cấu kiện của nó lại được chế tạo
tại nhiều nơi trên thế giới. Để thực hiện được điều đó, người ta phải quy cách hoá, chuẩn hoá
các cấu kiện của máy bay. Cũng như vậy, một sản phẩm dệt may hoặc hải sản Việt Nam
muốn gia nhập thị trường quốc tế phải đáp ứng các yêu cầu, các quy định chất lượng sản
phẩm quốc tế. Sự đồng nhất hoá các tiêu chuẩn của công nghệ, của sản phẩm là nhằm đáp
ứng các yêu cầu của sản xuất, kinh doanh trong điều kiện hiện đại. Nhưng sự đồng nhất hoá
đó lại là tác nhân gián tiếp dẫn tới sự đồng nhất hoá các chuẩn mực của lối sống, hành vi ứng
xử, của quan niệm, thói quen và thị hiếu, nghĩa là của các giá trị văn hoá, đạo đức.
Ngày nay, Mỹ là siêu cường quốc về kinh tế và công nghệ (bao gồm cả công nghệ trong
lĩnh vực quân sự). ảnh hưởng của Mỹ về kinh tế và công nghệ đối với phần còn lại của thế
giới là cực kỳ lớn. Đồng thời, chủ nghĩa bá quyền về văn hoá luôn thường trực trong đầu óc
7


giới lãnh đạo Mỹ và luôn thể hiện ra qua hệ thống truyền thông đồ sộ và hiện đại nhất thế
giới đã và đang dẫn đến tình trạng là, sự đồng nhất hoá văn hoá trên phạm vi toàn cầu là một
thực tế, và thực tế này in đậm dấu ấn Mỹ hoá.
Khắp nơi trên thế giới, người ta đua nhau bắt chước mô thức văn hoá Mỹ, phong thái xã
hội Mỹ, kiểu cách hưởng thụ Mỹ, sử dụng, tiêu dùng các văn hoá phẩm Mỹ. Có học giả
người Pháp lo ngại rằng, đến một thời điểm không xa nào đó, người Pháp không biết đến
phim Pháp nữa mà chỉ xem phim Mỹ qua các phương tiện kỹ thuật của Nhật Bản; còn người
Anh lại lo ngại rằng, với tốc độ Mỹ hoá hiện nay, trong tương lai không xa, cả thế giới sẽ nói
tiếng Mỹ (Anh - Mỹ) và đẩy tiếng Anh nguyên bản trở thành một thứ thổ ngữ riêng của người
Anh.
 Thứ năm: Truyền thông, đặc biệt là viễn thông (telecommunication) là một thành tựu
kỳ diệu của khoa học - công nghệ hiện đại. Vai trò và tiện ích của nó là điều hiển nhiên
không còn phải nghi ngờ gì nữa. Tuy vậy, trên bình diện văn hoá, đạo đức, ít ra vẫn có hai
điều đáng lo ngại dưới tác động của thành tựu kỳ diệu này.
Do có ưu thế vượt trội trong việc cung cấp thông tin, truyền thông đại chúng thường bị
lạm dụng trong việc đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con người với ngoại giới. Thay vì tham

gia trực tiếp vào các hoạt động hay các quan hệ giao tiếp của cuộc sống sinh động, con người
ngồi lỳ hàng giờ trước màn hình ti vi hoặc vi tính, giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua
một thế giới ảo. Cái thế giới ảo ấy thực sự có ích, khi nó không tiêu tốn quá mức thời gian
của con người. Còn trong trường hợp ngược lại thì, nó trở thành một thứ phản tác dụng, đặc
biệt là với trẻ em. Những nghiên cứu thực nghiệm đối chứng ở Mỹ đã cho thấy, những trẻ em
xem ti vi nhiều thường kém phát triển trí tưởng tượng hơn những trẻ em ít xem ti vi. Về mặt
tâm lý, điều đó cản trở sự phát triển tình cảm ở trẻ em. Tình cảm chính là cơ sở tâm lý của
quan hệ và hành vi đạo đức. Con người xa lánh con người, không biết đến bổn phận đối với
người khác, đối với xã hội là con người kém phát triển về mặt tình cảm. Một trong những
hiện tượng xuống cấp đạo đức trong xã hội hiện đại là sự suy giảm tình cảm đạo đức biểu
hiện ở tính ích kỷ và chứng vô cảm về mặt xã hội của con người. Điều đó có nguyên nhân từ
cơ chế thị trường, nhưng cũng có nguyên nhân từ sự lạm dụng và không làm chủ được các
thành tựu của tiến bộ khoa học - công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay, với sự xuất hiện và hoạt động của mạng Internet trên phạm vi
toàn cầu, nhân loại lại phải đối mặt với một tình huống đạo đức khó giải quyết. Cũng như
truyền thông nói chung, Internet xúc tiến sự giao tiếp giữa người và người, góp phần tạo ra
tiếng nói chung và sự hiểu biết lẫn nhau, sự đồng cảm và tinh thần hữu nghị. Nhưng một khi
không có cơ chế và một thái độ tích cực đối với việc quản lý thì mặt trái của Internet lập tức
thể hiện tác dụng. Thực tế cho thấy, hiện nay, nhiều quốc gia không quản lý được hoạt động
của thông tin trên Internet. Những văn hoá phẩm độc hại được đưa vào mạng và tác động
tiêu cực đến sự phát triển đạo đức ở hàng loạt quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phương
Đông. Lo ngại về tình trạng này, ngay ở Autralia, một vài học giả đã lên tiếng đòi đình chỉ
hoạt động của Internet. Làm sao có thể đình chỉ được sự hoạt động của một thành tựu khoa
học - công nghệ kỳ kiệu như Internet; đòi hỏi trên chẳng qua chỉ là sự cảnh báo và nhắc nhở
8


trách nhiệm của xã hội và con người đối với sự sáng tạo và sử dụng những thành tựu khoa
học - công nghệ, mà khách quan, chúng luôn có xu hướng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của con
người.

 Thứ sáu: Nói đến tiến bộ khoa học - công nghệ trong điều kiện hiện nay không thể
không kể đến những thành tựu trong lĩnh vực sinh học, sinh học người, y học,… Nhân bản vô
tính, biến đổi gien, sinh sản nhân tạo, cấy ghép các cơ quan, các phủ tạng người,… mỗi thành
tựu như vậy đều mở ra những triển vọng lớn đối với sản xuất và bảo vệ sức khoẻ con người;
nhưng mỗi thành tựu như vậy lại đặt ra những nan giải, những tranh luận về đạo đức. Chính
vì vậy mà khi cừu Dolly ra đời bằng nhân bản vô tính vào năm 1997 thì nhân loại đón nhận
thành tựu này với những tâm trạng khác nhau: vừa mừng, vừa lo. Watson - một trong hai
người nhận giải Noben với phát hiện cấu trúc ADN, cho rằng, khi được thực hiện ở loài
người thì nhân bản vô tính sẽ có hậu quả ghê gớm, nếu như người ta theo đuổi mục tiêu tạo ra
nòi giống của những nhân vật kiệt xuất. Khi đó lấy gì bảo đảm cho quyền sống, phẩm giá của
con người và các dân tộc khác nhau trên thế giới.
Sau cùng, đặc trưng của xã hội hiện đại là sự thay đổi nhanh chóng các thế hệ công nghệ
và sản phẩm công nghệ. Chẳng hạn, một kiểu ti vi hoặc máy vi tính nào đó, khi mới xuất hiện
thì nó là kiểu hiện đại nhất; nhưng chỉ sau dăm năm nó đã có thể bị thay thế bởi kiểu hiện đại
hơn, với những chức năng đa dạng hơn. Như vậy, một thế hệ công nghệ hay một sản phẩm
công nghệ đang có giá trị thậm chí, đang là thời thượng, mốt, thì chỉ trong tương lai không xa
đã trở thành lạc hậu hoặc hết mốt, nghĩa là không còn giá trị nữa. Sự thay đổi nhanh chóng ấy
khuyên người ta không nên nhìn nhận giá trị của sự vật một cách bất biến, trường tồn. Đồng
thời, trong quan hệ thị trường, cơ hội không nhiều mà dễ mất, rủi ro không muốn nhưng
nhiều khi không tránh khỏi, mặc dù đã được tính toán kỹ lưỡng. Tất cả những điều đó dạy
người ta không nên trở thành nô lệ cho các nguyên tắc, các quy phạm của quá khứ mà cần tìm
ra giá trị có thể biện hộ được bằng lý tính trong đời sống hiện thực. Điều này có tính hợp lý
của nó, nhưng nó lại là tác nhân làm nảy sinh xu hướng thực dụng mà trong điều kiện kinh tế
thị trường, có người gọi đó là phương thức tìm kiếm giá trị tiền mặt. Hơn thế, trong đời sống
tinh thần, cái lối tìm kiếm giá trị tiền mặt đó khiến cho người ta khó tin vào những chân giá
trị, những giá trị tinh thần, đạo đức trường tồn. Trong các xã hội nông nghiệp, công nghệ
không phát triển, xã hội tĩnh lặng, đời sống tinh thần của con người được an bài bởi những
giá trị, những định hướng được coi là vĩnh hằng. Các giá trị đạo đức của Thiên chúa giáo, Hồi
giáo, Phật giáo, Nho giáo,… đã định hướng tinh thần cho con người hàng ngàn năm; và hàng
ngàn năm, con người yên tâm nương gửi tâm hồn vào những giá trị đó. Nhưng, với sự biến

động của kinh tế và công nghệ, con người không còn những giá trị trường tồn để mà tin
tưởng, để mà noi theo. Vì thế, trong xã hội hiện đại, thường xuất hiện tâm trạng hoài nghi, bất
an về mặt tinh thần, chủ nghĩa hư vô về mặt đạo đức.
Những tác động mang tính hai mặt trên chính là những thách thức đối với sự phát triển
đạo đức nói riêng, sự phát triển con người và xã hội nói chung trong điều kiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, thông qua việc tăng cường áp dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ.
Những tác động này, dưới những hình thức, những mức độ nhất định cũng đang thể hiện
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, vấn đề
9


đặt ra là, đối diện với những nghịch lý đó, chúng ta cần chủ động và tích cực tìm kiếm các
giải pháp nhằm phát huy những phương diện tích cực, khắc phục những phương diện tiêu cực
từ những tác động mang tính hai mặt đó để sao cho tiến bộ khoa học - công nghệ thực sự biểu
trưng cho sức mạnh bản chất của con người, thực sự là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
Nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ trong nửa cuối thế kỷ XX, con người đã có
trong tay những cái cần có để tìm hiểu những bí mật của thế giới tự nhiên, khai thác tự nhiên
nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Những tưởng sự thịnh vượng vật chất sẽ là thiên đường
của con người. Song, không phải vậy. Cùng với việc tạo ra một khối lượng của cải to lớn (do
khai thác theo kiểu bóc lột tự nhiên), con người đã tạo nên những nguy cơ đe dọa trực tiếp sự
sống của bản thân mình. Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã
gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường sống. Dựa vào các phương tiện kỹ thuật hiện đại,
con người đã áp đặt sự thống trị của mình và vắt kiệt tự nhiên một cách vô trách nhiệm. Khai
thác tự nhiên bằng mọi giá, lấy đi mọi cái có thể lấy, con người (trong xã hội hiện tại) vô tình
đã đối xử không công bằng, thiếu trách nhiệm đạo đức trước các thế hệ tương lai.


Dựa vào những tri thức mới, con người dần dần nhận ra rằng, không thể nuôi dưỡng mãi
trong mình một quyền năng vô hạn trước tự nhiên. Điều quan trọng là chính sự phát triển của
khoa học, công nghệ hiện đại đã và đang tạo ra những cơ hội cho con người sửa chữa sai lầm.
Những tri thức mới và sự hiểu biết khoa học về thế giới vật chất đã trở thành cơ sở cho một
sự thay đổi có tính bước ngoặt trong nhận thức về mối quan hệ con người - tự nhiên. Xuất
phát từ cách nhìn tổng thể, hệ thống, dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, một quan
hệ mới về chất - chung sống hài hoà, gắn bó máu thịt giữa con người với tự nhiên đang hình
thành. Đó chính là nền tảng của đạo đức sinh thái.
10


Sự phát triển của khoa học và công nghệ trong điều kiện kinh tế thị trường còn tác động
mạnh mẽ đến nhân cách con người. Có thể nói, những thành tựu trong lĩnh vực công nghệ
thông tin là niềm tự hào của khoa học và công nghệ hiện đại. Nó mở ra những khả năng to
lớn, tạo điều kiện cho con người nhận thức thế giới xung quanh, tạo cơ hội cho sự hiểu biết,
hợp tác và xích lại gần nhau giữa các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Song cũng phải thừa
nhận rằng, công nghệ thông tin đang gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với đạo đức. Sự
ra đời của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là văn minh màn hình đang làm cho thế
giới nội tâm của con người trở nên nghèo nàn, sự giao cảm giữa mỗi cá nhân với thế giới bên
ngoài trở nên hời hợt, những khoảng trống, sự thiếu hụt trong cấu trúc nhân cách như mối
đồng cảm, sự quan tâm đến người khác... xuất hiện ngày càng nhiều. Khi quan hệ giữa cá
nhân với cộng đồng bị suy yếu, lỏng lẻo, con người sẽ cảm thấy cô đơn, thậm chí chai lỳ
trước đau khổ hay hạnh phúc của đồng loại. Sự thâm nhập và tiếp cận văn hoá không lành
mạnh thông qua mạng Internet đã gây ra những vấn đề bức xúc về mặt đạo đức như chủ nghĩa
thực dụng, tâm lý hưởng thụ, sống gấp, chạy theo đồng tiền... của một bộ phận dân cư, đặc
biệt là trong tầng lớp thanh thiếu niên. Đến lượt mình, những biểu hiện có tính phương Tây
hoá đó sẽ "gặm nhấm", làm mai một dần các giá trị định hướng nhân cách mang bản sắc dân
tộc. Chính vì thế mà mới đây, Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra và quyết định đóng cửa
khoảng gần 1000 quán cà phê có trang bị mạng Internet, hy vọng có thể ngăn chặn sự thấm
thấu của văn hoá độc hại làm suy thoái đạo đức trong thanh thiếu niên.


Sự phát triển nhanh chóng cùng với những ứng dụng to lớn của công nghệ sinh học trong
đời sống xã hội khiến người ta nghĩ rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của công nghệ sinh học. Quả
thật, công nghệ sinh học đã mở ra nhiều triển vọng cho việc giải quyết hàng loạt vấn đề lớn
thuộc các lĩnh vực sản xuất, y học, chăm sóc sức khoẻ, môi trường... theo hướng tích cực.
Việc phát hiện ra mật mã của sụ sống, đọc và nắm được bản đồ đen... khiến con người ngày
11


càng hiểu sâu hơn về bản thân mình. Kết quả tất yếu của sự hiểu biết đó là bảo đảm chủ yếu
cho sự làm chủ bản thân của con người và góp phần dẫn đến sự hình thành những tiền đề cho
tự do, công bằng và, hạnh phúc của xã hội tương lai. Song, sự phát triển của công nghệ sinh
học cũng đặt con người trước hàng loạt nỗi lo âu, dằn vặt. Ngoài những vấn đề như an toàn
lương thực, thực phẩm... nhân loại có lương tri đang trăn trở một điều rất nghiêm túc rằng,
liệu có xuất hiện những "siêu thị" hay "ngân hàng" chuyên mua bán các "phụ tùng" thuộc cơ
thể con người không? Trong xã hội đã bắt đầu xuất hiện một vấn đề mới - vấn đề đạo đức
sinh học: làm sao để kết hợp giữa tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ con người với việc
gìn giữ, tôn trọng danh giá và phẩm giá của chính con người?

Sự xuất hiện của cừu Dolly là bằng chứng thể hiện bước tiến bộ vượt bậc của khoa học và
công nghệ hiện đại. Từ đây, người ta đưa ra ý tưởng có thể tạo ra con người bằng phương
pháp nhân bản vô tính. Bất chấp việc các nhà khoa học, đạo đức học đã cảnh báo về những
hiểm họa có thể, bất chấp quan điểm của LHQ ( Liên Hiệp Quốc ) coi nhân bản người là trái
với đạo lý và không phù hợp với nhân cách, hiện nay một số nước (12 nước) có tiềm lực vẫn
ủng hộ việc tiến hành những nghiên cứu khoa học theo hướng này. Rõ ràng, nhân loại đang
phải đối mặt trước những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến số phận, lương tâm, trách nhiệm
đạo đức và nhân cách con người.
Nền kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết, không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa
tư bản, mà là một phương thức thực hiện kinh tế do sự phát triển của nền văn minh nhân loại
đưa lại. Đặc điểm chung của kinh tế thị trường là vận hành theo nguyên tắc trao đổi hàng hoá

và quy luật giá trị. Tuy nhiên, trong những chế độ xã hội khác nhau, mục đích của kinh tế thị
trường cũng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mục đích của người
sản xuất hàng hoá, của nhả tư bản, như C.Mác đã vạch ra trong "Tư bản", là giá trị thặng dư.
Do đó, khi sử dụng khoa học, công nghệ với tính cách là một công cụ giai cấp tư sản đã
không quan tâm đến những hậu quả về mặt xã hội có thể nảy sinh. Có thể nói, chính mâu
thuẫn giữa chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và tính xã hội hoá
ngày càng cao của hệ thống khoa học công nghệ mới - tức lực lượng sản xuất mới, là nguồn
gốc dẫn đến các vấn đề xã hội nghiêm trọng.
Nước ta đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và dựa vào khoa học và
công nghệ hiện đại để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vậy, vấn đề đặt ra đối với
chúng ta không phải chỉ là nhận diện những tác động của khoa học và công nghệ hiện đại đối
với đạo đức biểu hiện như thế nào trong thực tiễn đời sống xã hội. Điều quan trọng là làm sao
12


để có thể phát huy tối đa mặt tích cực, giảm thiểu mặt tiêu cực của sự tác động đó. Nói cách
khác, làm thế nào để khoa học và công nghệ hiện đại, trong điều kiện kinh tế thị trường, phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng một xã hội mới, trong đó không những "dân giàu, nước
mạnh", mà còn là "xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Có thể nói, khoa học, công nghệ và đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau.
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại để phát triển kinh
tế, xã hội theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa mới tạo nên một cuộc sống hạnh phúc cho tất cả
mọi người. Mục tiêu cao cả đó cũng chính là giá trị đạo đức lớn nhất, căn bản nhất mà Đảng
và nhân dân ta đang hướng đến.

CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
Đối với nước ta - một nước đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, vấn
đề là ở chỗ, tính chất đinh hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho nền kinh tế thị trường của chúng
ta không hoàn toàn giống với các kiểu kinh tế thị trường khác. Trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài sự tồn tại như một tất yếu của các thành phần kinh tế
khác, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể (dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất) được
xác định là giữ vai trò chủ đạo, nền tảng. Mục đích của nền kinh tế đó là nhằm "phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất ' kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân", nghĩa là hướng đến mục tiêu phục vụ con người vì sự phát triển
của con người. Ở đây, giữa lợi ích chung và lợi ích riêng về cơ bản là thống nhất với nhau.
Bởi vậy, sự phát triển khoa học và công nghệ cùng với việc vận dụng các thành tựu của nó
không những vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mà còn luôn gắn với yêu cầu bảo đảm sự công
bằng và tiến bộ xã hội, với sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội. Với ý nghĩa đó, định
hướng xã hội chủ nghĩa được coi là giải pháp văn hóa trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó
đóng vai trò là “cơ chế kiểm soát”, “bộ lọc” nhằm ngăn chặn những phản tác đụng hay hậu
quả tiêu cực mà cơ chế thị trường và tiến bộ khoa học, công nghệ có thể gây ra đối với đời
sống xã hội nói chung và đạo đức xã hội nói riêng. Đồng thời, nó nâng cao trách nhiệm đạo
đức của con người trước đồng loại, xã hội và tự nhiên trong quá trình khai thác, sử dụng
thành tựu khoa học, công nghệ.
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học và công nghệ. Hiện tại, xã hội loài người
đã và đang tiếp cận một nền văn minh mới, trong đó tri thức, trước hết là những tri thức khoa
học và công nghệ sẽ chiếm ưu thế và trở thành phổ biến. Trong xu thế đó, bất kỳ một quốc
gia, dân tộc nào nếu không xây dựng cho mình một thực lực khoa học, công nghệ mạnh sẽ có
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu”. Tư tưởng đó của Người, cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị và
tiếp tục toả sáng. Yêu cầu khách quan đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là phải tập trung đổi
mới để nâng cao tiềm lực, trình độ khoa học, kỹ thuật công nghệ, nhanh chóng nắm lấy và
làm chủ các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Năng lực sáng tạo, làm
chủ khoa học, công nghệ là yếu tố đảm bảo cho con người làm chủ bản thân, làm chủ tương
13


lai của đất nước. Do đó, học tập để nâng cao năng lực, trình độ tiếp thu, vận dụng và sáng tạo
khoa học, công nghệ không chỉ là đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội, mà

còn là nhu cầu, trách nhiệm đạo đức của mỗi người trước sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Đồng thời với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội nhằm tạo lập cơ sở cho sự ra đời
và phát triển những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới, Đảng ta cũng nhấn mạnh rằng, trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường phải tăng cường giáo dục ý thức công dân, giáo dục lòng
yêu nước... giáo dục đạo đức và tính nhân văn, lịch sử và ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc. Tập trung vào những nội dung đó sẽ góp phần hình thành ở mỗi con người sự tự ý thức
về lương tâm và trách nhiệm đạo đức trước hành vi của mình, đồng thời, tạo nên trong họ
những kháng thể có khả năng ngăn chặn, vô hiệu hoá sự thẩm thấu ngày càng tinh vi của
những phản văn hoá tinh thần - đạo đức.

14


C. KẾT LUẬN:
Khoa học và công nghệ có tác động to lớn tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã
hội. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là cơ sở để thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng chiến lược con người, phát triển văn hoá của các nước
trên thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh
mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh khoa học ngày càng gia tăng.
Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút ngắn. Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra
quyết liệt. Truyền thông về khoa học - công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công
nghệ mới ra đời, đòi hỏi con người phải học tập thường xuyên, học tập suốt đời. Quá trình
giáo dục phải được tiến hành liên tục để người lao động có thể thích nghi được với những đổi
mới của tiến bộ khoa học - công nghệ. Vừa qua, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ được đẩy mạnh, quản lý khoa học - công nghệ có đổi mới, thị trường khoa học công nghệ được hình thành,đầu tư cho khoa học được nâng lên. Cùng với giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ
vững độc lập dân tộc và CNXH. Khoa học và công nghệ là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh. Phát triển khoa học công nghệ để tạo tiền đề
cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật

Khoa học và công nghệ đang có vai trò to lớn trong việc hình thành nền “kinh tế tri thức”
và “xã hội thông tin” , phát triển hàm lượng trí tuệ cao trong sản xuất, dịch vụ và quản lý ở tất
cả các quốc gia. Vì vậy, đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cơ bản để phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, đầu tư ngắn nhất và tiết kiệm nhất để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và
hiện đại hóa dân tộc. Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay thực chất
là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất lượng và hiệu quả lao
động trên cơ sở hiện đại hóa nguồn nhân lực. Hiện nay khoa học và công nghệ giữ vai trò
then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu qủa, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển mạnh khoa học và công nghệ sẽ có tác dụng động lực đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức, góp phần tăng nhanh năng suất, chất
15


lượng, hiệu qủa, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước,
phát huy và sử dụng có hiệu qủa nguồn tri thức của con người Việt Nam và tri thức của nhân
loại.
Bên cạnh các mặt tích cực thì khoa học - công nghệ để lại những mặt tiêu cực đối với cuộc
sống nhân loại. Cần phải áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ một cách đúng đắn đồng
thời đẩy mạnh giáo dục văn hóa, giáo dục con người phù hợp với các chuẩn mực đạo đức…
TÀI LIỆU THAM KHẢO: Giáo trình Đạo đức học

16



×