Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Thực trạng phát triển khoa học công nghệ và tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.48 KB, 28 trang )

Thực trạng phát triển khoa học công nghệ và tăng trưởng kinh
tế Việt Nam hiện nay
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam hiện nay và thách thức
của suy thoái kinh tế toàn cầu.
1. Bối cảnh kinh tế toàn cầu.
Kinh tế toàn cầu hiện nay đang phải đương đầu với cuộc khung hoảng tài
chính diễn ra ngày càng trầm trọng và nhanh chóng lan ra các nước.
1.1 Diễn biến gần đây của xu hướng suy thoái kinh tế toàn cầu.
Bắt đầu từ Mỹ (7/2007) đến giữa tháng 9/2008 chính thức nổ ra và đến
nay đã đạt đến cao trào. Cuộc khung suy thoái khởi đầu từ lĩnh vực tài chính,
lan ra các lĩnh vực kinh tế khác và đang tác động tiêu cực đến tất cả các nước
với mức độ ngày càng nặng nề. Chỉ trong vòng một tháng rưỡi kể từ giữa tháng
10/2008 đã co hơn 10 cuộc họp, hội nghị quốc tế quan trọng được triệu tập khẩn
cấp để bàn biện pháp đối phó với tình hình. Chính phủ nhiều nước đã phải khẩn
cấp “cứu nguy” và sử dụng nhiều biện pháp can thiệp mạnh vào thị trường như
tái quốc hữu hóa nhiều ngân hang và tập đoàn lớn, cắt giảm lãi suất và bơm một
lượng tiền lớn chưa từng có ra thị trường. Bắt đầu là 6 ngân hang trung ương ở
các nước phát triển (gồm Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - FED, Ngân hang Trung
ương Anh, Châu Âu, Pháp, Úc, Canada) khẩn cấp cắt giảm lãi suất 0.5 % vào
ngày 08/10/2008, sau đó la các ngân hang trung ương Châu Á, ngày
29/10/2008, FED tiếp tục cắt giảm lãi suất them 0,5% còn 1% là mức thấp nhất
kể từ năm 2001. Sang tháng 11/2008 hàng loạt các nước cắt giảm lãi suất. Hàng
ngàn tỷ USD đã được đưa ra để cứu nguy các ngân hang, quỹ bảo hiểm và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Mở đầu la gói 700 tỷ USD của Chính phủ Mỹ, sau đó
là Nga, Đức, Thụy Điển, Nhật, Hàn Quốc… cũng đưa ra một lượng tiền lớn
tương đương hàng chục đến hàng trăm tỷ USD. Đến cuối tháng 11/2008, tổng
cộng Mỹ đã quyết định tung ra 1.500 tỷ USD, Châu Âu 200 tỷ Euro, Trung
Quốc 586 tỷ USD và Nhật 63,5 tỷ USD cho yêu cầu này, ASEAN và Hàn Quốc,
Trung Quốc, Nhật Bản cũng đã nhất trí thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ chung trị
giá 80 tỷ USD vào cuối tháng 6/2009 để đối phó với cuộc khủng hoảng.
1.2 Những tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.


Với nhiều nỗ lực của chính phủ nhiều nước nhưng tình hình tài chính,
kinh tế thế giới vẫn ngày càng tồi tệ, cuộc suy thoái đã ảnh hưởng đến nhiều
lĩnh vực.
1.2.1 Tác động đến thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán rơi tự do, nhất là từ cuối tháng 9/2008. Mở đầu
là chứng khoán phố Wall, chỉ số Dow Jone và chỉ còn 8.378,95 điểm vào cuối
tháng 10/2008. Các nhà đầu tư lo ngại giá cổ phiếu tiếp tục giảm, hàng loạt
công ty vỡ nợ, nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nên đã bán tháo cổ phiếu,
làm giá chứng khoán trên toàn thế giới giảm mạnh. Tính chung nhiều thị trường
mất tới 50% giá trị trong 12 tháng qua. Theo báo cáo 6 tháng đầu năm của Ngân
hàng Anh được công bố ngày 27/10/2008, tổng số tiền mà các tổ chức tài chính
toàn cầu bị mất trong cuộc khủng hoảng tài chính lên tới 1,8 ngàn tỷ bảng.
1.2.2 Thất nghiệp gia tăng.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cuộc khủng hoảng nạy khiến số
người thất nghiệp tăng thêm 20 triệu người, từ 190 triệu người (năm 2007) lên
210 triệu người (2009). Hàng loạt tập đoàn lớn đã phải sa thải công nhân và cắt
giảm chi phí do cuộc khủng hoảng.
1.2.3 Tổng cầu thế giới giảm mạnh.
Tổng cầu thế giới giảm mạnh khiến giá cả hầu hết các mặt hàng đều
giảm, trong đó nhiều mặt hàng thiết yếu giảm mạnh. Giá dầu thô giảm từ mức
đỉnh 147 tỷ USD/thùng vào ngày 11/7/2008 xuống chỉ còn gần 1/3 (trên dưới 50
USD/thùng) vào cuối tháng 11 vào dự báo sẽ không tăng trong cả năm 2009,
mặc cho OPEC cắt giảm một sản lượng đáng kể, Giá lương thực, thực phẩm và
các nguyên vật liệu thô cũng đồng loạt giảm. Giá vàng cũng theo xu hướng
giảm. Theo The Economits, chỉ số giá hàng hóa tính theo đôla Mỹ được công bố
ngày 31/10/2008 đã giảm 37% so đầu tháng 7/2008, trong đó giảm mạnh nhất
là: kim loại giảm 50% so với tháng 3, gạo giảm 50% so tháng 5, cao su giảm
27% so tháng 9. Nhu cầu và giá giảm đang tác động tiêu cực đến các nước xuất
khẩu và đã khiến nhiếu ngành sản xuất trên thế giới phải cắt giảm sản lượng.
1.2.4 Ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của thế giới.

Kinh tế Mỹ đã chính thức rơi vào suy thoái: GDP quý III đã giảm 0,3%.
Cả 5 chỉ số thể hiện sức khỏe nền kinh tế (ngân hàng, nhà ở, người tiêu dung,
chứng khoán và việc làm) đều rất xấu: giá nhà ở, chứng khoán tiếp tục giảm
sâu, các lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là dịch vụ tài chính và xây dựng bị tác
động mạnh, thất nghiệp hiện nay tăng lên 6,1% và có thể lên tới 8 % vào năm
2009.
Suy thoái kinh tế đã lan sang châu Âu, Đông Á và nhiều nước khác. Nước
có nền kinh tế lớn nhất Châu Âu là Đức đã rơi vào suy thoái, GDP quý II giảm
0,4% và quý III giảm 0.5%, nền kinh tế Anh, GDP quy III tăng trưởng âm sau
16 năm, ở mức – 0.5%; đồng bảng Anh mất giá ở mức thấp nhất trong vòng 5
năm so với đồng USD; thất nghiệp lên tới 5,7%; lạm phát giá tiêu dùng ở mức
5,2%; lần đầu tiên khu dịch vụ chiếm 3/4 nền kinh tế giảm 0,4%, nhất là lĩnh
vực nhà hàng, khách sạn. Để vực dậy nền kinh tế, Anh đã cắt giảm lãi suất từ
ngày 4,5% xuống còn 3%, mức thấp nhất kể từ năm 1955. Các nước Châu Âu
còn lại hầu như cũng đã rơi vào suy thoái.
Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ hai thê giới bị ảnh hưởng nặng nề do xuất
khẩu chiếm tới 3/4 GDP và các ngân hàng nắm nhiều tài sản nước ngoài. Trước
đây Ngân hàng trung ương Nhật Bản dự đoán tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt
0,1% và 0,6% vào năm sau, nhưng nay đã công bố chính thức quý II giảm 0,1%
và quý III giảm 0,9%. Đồng yên lên giá mạnh tác động tiêu cực đến xuất khẩu,
buộc Nhật Bản phải yêu cầu các nước G7 can thiệp. Thị trường chứng khoán
mất 50% giá trị trong 10 tháng qua. Ngày 31/10/2008 ngân hàng Trung ương
Nhật Bản đã giảm lãi suất từ 0,5% xuống còn 0,3%.
Nga có dự trữ lên tới 540 tỷ USD nhưng bị tác động tồi tệ nhất trong các
nền kinh tế mới nổi. Thị trường chứng khoán mất 74% giá trị kể từ tháng
5/2008 đến ngày 24/10/2008, nhiều lần phải tạm ngừng giao dịch. Hệ thống
ngân hàng đóng băng, nhiều ngân hàng đứng trên bờ vực phá sản. Giá hàng hóa
giảm, đặc biệt là giá dầu đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Trung Quốc có dự trữ hơn 2000 tỷ USD, thặng dư tài khoản vãng lai lớn,
nhưng cũng không tránh được “cơn bão” tài chính: tốc độ tăng trưởng chậm lại

từ mức từ 13% năm 2007 xuống còn 9% trong quý III – 2008, giá cổ phiếu giảm
mạnh. Trong tháng 10, hai tập đoàn lớn là Smart Union và Ferro China đã bị
phá sản. Xuất khẩu giảm, số doanh nghiệp đóng cửa và lao động mất việc làm
gia tăng, nhất là các công ty sản xuât hàng xuât khẩu ở Miền nam. Chủ tịch Hồ
Cẩm Đào đã kêu gọi kích cầu, nhất là kích cầu tiêu dùng trong nước để duy trì
tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến hầu
hết các nền kinh tế, ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng của các nước, làm suy
thoái nền kinh tế và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia dù lớn
hay nhỏ.
1.3 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất: Quá trình tài chính hoá nền kinh tế các nước và toàn thế giới, đi
đầu là Mỹ ngày càng sâu rộng, dẫn tới số ngân hàng, thể chế tài chính, công ty
cổ phần đại chúng và các dịch vụ tài chính gia tăng mạnh.
Thứ hai: Tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
và tự động hóa đã cho ra đời máy rút tiền tự động, phần mềm giao dịch và mạng
thông tin toàn cầu, nhờ đó đã hình thành nên mạng lưới tài chính điện tử 24/7 và
tạo điều kiện cho nhiều loại hình kinh doanh ảo ra đời, phát triển.
Thứ ba: Khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế dẫn đến nhiều vấn đề
kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường… vượt khỏi tầm kiểm soát của quốc gia.
Sự tác động cộng hưởng của các nhân tố trên vừa giúp nâng cao sưc mua,
mở ra thị trường mới, có cả sưc mua và thị trường ảo; vừa tạo điều kiện cho sưc
sản xuất phát triển mạnh mẽ không kiểm soát được, từ đó đã hình thanh nên
hiện tượng được gọi là các “bong bong” kinh tế. Khi các bong bóng vỡ ra, tùy
theo độ lớn của nó mà gây ra các chấn động lớn hay nhỏ và bong bóng thị
trường bất động sản của Mỹ vừa nổ thực sự là một “bong bóng” khổng lồ.
Nguyên nhân chủ quan: Cuộc khủng hoảng đã được Paul Krugman và
nhiều người cảnh báo trước như là một tất yếu của chủ nghĩa tự do mới và chủ
nghĩa tiêu dùng Mỹ. Bắt đầu từ những năm 1970, do chủ trương đẩy mạnh tư

nhân hóa nền kinh tế, giảm bớt tối đa các thể chế và sự can thiệp của nhà nước
dẫn đến sự buông lỏng quản lý, giảm sát đối với hoạt động của các tập đoàn tài
chính, ngân hàng và sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế. Mặt khác, các
quy định, luật pháp của các nước và quốc tế cũng không theo kịp tình hình nên
đã không kiểm soát nổi quá trình phát triển, toàn cầu hóa kinh tế, tài chính và
thương mại.
2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế VN
2.1 Số lượng và quy mô tăng trưởng
Trong thời kỳ qua, nước ta tận dụng được những cơ hội thuận lợi, vượt
qua được những thách thức, những khó khăn đã duy trì được tốc độ tăng trưởng
nhanh và liên tục, năm sau cao hơn năm trước; thu nhập bình quân đầu người
không ngừng được cải thiện qua từng thời kỳ, vượt qua được tình trạng nước
nghèo và kém phát triển, và chúng ta đang phấn đấu để sớm vượt qua được
ngưỡng vước đang phát triển có thu nhập thấp.
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt
Nam đã tăng lên liên tục. Tôc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình
quân giai đoạn 1991 – 2005 đạt khoảng 7,5%
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2000 – 2008 kế hoạch 2009 và dự báo
2010 (%).
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
DB
2009
KH
2010
Tốc độ tăng trưởng
GDP
6,8 6,98 7,08 7,34 7,79 8,4 8,2 8,5 6,23 6,5 7,0
Trong đó:
Nông, lâm, ngư
nghiệp

1,0 4,6 3,0 4,2 3,6 4,4 4,0 3,4 3,7 4,0 4,5
Công nghiệp và xây
dựng
2,3 10,1 10,4 9,5 10,5 10,2 10,6 10,4 10,5 11,0 11,4
Dịch vụ 10,2 5,3 6,1 6,5 6,5 7,3 8,5 8,3 8,7 8,9 9,4
Trong 5 năm 2001 – 2005, trong bối cảnh hết sức khó khăn cả trong và
ngoái nước, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao
và tương đối bền vững, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm tăng
7,5%/năm trong đó nông – lâm – ngư nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây
dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%, mức cao nhất kể từ năm 1986 đến thời điểm
năm 2005, đưa quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,44 lần năm 2000.
Đến năm 2006 năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm cuối của Chiến
lược 10 năm 2001 – 2010, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá cao. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,17% (kế hoạch là 8%) và đạt
cao hơn chỉ tiêu 7,5% - 8%/năm. GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu
đồng tương đương với 720 USD, tăng 80 USD so với năm 2005. Đến năm 2007
nền kinh tế tiếp tục phát triển thuận lợi, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm
2006 là gần 0,3%, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng, tương đương
835 USD, đã tăng thêm 115 USD so với năm 2006, đến năm 2008 tốc độ tăng
trưởng đã giảm xuống còn 6,23% những vẫn còn cao hơn với các nước trong
khu vực và thế giới trong cùng thời kỳ, tăng trưởng trong cả 3 năm 2006 – 2008
vẫn đạt tiến độ kế hoạch đề ra (trên 7,5%), GDP bình quân đầu người đến 2008
là 1.024 USD.
Giá trị tăng thêm của các khu vực kinh tế đều được cải thiện do có sự
giảm đáng kể chi phí trung gian trong chu trình sản xuất, kinh doanh, đóng góp
trực tiếp vào tăng trưởng toàn nền kinh tế theo hướng bền vững. Khu vực nông,
lâm, thuỷ sản năm 2006 tăng 3,4%; năm 2007 tăng 3,5% và dự kiến năm 2010
tăng từ 3 – 3,2%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng tương ứng là 10,37%;
10,6% và 9,5% - 10,2%; khu vực dịch vụ là 8,29%; 8,7% và 7,7 – 8,2%. Ngành
công nghiệp tiếp tục là ngành có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng

GDP.
Biểu đồ 2: Tốc độ Tăng trưởng GDP qua các năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Cùng với tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng
được cải thiện. Tuy nhiên theo nhiều đánh giá của trong nước và quốc tế, mặc
dù Việt Nam đạt được những kết quả tăng trưởng cao, nhưng đó là kết qủa tăng
trưởng theo chiều rộng chứ chưa có sức tăng trưởng theo chiều sâu. Việt Nam
vẫn đang đứng ở trong ranh giới của những nước kém phát triển theo tiêu chuẩn
của Liên hợp quốc.
2.2 Chất lượng tăng trưởng.
Trong nhiều năm qua tăng trưởng với chất lượng và hiệu quả cao hơn là
mục tiêu được các ngành quan tâm và thực hiện tốt hơn. Tăng trưởng đã giảm
bớt sự phụ thuộc vào yếu tố tăng vốn, nâng cao sự đóng góp của yếu tố lao động
có chất lượng với năng suất cao, nâng cao hiệu quả quản lý và đưa các yếu tố về
khoa học công nghệ vào chu trình sản xuất kinh doanh, giảm tiêu hao vật chất.
Chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những bước cải thiện,
các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị
trường quốc tế. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng được nâng cao.
- Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Trước đổi mới, phần lớn dân
số nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là nước nghèo nàn và
lạc hậu với mức thu nhập bình quân đầu người rất thấp và có nhiều người trong
diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, dẫn đến nâng cao thu nhập cho
người dân. Đến năm 2007 thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt
820 USD/năm. So với năm 1995 mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay
của nước ta đã tăng khoảng 2,8 lần.
- Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng
nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo ở
Việt Nam là 18,1% (tính theo chuẩn quốc tế) và được thế giới đánh giá là thành
công trong việc chống nghèo đói.

- Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng lên đáng kể, Nhờ
chú trọng đào tạo, chăm sóc sức khỏe, hạn chế tỷ lệ sinh, nên chỉ số phát triển
con người của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Năm 2006 HDI của Việt
Nam đạt 0,709 cao hơn nhiều nước có cùng trình độ phát triển.
- Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện.
Đến nay ở Việt Nam có có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có trường tiểu học và
99% xã có trạm y tế. Nhiều mục tiêu đề ra đã được hoặc vượt mức như tỷ lệ
chết ở tre em dưới 1 tuổi thì chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi còn 25%, tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi thọ của
người dân (2006) đạt 71,3 tuổi. Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy,
ôtô và sử dụng các phương tiện sinh hoạt cao như điện thoại di động, máy tính
cá nhân… ngày càng có xu hướng tăng nhanh.
- Cơ cầu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu
năm 1990 ngành nông – lâm – ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP thì đến năm
2006 giảm còn 20,4% GDP, xét theo từng nhóm ngành, cơ cầu ngành kinh tế
cũng có sự chuyển biến tích cực. Trong nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp
tỷ trọng ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm, nhường chỗ cho ngành thuỷ
sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp
chế biến cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành dịch vụ cũng thay đổi theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch …
Năng suất lao động ngày càng tăng. Những ngành có năng suất lao động
tăng cao nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%), ngành điện, khí đốt,
nước (tăng 11%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ mới trong
sản xuất kinh doanh và quản lý. Hệ số vốn đầu tư phát triển so với tốc độ tăng
GDP đã giảm, chứng tỏ hiệu quả đầu tư đã tăng lên, mặc dù vẫn còn cao hơn
nhiều so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ do chi phí lớn
- Thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành. Sự chuyển đổi thể
chế kinh tế hiện chủ yếu là dựa vào thị trường, để cho giá cả tự điều tiết, tôn
trọng quan hệ cung cầu, khuyến khích kinh tế tư nhan, hình thành hàng loạt các

thị trường. Cùng với việc hình thành khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế thị
trường, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành.
Nhìn chung, đánh giá về mặt lượng cho đến nay nền kinh tế Việt Nam
tăng trưởng với mức độ khá cao và đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào về
tăng GDP bình quân đầu người, giảm tỷ lệ nghèo đói, cải thiện chất lượng cuộc
sống, tăng năng suất lao động, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới thể chế. Tuy
nhiên nếu nhìn nhận một cách tổng quát, khách quan thì chất lượng tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam còn chưa tốt:
*Có thể đánh giá chất lượng tăng trưởng theo nhiều cách khác nhau.
Trong bài này chúng ta đi nghiên cứu đánh giá chất lượng tăng trưởng theo hiệu
quả đầu tư hay thông qua chỉ số năng suất TFP.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua là do
yếu tố nào là chủ yếu: gia tăng yếu tố đầu vào ( đất đai, lao động) hay la do yếu
tố công nghệ? Để xác định sự đóng góp vào tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao
động, và năng suất nhân tố tổng hợp TFP chúng ta sử dụng hàm Cobb –
Douglas.
Hàm Cobb-Douglas: Yt = A.Ktα.Ltβ
Trong đó:
Y là biến số về sản lượng của nền kinh tế (thường được tính bằng tổng
sản phẩm quốc nội tại giá cố định).
K: là biến số về vốn.
L: là biến số về lao động.
A: là thể hiện trình độ công nghệ.
* Ta có chất lượng tăng trưởng liên quan đến tỷ trọng đóng góp của năng
suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp nên hiệu quả của tăng trưởng Việt Nam
không cao. Tăng trưởng của nước ta đạt được chủ yếu do gia tăng về lượng các
yếu tố đầu vào như vốn đầu tư, số lượng lao động. Chất lượng, hiệu quả đầu tư
còn thấp, trình độ công nghệ lạc hậu và chất lượng lao động còn nhiều mặt hạn
chế, đã đe doạ đến tính bền vững trong hiện tại và cả tương lai, tạo ra mâu thuẫn
giữa tốc độ tăng trưởng (số lượng) và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng.

Tăng trưởng kinh tế nước ta hiện nay chủ yếu là do đóng góp của của yếu
tố vốn và lao động, đóng góp của TFP có tăng nhưng còn rất thấp so với các
nước đang phát triển ở Châu Á. Chúng ta có kết quả nghiên cứu về mức đóng
góp của các nhân tố như sau:
Bảng 2: Mức đóng góp của các nhân tố đến tăng trưởng GDP (%).
Thời kỳ
1993 - 1997
Thời kỳ
1998 - 2002
Thời kỳ
2003 - nay
Tổng GDP 100 100 100
Đóng góp nhân tố vốn 69.3 57.5 52.7
Đóng góp nhân tố lao động 15.9 20 19.1
Đóng góp nhân tố TFP 14.8 22.5 28.2
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Theo kết quả trên từ năm 1993 cho đến nay đóng góp của TFP vào GDP
có tăng lên nhưng còn chiếm tỷ trọng không lớn (từ 14,8% lên 28,2%); tỷ trọng
đóng góp của lao động tăng lên trong giai đoạn 1998 – 2002 nhưng lại có xu
hướng giảm xuống (từ 69,3% xuống còn 52,7%), tuy nhiên yếu tố vốn vẫn
chiếm phần chủ yếu trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. So với các nứơc
trong khu vực, tỷ trọng TFP trong tăng trưởng của nước ta còn thấp hơn rất
nhiều (thời kỳ 1980 – 2000 ở Hàn Quốc là 39,96%, Ấn Độ là 40,78%).
Cơ cầu đầu tư của nước ta còn chưa hợp lý, hiệu quả đầu tư còn thấp,
quản lý đầu tư còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả, thể hiện qua chỉ số ICOR còn
khá cao và tăng liên tục, từ 2,7 (năm 1991) tăng lên 3,6 (năm 1997); tăng cao
đột ngột năm 1998 và 1999 tương ứng là 5,3 và 6,1; sau giai đoạn này, chỉ số
ICOR có giảm nhưng vẫn ở mức cao so với trước giai đoạn khủng hoảng là 4,9
(năm 2003) và lên cao nhất là 6,93 (năm 2005). Theo kết quả của WB, nếu so
sánh với các nước thì chỉ số ICOR của Việt Nam so với Trung Quốc cao hơn

khoảng 1,5 lần, với Thái Lan là 1,35 lần.
Năng suất lao động của nước ta hiện nay còn thấp hơn từ 2 đến 15 lần so
với các nước trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động của Việt Nam mới đạt
1.260 USD (năm 2004); trong cả thời kỳ 2002 – 2005 đạt 1.243,4 USD còn thấp
xa so với nhiều nước trong khu vực: Thái Lan 4.514,1 USD; Malaixia 11.276,2
USD, Hàn Quốc là 29.057,6 USD…. Năng suất lao động của nước ta tăng rất
chậm chỉ khoảng 4 % - 5 %/năm.
Trình độ khoa học và công nghệ trong nền kinh tế của nước ta còn thấp,
lạc hậu 3 – 4 thế hệ so với những nước công nghiệp phát triển, đứng thứ 92
trong số 117 nước được điều tra (WEF 2005 – 2006). Công nghệ trong các
doanh nghiệp lác hậu nhiều thế hệ so với khu vực, chuyển giao công nghệ chưa
có những tiến bộ cần thiết, trình độ công nghệ thông tin còn rất thấp. Tỷ trọng
doanh nghiệp có công nghệ cao mới đạt 20,6%; rất ít doanh nghiệp quan tâm
đến thông tin về khoa học và công nghệ chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp đạt
được trình độ công nghệ tiến tiến và phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Qua các chỉ số trên cho ta thấy tính chất tăng trưởng của nước ta còn
nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu. Xu hướng phát triển chủ yếu dựa vào
yếu tố vốn đầu tư, trong khi đó vốn tự có từ tích lũy trong nước còn có hạn, một
phần quan trọng phải đi vay từ nước ngoài làm cho tăng trưởng có thể dễ bị tác
động từ các yếu tố bên ngoài, đặc biệt từ sự biến động của thị trưởng vốn. Yếu
tố lao động đượcc coi là nguồn lực nội sinh hiện đang có lợi thế so sánh như giá
rẻ, dồi dào… đóng vai trò thấp hơn nhiều so với yếu tố vốn trong tăng trưởng.
Tình trạng này có thể được xem xét dựa trên các yếu tố cơ bản trong năng suất
nhân tố tổng hợp, đó là hiệu quả đầu tư thấp, chất lượng lao động và năng suất

×