1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu của các quốc gia trong thời đại ngày
nay. Quá trình toàn cầu hóa khu vực và thế giới đã dẫn đến hội nhập kinh tế
trên phạm vi quốc tế. Trong xu thế đó, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức
đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề mang tính thời đại nên đã chủ động thực
hiện đường lối mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế.
Quá trình hội nhập được diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Quá trình hội
nhập về kinh tế đã làm cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng trở nên sôi động, đa dạng và
ngày càng đạt được những thành tựu to lớn. Quá trình này đã tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với các phương thức giao dịch mua
bán trên thị trường thế giới. Bên cạnh phương thức giao dịch mua bán thông
thường, trên thị trường thế giới còn diễn ra những giao dịch đặc biệt, đó là
giao dịch mua bán hàng hóa ở thị trường giá cả tương lai; mặt khác, sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin cùng với những ứng dụng đa dạng của
Internet đã xuất hiện loại hình thương mại điện tử bên cạnh hình thức thương
mại truyền thống. Bên cạnh đó, các công cụ tài chính như Hợp đồng kỳ hạn,
Hợp đồng hoán đổi, Hợp đồng quyền chọn v.v... đã bước đầu được áp dụng ở
Việt Nam, cho phép các doanh nghiệp áp dụng để dự phòng rủi ro hối đoái,
đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp trước sự biến động của tỷ giá ngoại tệ. Hệ
quả của các quá trình này đã dẫn đến một số những vấn đề cần được thay đổi và
bổ sung trong kế toán các nghiệp vụ nói chung và doanh thu bán hàng nói riêng.
Quá trình hội nhập về kinh tế dẫn đến hội nhập trong lĩnh vực kế toán
là một tất yếu khách quan, được xem là một trong những cơ sở nền tảng và
tiền đề đối với sự thành công của quá trình hội nhập. Quá trình này đã tạo cơ
hội cho Việt Nam tiếp cận với các chuẩn mực kế toán quốc tế và các nước có
2
nền kinh tế thị trường phát triển. Chuẩn mực kế toán "Doanh thu và thu nhập
khác" của Việt Nam đã được ban hành, cùng với hệ thống chế độ kế toán
doanh nghiệp không ngừng được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu quản lý
kinh tế. Tuy nhiên, trong sự biện chứng của quá trình hội nhập và phát triển,
có nhiều vấn đề mới phức tạp nảy sinh từ thực tế hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng nhưng
chưa được qui định trong chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán về doanh thu
bán hàng.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài "Hoàn thiện kế
toán doanh thu bán hàng tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế" làm đề tài nghiên cứu luận án tiến
sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Về lý luận:
+ Nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận về doanh thu bán hàng và đặc
điểm của nghiệp vụ bán hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Làm sáng tỏ phương pháp kế toán doanh thu bán hàng theo chuẩn
mực kế toán quốc tế và xu hướng hòa hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế của
một số quốc gia trên thế giới để định hướng cho việc hoàn thiện kế toán
doanh thu bán hàng ở Việt Nam.
- Về thực tiễn:
+ Thông qua nghiên cứu thực tế chế độ kế toán qua các thời kỳ và
thực trạng về kế toán doanh thu bán hàng ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Việt Nam nói riêng, doanh nghiệp thương mại nói chung để đánh giá được
những ưu điểm và tồn tại cần hoàn thiện.
+ Tìm hiểu mô hình kế toán doanh thu bán hàng của một số nước trên
thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3
+ Đề xuất các giải pháp hoàn thiện kế toán doanh thu bán hàng trong
điều kiện hội nhập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về kế toán doanh
thu bán hàng hóa của kế toán Việt Nam, kế toán quốc tế và một số nước điển
hình trên thế giới.
- Luận án nghiên cứu thực tiễn kế toán doanh thu bán hàng ở các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng và doanh nghiệp thương
mại Việt Nam nói chung, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp Nhà nước.
Những nội dung hoàn thiện của luận án, trên góc độ kế toán tài chính là hoàn
thiện chung cho loại hình doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp thương mại
có chức năng xuất nhập khẩu; trên góc độ kế toán quản trị, luận án chỉ tập trung
hoàn thiện mô hình tổ chức kế toán quản trị doanh thu và xây dựng dự toán
doanh thu bán hàng trong doanh nghiệp, bởi đây được xem là nội dung quan
trọng có tính đặc thù của kế toán quản trị doanh thu. Còn những nội dung khác
của kế toán quản trị doanh thu sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án
này do đã được đề cập trong nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đã được công bố.
- Các nghiệp vụ xuất khẩu đề cập trong luận án chỉ giới hạn trong
trường hợp các bên tham gia xuất nhập khẩu là chủ thể chính thức của hợp
đồng mua bán ngoại thương. Luận án không đề cập đến các trường hợp giao
dịch tái xuất trong xuất nhập khẩu. Luận án cũng không đề cập đến kế toán
doanh thu cung cấp dịch vụ và các khoản thu nhập khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề vừa toàn diện, vừa hệ thống, đảm bảo
tính logic và tính thực tiễn của giải pháp.
- Vận dụng các phương pháp cụ thể trong nghiên cứu khoa học kinh tế
như: Hệ thống hóa, diễn giải, quy nạp, so sánh, điều tra thực tế, phân tích,
đánh giá để rút ra kết luận hợp lý.
4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Luận án đã trình bày một cách khái quát và hệ thống hóa được những
đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Luận án đã phân tích, hệ thống hóa và đưa ra những nhận thức mới,
những vấn đề lý luận cơ bản về doanh thu, thời điểm ghi nhận doanh thu và
kế toán doanh thu theo chuẩn mực kế toán quốc tế và của một số nước trên
thế giới, từ đó làm cơ sở lý luận cho các giải pháp hoàn thiện kế toán doanh
thu bán hàng của Việt Nam.
- Luận án đã trình bày có hệ thống phương pháp kế toán doanh thu
bán hàng của chế độ kế toán Việt Nam qua các thời kỳ phát triển, đặc biệt đi
sâu vào chuẩn mực và chế độ kế toán về doanh thu hiện hành. Trên cơ sở đó
thấy được những ưu điểm và những tồn tại cần hoàn thiện. Mặt khác, luận án
đã khảo sát thực tế về kế toán doanh thu bán hàng ở một số doanh nghiệp xuất
nhập khẩu và doanh nghiệp thương mại, từ đó có những đánh giá khách quan
làm cơ sở thực tiễn cho những giải pháp hoàn thiện.
- Luận án đã khái quát hóa được mô hình kế toán doanh thu bán hàng
của một số quốc gia phát triển trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Luận án đã đề xuất được những giải pháp hoàn thiện kế toán doanh
thu bán hàng trên cả hai góc độ lý luận và thực tiễn kế toán doanh thu bán
hàng trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và doanh nghiệp
thương mại nói chung. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án có thể áp dụng
chung cho loại hình doanh nghiệp thương mại.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Nội dung của luận án gồm 3 chương, 11 tiết.
5
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN DOANH THU BÁN HÀNG
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. DOANH THU VÀ VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN DOANH THU TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1.1. Doanh thu và phân loại doanh thu trong doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm doanh thu
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản của doanh nghiệp được
vận động qua các giai đoạn khác nhau của quá trình tái sản xuất. Tài sản vận
động qua các giai đoạn nào tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, nhưng
nhìn chung khi tài sản của doanh nghiệp chuyển từ hình thái hàng hóa sang
hình thái tiền tệ (H - T) chính là lúc mà doanh nghiệp thực hiện việc bán hàng
và doanh thu đã được tạo ra. Vậy doanh thu là gì?
Theo Học viện đào tạo các kế toán viên công cộng của Mỹ (AICPA)
thì "Doanh thu là tổng số gia tăng tài sản hay là sự giảm gộp các khoản nợ
được công nhận và được định lượng theo đúng các nguyên tắc kế toán được
chấp thuận, là kết quả của các loại hoạt động có lợi nhuận của doanh nghiệp
và có thể làm thay đổi vốn chủ sở hữu" [29, tr. 133]. Trong phần giải thích
tiếp theo, AICPA đã chỉ rõ doanh thu được cấu thành từ ba hoạt động, đó là bán
sản phẩm, thực hiện các dịch vụ và bán các nguồn tài sản khác ngoài sản
phẩm.
Theo các tác giả: Anderson, Needles, Caldwell trong cuốn Principles
of Accounting (những nguyên tắc cơ bản của kế toán Mỹ) thì đưa ra khái niệm:
Doanh thu là dòng vào, hay sự tăng lên các loại vốn của đơn vị, hay sự
giải quyết các khoản nợ (hoặc kết hợp cả hai) từ việc giao hàng, sản xuất hàng
6
hóa, cung cấp dịch vụ hoặc những hoạt động khác, hình thành nên hoạt động chủ
yếu của đơn vị, trong trường hợp đơn giản nhất, chúng tương đương với giá cả
hàng hóa đã bán ra hay dịch vụ đã cung ứng trong một thời kỳ nhất định [55, tr.
68].
Như vậy, qua hai khái niệm trên ta đều thấy có điểm chung và là phần
quan trọng trong khái niệm đó là, doanh thu là tổng sự gia tăng của tài sản hay
vốn, nghĩa là doanh thu là tổng giá trị thu được từ sản phẩm hoặc dịch vụ thực
hiện cho khách hàng và được tính trong một thời kỳ nhất định. Doanh thu
trong một thời kỳ nhất định là tổng số tiền và khoản phải thu có được từ hàng
hóa, dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng trong suốt thời kỳ đó. Tuy nhiên,
cũng cần phải hiểu rằng không phải tất cả các nghiệp vụ làm tăng tiền và tăng
những tài sản khác đều liên quan đến doanh thu, và cũng không chỉ có doanh
thu làm thay đổi vốn chủ sở hữu.
Theo cách nhìn của các nhà kinh tế và kế toán Pháp, thì doanh thu
được hiểu đó là "lợi tức". Trong cuốn "kế toán Pháp theo tổng hoạch đồ kế
toán 1982", thì "lợi tức là khoản tiền xí nghiệp đã thu được hay sẽ thu được
do bán hàng hóa, sản phẩm, cung cấp các công trình lao vụ, các món lãi về
cho vay nợ hoặc trả nợ trước kỳ hạn" [35, tr. 88]. Và theo tác giả Gene
A.Gohlke trong cuốn Basic principles of Accounting (nguyên tắc kế toán hiện
đại) thì "lợi tức trong kỳ gồm có tiền mặt và khoản sẽ thu nhận được do hàng
hóa hay dịch vụ cung cấp trong kỳ đó tạo ra"; "đo lường lợi tức do bất cứ một
nghiệp vụ nào gây ra bằng cách chiết tính trị giá của số tích sản thâu hồi về"
[24, tr. 43-44], và cũng đưa ra lưu ý rằng "chúng ta chỉ có lợi tức khi nào vốn
chủ sở hữu tăng" và "không phải mọi sự tăng vốn đều do lợi tức nhận được
gây ra" [24, tr. 44]. Như vậy, theo kế toán của Pháp, mặc dù doanh thu được
diễn đạt dưới khái niệm là "lợi tức" nhưng xét về thực chất thì "lợi tức" cũng
được hiểu một cách thống nhất là sự gia tăng của tài sản và làm tăng vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp.
7
Doanh thu theo khái niệm của AUSTRALIA là "luồng tiền vào hoặc
tiết kiệm luồng tiền ra, hoặc là những lợi ích tương lai dưới hình thức gia tăng
giá trị tài sản, hoặc giảm công nợ phải trả của doanh nghiệp, tạo nên sự tăng lên
của vốn chủ sở hữu ngoài phần tăng lên từ các khoản đóng góp của các cổ
đông"[76, tr. 546]. Theo khái niệm của Trung Quốc thì "doanh thu là tổng
nguồn lợi kinh tế thu được phát sinh trong hoạt động thường kỳ của doanh
nghiệp như hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ và sử dụng tài sản của
các doanh nghiệp khác. Các khoản thu hộ cho bên thứ ba hoặc cho khách
hàng không được tính vào doanh thu" [18, tr. 47]. Còn theo chuẩn mực kế
toán quốc tế "Doanh thu" số 18 - IAS18 thì "Doanh thu là giá trị gộp của các
lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các
hoạt động thông thường của doanh nghiệp, tạo nên sự tăng lên của vốn chủ sở
hữu, ngoài phần tăng lên từ các khoản đóng góp thêm của các cổ đông".
Qua nghiên cứu khái niệm doanh thu của quốc tế và của một số nước
trên thế giới, có thể thấy khái niệm về doanh thu được diễn đạt theo cách này
hay cách khác, nhưng đều có sự tương đồng về cách hiểu và nội dung của
khoản được coi là doanh thu của doanh nghiệp.
Còn ở Việt Nam, qua tìm hiểu các quy định về chế độ quản lý tài chính,
chế độ kế toán doanh nghiệp qua các thời kỳ thì có thể nói rằng, trước khi ban
hành chuẩn mực kế toán, Việt Nam không đưa ra khái niệm doanh thu là gì.
Bằng chứng cho thấy là tất cả những quy định trong Nghị định của Chính phủ,
Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về chế độ quản lý doanh thu thì chỉ đề
cập doanh thu bao gồm những gì, cái gì phải được tính vào doanh thu và cái gì
được loại trừ khỏi doanh thu v.v... Những quy định cụ thể này hoàn toàn phục
vụ cho mục đích tính thuế của Nhà nước. Chính dựa trên những quy định của
tài chính về quản lý doanh thu, mà chế độ kế toán xây dựng tài khoản để phản
ánh doanh thu, trong đó đưa ra những quy định rất chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể về hạch
toán doanh thu cho từng ngành. Nhưng do việc xây dựng chế độ kế toán về
8
doanh thu không được dựa trên nền tảng lý luận vững chắc, hiểu biết thấu đáo
doanh thu là gì nên dẫn đến thực tế là mặc dù đã đưa ra quy định chi tiết, cụ thể
như vậy nhưng vẫn chưa thể bao quát hết các trường hợp phát sinh phong phú
trong thực tế và có thể là một số nội dung quy định về doanh thu chưa đảm bảo
phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Cho đến năm 1995, khi Việt Nam cải
cách chế độ kế toán thì cũng đưa ra được ba khái niệm liên quan đến doanh
thu, đó là: "Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hóa, tiền
cung cấp dịch vụ cho khách hàng, bao gồm cả phụ thu và phí thu thêm ngoài
giá bán"; "thu nhập hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu tư
tài chính hoặc kinh doanh về vốn đem lại"; "thu nhập bất thường là những
khoản thu mà đơn vị không dự tính trước hoặc có dự tính đến nhưng ít có khả
năng thực hiện hoặc những khoản thu không mang tính chất thường xuyên".
Nhìn chung, cả ba khái niệm này đều không mang tính khái quát cao và các
khái niệm được diễn đạt thiên về nội dung phản ánh bao gồm những gì.
Có thể nói, một khái niệm đầy đủ, khái quát, phù hợp với quốc tế và
các nước trên thế giới về doanh thu của Việt Nam được chính thức đưa ra
khi Việt Nam ban hành chuẩn mực VAS 14 "Doanh thu và thu nhập khác",
VAS 01 "Chuẩn mực chung". Theo chuẩn mực VAS 01, "Doanh thu và thu
nhập khác là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường và các hoạt
động khác của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, không bao
gồm khoản vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu". Trong chuẩn mực VAS 14,
đưa ra khái niệm cụ thể về doanh thu và khái niệm về thu nhập khác dựa trên
nền tảng được quy định trong chuẩn mực chung. Tuy nhiên vẫn còn có khác
biệt ở chỗ, Việt Nam coi các khoản thu phát sinh từ các hoạt động sản xuất
kinh doanh thông thường là doanh thu, còn các khoản thu từ hoạt động ngoài
các hoạt động tạo ra doanh thu là thu nhập khác. Sự khác biệt này không phải
là vấn đề cơ bản và vẫn đảm bảo tính thống nhất của khái niệm về doanh thu
nói chung.
9
Từ những vấn đề đã phân tích và trình bày ở trên, chúng tôi có thể rút
ra kết luận quan trọng khi nghiên cứu khái niệm về doanh thu, theo chúng tôi
thì bản chất của doanh thu chỉ bao gồm giá trị các lợi ích kinh tế đã nhận được
và có thể nhận được của riêng doanh nghiệp, các khoản thu hộ không phải là
nguồn lợi kinh tế của doanh nghiệp và không làm tăng vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp thì không được coi là doanh thu. Mặt khác, qua nghiên cứu nội
hàm của khái niệm doanh thu, có thể thấy việc nghiên cứu doanh thu không
chỉ đơn thuần là xác định giá trị lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, mà phải gắn
liền với nghiên cứu thời điểm mà doanh nghiệp thu được thu được lợi ích
kinh tế đó - nói cách khác đó là thời điểm xác định doanh thu. Nội dung này
chúng tôi sẽ đề cập cụ thể trong mục 1.3.1 của luận án.
1.1.1.2. Phân loại doanh thu trong doanh nghiệp
Để thuận tiện cho công tác quản lý và kế toán doanh thu, doanh thu có
thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau tùy theo mục đích, yêu cầu
của quản lý và kế toán. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài là doanh thu bán
hàng, việc phân loại doanh thu bán hàng có thể dựa trên những tiêu thức sau:
Thứ nhất, phân theo loại hình kinh doanh:
Doanh thu bán hàng được chia thành ba loại.
- Doanh thu bán hàng hóa: Là toàn bộ doanh thu của khối lượng hàng
hóa đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
- Doanh thu bán thành phẩm: Là toàn bộ doanh thu của khối lượng sản
phẩm (thành phẩm, nửa thành phẩm) đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ kế
toán của doanh nghiệp.
- Doanh thu cung cấp dịch vụ: Là toàn bộ doanh thu của khối lượng
dịch vụ đã hoàn thành, đã cung cấp cho khách hàng và đã được xác định là
tiêu thụ trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho việc xác định doanh thu theo từng loại
hình hoạt động của doanh nghiệp, từ đó xác định được tỷ trọng doanh thu của
10
từng loại hoạt động trong tổng doanh thu bán hàng. Qua đó thấy được vai trò
chủ đạo của từng loại hình hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, xét trên
góc độ toàn bộ nền kinh tế, cách phân loại này giúp cho việc xác định chỉ tiêu
GDP của toàn bộ nền kinh tế theo từng loại hình kinh doanh.
Thứ hai, phân theo phương thức bán hàng
Doanh thu bán hàng được chia thành ba loại:
- Doanh thu bán buôn: Là toàn bộ doanh thu của khối lượng sản phẩm,
hàng hóa v.v... bán cho các cơ quan, đơn vị khác v.v... nhằm mục đích để tiếp
tục chuyển bán hoặc gia công, sản xuất.
- Doanh thu bán lẻ: Là toàn bộ doanh thu của khối lượng sản phẩm, hàng
hóa... bán cho cơ quan, đơn vị khác, cá nhân... nhằm mục đích để tiêu dùng.
- Doanh thu gửi bán đại lý: Là toàn bộ doanh thu của khối lượng hàng
gửi bán đại lý theo hợp đồng ký kết.
Phân loại doanh thu theo cách này giúp nhà quản trị doanh nghiệp xác
định được tổng mức lưu chuyển hàng hóa theo từng loại, từ đó hoạch định
được mức luân chuyển hàng hóa, xây dựng mức dự trữ hàng hóa cần thiết,
tránh được tình trạng ứ đọng hoặc thiếu hàng gây ảnh hưởng không tốt cho
quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, phân theo phương thức thanh toán tiền hàng
Doanh thu bán hàng được chia thành doanh thu bán hàng thu tiền
ngay, doanh thu bán hàng trả chậm, doanh thu bán hàng trả góp, doanh thu
nhận trước.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp lập dự toán số tiền thu được
trong kỳ, là cơ sở để xây dựng dự toán về thanh toán các khoản công nợ và
chi phí trong kỳ của doanh nghiệp. Ngoài ra, cách phân loại này giúp cho việc
phân tích, đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng, là căn cứ quan trọng
để xác định mức dự phòng phải thu khó đòi.
Thứ tư, phân theo mối quan hệ với điểm hòa vốn
11
Doanh thu bán bán hàng được chia thành hai loại, đó là doanh thu hòa
vốn và doanh thu an toàn. Trong đó, doanh thu hòa vốn là doanh thu của khối
lượng bán ở điểm hòa vốn; doanh thu an toàn là phần chênh lệch của doanh
thu thực hiện được với doanh thu hòa vốn.
Cách phân loại này giúp nhà quản trị nhận thức được những vấn đề cơ
bản và trực quan về tình hình kết quả kinh doanh nói chung và của nhóm, mặt
hàng, bộ phận nói riêng; xác định được phạm vi lời, lỗ cũng như đo lường được
mức độ an toàn hay tính rủi ro trong kinh doanh của từng nhóm, mặt hàng hay
bộ phận kinh doanh.
Thứ năm, phân theo mối quan hệ với khu vực địa lý
Doanh thu bán hàng được chia thành hai loại, đó là doanh thu bán
hàng xuất khẩu và doanh thu bán hàng nội địa. Trong đó, doanh thu bán hàng
xuất khẩu là toàn bộ doanh thu của khối lượng hàng hóa bán ra thuộc phạm vi
xác định là hàng xuất khẩu.
Cách phân loại này giúp nhà quản trị đánh giá được mức độ hoạt động
theo khu vực địa lý; là cơ sở để kế toán mở ra các tài khoản và các sổ chi tiết
doanh thu tương ứng; là căn cứ để đánh giá mức sinh lợi cũng như rủi ro
trong kinh doanh của từng khu vực, phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính bộ
phận của doanh nghiệp theo khu vực địa lý.
Ngoài ra, đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì doanh thu bán hàng
xuất khẩu còn được phân loại chi tiết thành doanh thu xuất khẩu trực tiếp và
doanh thu xuất khẩu uỷ thác, hay doanh thu xuất khẩu theo hiệp định và
doanh thu xuất khẩu tự cân đối. Cách phân loại này giúp nhà quản trị phân
tích, đánh giá được kết quả và hiệu quả của hoạt động xuất khẩu theo từng
hình thức và phương thức xuất khẩu.
Thứ sáu, phân theo mối quan hệ với hệ thống tổ chức kinh doanh
của doanh nghiệp
12
Doanh thu bán hàng được chia thành doanh thu bán hàng cho bên
ngoài và doanh thu bán hàng nội bộ. Trong đó, doanh thu bán hàng cho bên
ngoài là toàn bộ doanh thu của khối lượng hàng hóa bán ra thực tế của doanh
nghiệp cho khách hàng ngoài hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp;
doanh thu bán hàng nội bộ là doanh thu của khối lượng hàng bán trong nội bộ
hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp như tiêu thụ nội bộ giữa các
đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty v.v...
Cách phân loại này vừa giúp cho việc xác định chính xác kết quả kinh
doanh thực tế của doanh nghiệp trong kỳ, vừa phục vụ cho việc lập báo cáo
kết quả kinh doanh hợp nhất.
Ngoài các tiêu thức phân loại trên, doanh thu bán hàng còn có thể
được phân loại thành doanh thu thực tế, doanh thu bị giảm trừ và doanh thu
thuần v.v... Nhìn chung, mỗi cách phân loại doanh thu đều có ý nghĩa nhất
định đối với nhà quản trị doanh nghiệp. Do đó, tùy thuộc vào yêu cầu của nhà
quản trị doanh nghiệp mà kế toán thực hiện tổ chức thu thập, xử lý và cung
cấp thông tin về doanh thu theo những cách thức nhất định.
1.1.2. Vai trò và nhiệm vụ kế toán doanh thu trong các doanh nghiệp
Kế toán là một bộ phận cấu thành trong hệ thống các công cụ quản lý
kinh tế tài chính. Ở góc độ quản lý, kế toán có vai trò tích cực trong điều
hành, kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính; ở góc độ cung cấp thông tin, kế
toán đảm nhận chức năng cung cấp thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính
của doanh nghiệp cho những người sử dụng thông tin để họ đưa ra quyết định
kinh tế đối với doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, kế toán có vai
trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp, mà còn hết sức
cần thiết cho những người có lợi ích trực tiếp hay gián tiếp đối với hoạt động của
doanh nghiệp. Kế toán doanh thu là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế
toán doanh nghiệp, cung cấp thông tin về toàn bộ tình hình doanh thu bán
hàng của doanh nghiệp. Thông tin về doanh thu được xem là một trong những
13
dòng thông tin quan trọng nhất để người sử dụng thông tin phân tích, đánh giá
tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và của từng loại
hoạt động, sản phẩm, hàng hóa, bộ phận nói riêng. Qua đó đánh giá được khả
năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp và khả năng đạt
được những mục tiêu mà doanh nghiệp đã đưa ra. Do vậy, kế toán doanh thu
trong doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống kế toán nói
riêng và công tác quản lý nói chung.
Để thực hiện được yêu cầu quản lý và cung cấp thông tin cho người sử
dụng, phát huy vai trò của kế toán thì kế toán doanh thu bán hàng trong doanh
nghiệp phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đắn phạm vi và thời điểm ghi nhận doanh thu. Tuân
thủ nghiêm ngặt yêu cầu của nguyên tắc kế toán "Dồn tích" và nguyên tắc
"Phù hợp" trong hạch toán doanh thu, đảm bảo yếu tố đúng kỳ của doanh thu,
trên cơ sở đó đảm bảo yếu tố đúng kỳ của lợi nhuận.
- Tổ chức hạch toán ban đầu theo đúng quy định của chế độ kế toán
hiện hành, đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu quản lý doanh thu của doanh
nghiệp. Tổ chức luân chuyển chứng từ khoa học, hợp lý, đảm bảo cung cấp
thông tin kịp thời, tránh trùng chéo.
- Ghi chép, phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình doanh thu
bán hàng của doanh nghiệp trong kỳ. Ngoài việc phản ánh doanh thu trên sổ
kế toán tổng hợp, kế toán doanh thu bán hàng cần phải theo dõi ghi chép chi
tiết về số lượng và giá trị hàng bán trên tổng số và theo từng nhóm mặt hàng,
địa điểm bán hàng, phương thức bán hàng v.v...
- Tính toán, phản ánh chính xác tổng giá thanh toán của hàng bán ra,
bao gồm doanh thu bán hàng, thuế GTGT đầu ra của từng nhóm mặt hàng, từng
hóa đơn, từng khách hàng và theo từng đơn vị trực thuộc (cửa hàng, quầy v.v...).
14
- Xác định chính xác giá mua thực tế của hàng đã tiêu thụ, đồng thời
phân bổ chi phí thu mua cho hàng đã bán nhằm xác định kết quả của hoạt
động bán hàng.
- Thường xuyên kiểm tra công việc và tình hình thực hiện hợp đồng
bán hàng, đôn đốc thanh toán tiền bán hàng. Đối với doanh thu bán hàng trả
chậm, kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi theo từng khách hàng, lô hàng, số
tiền khách nợ, thời hạn và tình hình trả nợ.
- Tổ chức lập báo cáo doanh thu theo yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp, tổ chức phân tích báo cáo, lập dự toán doanh thu, tư vấn cho chủ
doanh nghiệp và giám đốc lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả v.v...
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.2.1. Những ảnh hưởng của quá trình hội nhập đến hoạt động
kinh doanh và lĩnh vực kế toán doanh nghiệp
Trong bối cảnh xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế đang phát
triển mạnh mẽ, Việt Nam đã có những chủ trương và chính sách nhất quán
cho việc tham gia tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Quá
trình hội nhập này đã làm cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
ngày càng phong phú, đa dạng. Quá trình này đã tạo ra cho các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng những cơ hội
thuận lợi để mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán hàng hóa, tăng thêm bạn
hàng, phát triển thị trường ở cả trong và ngoài nước. Không những vậy còn
có thể thu hút, sử dụng các dòng vốn quốc tế và kéo theo dòng chảy của vốn
là kỹ thuật công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý tiên tiến, mở ra điều kiện
cho Việt Nam tham gia sâu sắc vào hệ thống phân công lao động quốc tế.
Trên cơ sở đó phát huy được lợi thế của quốc gia, bổ sung những yếu kém
của nền sản xuất trong nước, tiết kiệm lao động xã hội, tận dụng tốt các
15
nguồn lực cho phát triển, góp phần đẩy nhanh sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện này, mỗi doanh nghiệp cũng phải đứng
trước những thử thách lớn như phải đương đầu với cuộc cạnh tranh ngày
càng gay gắt, khốc liệt diễn ra trên khu vực và toàn cầu, trong khi đó các
doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ và yếu, yếu cả về khả năng quản lý
kinh doanh lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Sự hiểu biết của các nhà quản lý
doanh nghiệp của Việt Nam về kinh tế quốc tế, nhất là về thị trường quốc tế
còn ở mức độ hạn chế. Hàng hóa của Việt Nam cũng không có tính cạnh
tranh cao so với hàng hóa các nước trong khu vực và thế giới cả về chất
lượng, giá cả, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các rủi ro của nền
kinh tế khu vực và thế giới luôn là những sức ép rất lớn đối với từng quốc
gia và các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu diễn ra ở
cả phạm vi trong nước và nước ngoài. Ở mỗi một phạm vi hoạt động lại chứa
đựng các yếu tố môi trường kinh doanh, luật pháp, kinh tế, văn hóa... khác
nhau, do đó, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không thể lấy kinh nghiệm kinh
doanh nội địa để vận dụng cho kinh doanh với nước ngoài. Để hoạt động kinh
doanh xuất khẩu có hiệu quả đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn tìm kiếm thị
trường, phát triển các thị trường mới, phải nghiên cứu, đánh giá môi trường
kinh doanh; nghiên cứu cách thức tổ chức, hoạt động của các thể chế kinh tế
quốc tế trong thị trường đó; các cam kết mà Việt Nam và các quốc gia đó đã
thỏa thuận v.v... Từ đó tạo ra sự thích ứng để tồn tại và phát triển trong thị
trường mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng hàm chứa rất lớn các yếu tố rủi ro
trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Cùng với quá
trình hội nhập, phát triển thị trường mới là quá trình mà các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu Việt Nam tiếp cận với các phương thức giao dịch mua bán trên thị
trường thế giới. Bên cạnh phương thức giao dịch mua bán thông thường, trên
thị trường thế giới còn diễn ra những giao dịch đặc biệt, đó là giao dịch mua
bán hàng hóa ở thị trường giá cả tương lai. Hoạt động mua bán ở thị trường này
16
thường được các nhà xuất nhập khẩu sử dụng như một biện pháp kỹ thuật để
chống lại sự tác động của rủi ro do sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị
trường có thể làm ảnh hưởng đến lợi nhuận dự tính của doanh nghiệp. Ngoài
ra, quá trình hội nhập, hợp tác kinh tế toàn cầu cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học công nghệ thông tin, lĩnh vực thương mại điện tử phát triển ngày
một mạnh mẽ. Phạm vi hoạt động của thương mại điện tử dần bao quát gần như
mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Thương mại điện tử phát triển đã tạo
ra cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu một thị trường không biên giới, là điều
kiện để gia tăng các đối tác kinh doanh, mở rộng cung ứng tiêu thụ hàng hóa,
nâng cao doanh số bán và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mặt khác, cùng với việc
tiếp cận phương thức giao dịch mua bán đặc biệt, việc áp dụng thương mại điện
tử vào quá trình kinh doanh mua bán, là sự xuất hiện của các công cụ tài chính
như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng quyền chọn v.v... cho phép
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu áp dụng để dự phòng rủi ro hối đoái, đảm bảo
an toàn cho doanh nghiệp trước sự biến động của tỷ giá ngoại tệ.
Quá trình hội nhập kinh tế đã dẫn đến những thay đổi căn bản trong cơ
chế quản lý kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - mà kế
toán được xem là một trong những công cụ quản lý quan trọng. Hội nhập về
kinh tế dẫn đến hội nhập trong lĩnh vực kế toán là một tất yếu khách quan,
quá trình này đã tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp cận với các chuẩn mực kế toán
quốc tế và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tiếp cận với các
phương pháp và kỹ thuật kế toán hiện đại trên thế giới. Trên cơ sở đó Việt
Nam ban hành hệ thống chuẩn mực kế toán có các quy định phù hợp và thống
nhất với thông lệ quốc tế, tạo ra sự hòa nhập và công nhận kế toán Việt Nam
trên trường quốc tế; đồng thời đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm, đặc thù phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện tại và tương lai. Điều này có ý nghĩa to lớn góp phần thúc đẩy việc mở
cửa, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới.
17
Tuy nhiên, trong sự biện chứng của quá trình hội nhập và phát triển,
có nhiều vấn đề mới phức tạp nảy sinh từ thực tế hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng, đòi hỏi
các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán ban hành mà trong đó đặc biệt là kế
toán doanh thu bán hàng phải luôn được hoàn thiện để việc ghi chép, phản
ánh của kế toán đảm bảo tính khoa học, phản ánh đúng bản chất của nghiệp
vụ và đối tượng kế toán mới phát sinh, đáp ứng được yêu cầu cho công tác
quản lý của doanh nghiệp và của Nhà nước.
1.2.2. Các phương thức và hình thức giao dịch bán hàng
Bán hàng là khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh thương mại.
Thông qua bán hàng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa được thực hiện;
vốn của doanh nghiệp thương mại được chuyển từ hình thái hàng hóa sang
hình thái tiền tệ, doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra, bù đắp được chi phí
và có nguồn tích lũy để mở rộng kinh doanh. Việc bán hàng của doanh
nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau, và trong
mỗi phương thức bán hàng lại được thực hiện dưới nhiều hình thức bán khác
nhau. Cụ thể là:
* Đối với bán hàng trong nước: được thực hiện theo các phương thức
- Bán buôn hàng hóa: Là phương thức bán hàng cho các doanh nghiệp
thương mại, các doanh nghiệp sản xuất... để thực hiện bán ra hoặc để gia
công, chế biến rồi bán ra. Đặc điểm của hàng hóa bán buôn là hàng hóa vẫn
nằm trong lĩnh vực lưu thông, hàng thường được bán theo lô hàng hoặc bán
với số lượng lớn, giá bán biến động tùy thuộc vào khối lượng hàng bán và
phương thức thanh toán. Trong bán buôn, có hai phương thức bán là bán buôn
qua kho và bán buôn hàng hóa vận chuyển thẳng. Trong mỗi phương thức bán
này lại được thực hiện bởi hai hình thức bán là bán theo hình thức giao hàng
trực tiếp và bán theo hình thức gửi hàng.
18
- Bán lẻ hàng hóa: Là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu
dùng hoặc cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị kinh tế tập thể mua về mang
tính chất tiêu dùng nội bộ. Đặc điểm của phương thức này là hàng hóa đã
thoát khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Bán lẻ thường bán
đơn chiếc hoặc số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định. Bản lẻ có thể được thực
hiện dưới các hình thức như bán lẻ thu tiền tập trung, bán lẻ thu tiền trực tiếp,
bán lẻ tự phục vụ, bán hàng trả góp, bán hàng qua điện thoại, bán hàng qua
hội chợ, triển lãm v.v...
- Phương thức gửi hàng bán đại lý: Là phương thức bán hàng mà trong
đó doanh nghiệp thương mại giao hàng cho cơ sở đại lý để các cơ sở này trực
tiếp bán hàng. Bên nhận đại lý sau khi bán hàng, thanh toán tiền hàng và được
hưởng hoa hồng đại lý bán. Số hàng chuyển giao cho cơ sở đại lý bán vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại cho đến khi doanh nghiệp
thương mại nhận được tiền do cơ sở đại lý thanh toán hoặc thông báo về số
hàng đã bán được.
* Đối với bán hàng xuất khẩu: Hàng hóa được xuất khẩu theo các
phương thức giao dịch sau:
- Phương thức xuất khẩu trực tiếp: Là phương thức xuất khẩu trong đó
đơn vị tham gia hoạt động xuất khẩu được Bộ Thương mại cấp giấy phép có
thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài, trực tiếp giao hàng
và thanh toán tiền hàng. Các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu trực tiếp trên
cơ sở tự cân đối về tài chính, tìm kiếm bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn
phương thức thanh toán, xác định phạm vi kinh doanh trong khuôn khổ chính
sách quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước.
- Phương thức xuất khẩu ủy thác: Là phương thức xuất khẩu được áp
dụng đối với các doanh nghiệp được Nhà nước cấp giấy phép xuất nhập khẩu,
19
có nguồn tài nguyên, hàng hóa nhưng không đủ điều kiện để trực tiếp đàm
phán, ký kết hợp đồng kinh tế với nước ngoài, hoặc không thể trực tiếp lưu
thông đưa hàng hóa ra thị trường nước ngoài nên phải ủy thác cho các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu khác có đủ điều kiện xuất nhập khẩu hộ mình. Theo
hình thức này, đơn vị giao ủy thác xuất khẩu phản ánh doanh số, nộp thuế
xuất khẩu cho ngân sách. Đơn vị nhận ủy thác là người cung cấp dịch vụ xuất
khẩu hộ và hưởng hoa hồng theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng ủy
thác. Một doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất
khẩu ủy thác hoặc có thể kết hợp cả hai hình thức trên.
Bên cạnh những phương thức giao dịch xuất khẩu thông thường, trên
thị trường thế giới còn diễn ra phương thức giao dịch đặc biệt đó là giao dịch
mua bán hàng hóa ở thị trường hàng hóa giao sau (hay còn gọi là thị trường
giá cả tương lai).
Thị trường hàng hóa giao sau là thị trường giao dịch, ký kết các hợp
đồng về hàng hóa. Việc giao hàng và nhận tiền được diễn ra vào một ngày ấn
định trong tương lai [11, tr. 42].
Một trong những đặc trưng của giao dịch hàng hóa giao sau là phải có
hợp đồng. Hợp đồng hàng hóa giao sau là một thỏa thuận mang tính pháp lý
giữa người mua và người bán, trong đó yêu cầu người bán giao hàng cho
người mua một số lượng và phẩm cấp quy định về một loại hàng hóa với giá
cả được thỏa thuận vào lúc ký kết hợp đồng. Còn việc giao hàng và thanh
toán được thực hiện ở một thời điểm ấn định trong tương lai. Việc ký kết hợp
đồng phải được diễn ra ở những nơi quy định của thị trường và được gọi là
các sở giao dịch hàng hóa giao sau.
Hợp đồng hàng hóa giao sau có thể là hợp đồng triển hạn, hợp đồng
kỳ hạn, hoặc quyền tự chọn. Trong đó, hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng triển
hạn cơ bản là giống nhau, sự khác biệt cơ bản của hai loại hợp đồng này là
20
hợp đồng kỳ hạn chỉ được mua bán ở sở giao dịch có tổ chức, còn hợp đồng
triển hạn được mua bán ở ngoài sở giao dịch [11, tr. 46]. Còn hợp đồng tự
chọn cũng là hợp đồng ký kết giao dịch mua bán trong tương lai, nhưng khác
với hợp đồng kỳ hạn ở chỗ chỉ đặt nghĩa vụ duy nhất vào một bên. Nếu người
mua lựa chọn thực hiện quyền thì người bán hợp đồng lựa chọn có nghĩa vụ
thi hành. Để thực hiện được quyền này, người mua quyền phải trả một khoản
phí không hoàn lại cho người bán quyền. Đến kỳ hạn giao hàng, nếu giá cả
trên thị trường giao ngay cao hơn giá cố định trong hợp đồng tự chọn thì
người mua quyền chọn bán có thể hủy hợp đồng tự chọn và tự do bán hàng
hóa trên thị trường. Ngược lại, nếu giá cả trên thị trường giao ngay thấp hơn
giá cố định trong hợp đồng tự chọn thì người mua quyền thực hiện quyền
chọn bán này theo hợp đồng.
Một hợp đồng kỳ hạn có thể được kết thúc bằng việc giao hàng hữu
hình hoặc bù trừ. Tuy nhiên, hầu hết các hợp đồng kỳ hạn lại không thực hiện
việc giao hàng hữu hình. Theo số liệu của Ủy ban mua bán kỳ hạn hàng hóa
(CFTC) năm 1993 có 324 triệu hợp đồng được mua bán nhưng chỉ có 2,1
triệu hợp đồng kết thúc bằng việc giao hàng [11, tr. 143]. Năm 2003, tổng số
hợp đồng ký kết là 986,15 triệu hợp đồng được ký kết, nhưng chỉ có 9,13 triệu
hợp đồng được kết thúc bằng giao hàng thực tế (theo Results for: annual
report 2003 - Các nhà giao dịch
thường kết thúc hợp đồng kỳ hạn bằng nghiệp vụ bù trừ, bằng cách mua (hoặc
bán) một hợp đồng kỳ hạn y hệt như hợp đồng kỳ hạn đã ký kết bán (hoặc
mua) về cùng một loại hàng và thời gian giao hàng. Sau khi thực hiện xong
nghiệp vụ bù trừ, nghĩa vụ của cả hai bên mua bán đều được xóa đi trong sổ
sách của sở giao dịch. Tuy nhiên, khi đó các nhà giao dịch sẽ thanh toán chênh
lệch giá của hợp đồng kỳ hạn lúc mua (bán) và bán (mua) với sở giao dịch.
Các giao dịch kỳ hạn kết thúc bằng nghiệp vụ bù trừ còn gọi là giao dịch
khống.
21
Do tính ưu việt của hợp đồng kỳ hạn hàng hóa kết thúc bằng nghiệp vụ
bù trừ, các nhà kinh doanh đã sử dụng chúng như một biện pháp kỹ thuật nhằm
tránh những rủi ro do sự biến động của giá cả làm ảnh hưởng đến số lãi dự tính và
được gọi là nghiệp vụ tự bảo hiểm bằng hợp đồng kỳ hạn hàng hóa. Trong nghiệp
vụ mua hàng gọi là tự bảo hiểm giá lên, trong nghiệp vụ bán hàng gọi là tự bảo
hiểm giá xuống. Có thể cụ thể hóa nghiệp vụ tự bảo hiểm giá xuống như sau:
Một doanh nghiệp mua một số lượng gạo vào tháng 3 và dự tính sẽ
bán ra vào tháng 6 để thu một số lãi dự tính. Doanh nghiệp cho rằng nếu
tháng 6 giá gạo hạ xuống sẽ bị lỗ nên ngay từ tháng 3, doanh nghiệp ký kết
hợp đồng kỳ hạn bán khống một lượng gạo ngang bằng với lượng gạo đã
mua, theo giá cả của tháng 3 và thời hạn giao hàng vào tháng 6. Đến tháng 6,
doanh nghiệp bán gạo trên thị trường theo giá thị trường của tháng 6, đồng
thời ký kết một hợp đồng kỳ hạn mua lại khống một lượng gạo như hợp đồng
kỳ hạn bán theo giá của tháng 6 và thời hạn giao hàng vào tháng 6.
Như vậy, nếu giá gạo ở tháng 6 hạ hơn giá gạo ở tháng 3 thì doanh
nghiệp sẽ bị lỗ trong giao dịch hàng hóa hữu hình nhưng được lãi trong giao
dịch khống (bù trừ). Ngược lại, nếu giá gạo ở tháng 6 cao hơn giá cao ở tháng
3 thì doanh nghiệp sẽ được lãi trong giao dịch hàng hóa hữu hình nhưng lại bị
lỗ trong giao dịch bù trừ. Kết quả là lãi của hợp đồng này sẽ bù lỗ cho hợp
đồng kia làm cho doanh nghiệp không bị tác động của biến động giá cả và lãi
dự tính trong kinh doanh có thể được giữ ổn định. Tuy nhiên mức độ biến động
giá cả của hàng hóa hữu hình không hoàn toàn như trong giao dịch bù trừ.
Bên cạnh việc bán hàng theo hình thức thương mại truyền thống, các
bên đàm phán, giao dịch theo cách gặp mặt trực tiếp, cũng có thể thông qua các
phương tiện thông tin liên lạc như điện thoại, điện tín, fax, thư... Vào những
năm của thập kỷ 90, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin cùng
với những ứng dụng đa dạng của Internet trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế,
thương mại điện tử (TMĐT) được xem là một lĩnh vực ứng dụng quan trọng
22
của công nghệ thông tin đã được xuất hiện và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Theo các chuyên gia kinh tế của Liên hợp quốc ước tính, đến năm cuối cùng
của thập kỷ XX, TMĐT chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong tổng khối lượng
buôn bán của thế giới và dự đoán đến năm 2002 con số này sẽ tăng đến 15%
[3, tr. 350].
Phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát gần như mọi hoạt động kinh tế.
Hoạt động TMĐT bao gồm nhiều loại hình khác nhau và xét trên góc độ hoạt
động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, TMĐT được diễn ra theo
hai hình thức chủ yếu, là B2B (Business to Business) giao dịch thương mại
giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. B2C (Business to Customer) giao dịch
thương mại giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. So với hoạt động của
thương mại truyền thống, TMĐT có một số điểm khác biệt cơ bản. Đó là:
- Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp
với nhau và không cần phải biết nhau từ trước.
- TMĐT được thực hiện trong một thị trường không biên giới, thị trường
thống nhất toàn cầu, không bị giới hạn bởi khái niệm biên giới quốc gia.
- TMĐT dựa trên cơ sở thông tin, dữ liệu trên máy tính.
- Hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia ít nhất của ba chủ
thể, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương
mại truyền thống, xuất hiện chủ thể thứ ba đó là các nhà cung cấp dịch vụ
mạng, các cơ quan chứng thực - là những người tạo môi trường cho các giao
dịch TMĐT.
- Về quy trình giao dịch bán hàng trong TMĐT:
Một quy trình bán hàng cơ bản trong TMĐT có thể được khái quát
như sau:
23
+ Cung cấp và thu thập các thông tin lựa chọn đối tác để tiến hành giao
dịch: Để giới thiệu về mình, doanh nghiệp thiết lập các Website với các thông
tin chung về doanh nghiệp và các hàng hóa mà doanh nghiệp cung cấp.
Những dữ liệu về khách hàng của doanh nghiệp như số khách hàng truy cập,
thông tin cá nhân về khách hàng lựa chọn mua, loại hàng hóa đặt mua, số
lượng hàng mua... được cập nhật một cách kịp thời qua phần mềm xử lý thông
tin. Qua đó, doanh nghiệp có thể thu thập được các thông tin về đối tác kinh
doanh, giúp cho việc phân tích, quyết định lựa chọn đối tác để tiến hành giao
dịch.
+ Tiến hành giao dịch đàm phán để ký kết hợp đồng: sau khi lựa chọn
được đối tác giao dịch, quá trình đàm phán trong TMĐT có thể được thực
hiện bằng một chương trình phần mềm thư tín, hay qua hệ thống Web-mail
hoặc trao đổi trực tiếp trên mạng.
+ Ký kết hợp đồng: sau khi giao dịch đàm phán, thống nhất các điều
kiện thương mại, các bên tiến hành ký kết hợp đồng điện tử và hợp đồng này
được các bên ký bằng chữ ký điện tử, được xác nhận hợp pháp bởi một công
ty cung cấp dịch vụ chứng nhận điện tử.
+ Thực hiện hợp đồng: Bên mua thực hiện trả tiền thông qua việc khai
báo đầy đủ các thông số theo yêu cầu vào một mẫu quy định, sau đó gửi qua
mạng tới cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có trách nhiệm chuyển hàng hóa
đến cho người mua theo phương thức chuyển hàng đã được thỏa thuận trong
hợp đồng điện tử.
1.2.3. Các phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là toàn bộ quá trình, cách thức nhận, trả tiền
hàng trong giao dịch mua bán. Có nhiều phương thức thanh toán khác nhau
được áp dụng, mỗi phương thức đều có ưu điểm và nhược điểm, thể hiện thành
mâu thuẫn quyền lợi giữa người mua và người bán, hay giữa người nhập khẩu
24
và người xuất khẩu. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng đòi hỏi hai bên mua bán tùy
thuộc vào từng điều kiện cụ thể và mức độ tin cậy lẫn nhau để lựa chọn
phương thức thanh toán thích hợp.
- Phương thức chuyển tiền: Là phương thức trong đó khách hàng
(người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho
người khác (người hưởng lợi) ở nước ngoài theo những điều kiện mà mình
đặt ra. Phương thức này đơn giản nhưng lại ít được áp dụng trong thanh toán
vì nó luôn đặt người bán ở thế bất lợi. Do đó, phương thức này thường được
áp dụng trong trường hợp trả phí dịch vụ vận tải, bảo hiểm v.v...
- Phương thức mở tài khoản: Là phương thức mà người bán sau khi
giao hàng hoàn thành nghĩa vụ của hợp đồng, mở một tài khoản ghi nợ cho
người mua. Định kỳ nhất định do hai bên thỏa thuận, người mua tự động dùng
phương thức chuyển tiền để trả cho người bán. Phương thức này thường áp
dụng trong trường hợp hai bên mua bán phải tin cậy lẫn nhau hoặc dùng trong
phương thức hàng đổi hàng.
- Phương thức nhờ thu: Là phương thức mà người bán sau khi giao
hàng ký phát hối phiếu đòi tiền người mua, rồi đem đến ngân hàng nhờ thu hộ
số tiền trên hối phiếu đó. Phương thức này có hai hình thức: nhờ thu phiếu
trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
- Phương thức tín dụng chứng từ: Là sự thỏa thuận trong đó một ngân
hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người xin
mở thư tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba hoặc trả cho bất cứ người nào
theo lệnh của người thứ ba đó (người hưởng lợi), hoặc chấp nhận mua hối
phiếu do người hưởng lợi phát hành, hoặc cho phép một ngân hàng khác trả
tiền, chấp nhận hay mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã quy
định và mọi điều kiện đặt ra trong thư tín dụng.
25
Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức cơ bản quan trọng nhất
và được áp dụng chủ yếu trong thanh toán ngoại thương vì nó đảm bảo quyền lợi
gần như công bằng cho cả hai bên. Bên mua yên tâm khi trả tiền được đảm bảo
nhận hàng theo đúng hợp đồng, bên bán yên tâm khi hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ
giao hàng sẽ nhận được tiền. Mặt khác, phương thức thanh toán này còn đảm
bảo đầy đủ cơ sở pháp lý để giải quyết trong các trường hợp bất trắc xảy ra.
- Phương thức thư ủy thác mua: Là phương thức mà người nhập khẩu
yêu cầu ngân hàng của mình ủy thác cho ngân hàng nước ngoài, yêu cầu ngân
hàng này thay mặt mình mua các hối phiếu của người bán phát hành đòi tiền
người mua nếu chứng từ gửi hàng của người bán phù hợp với các điều kiện và
nội dung quy định trong thư ủy thác mua. Sau khi trả tiền cho người bán, ngân
hàng nước người bán sẽ chuyển chứng từ cho ngân hàng nước người mua và đòi
hoàn lại tiền.
- Phương thức thư đảm bảo trả tiền: Là phương thức thanh toán mà
ngân hàng người mua theo yêu cầu của người mua viết cho người bán một thư
đảm bảo sẽ trả tiền nếu người bán đã giao hàng xong cho người mua tại một
địa điểm quy định.
Ngoài ra trong thanh toán quốc tế còn sử dụng phương thức mua đối
ứng.
1.2.4. Các phương tiện thanh toán
Việc thanh toán tiền hàng giữa các chủ thể trong buôn bán có thể thanh
toán bằng tiền mặt hoặc không dùng tiền mặt. Để thực hiện thanh toán không
dùng tiền mặt thì phải sử dụng các phương tiện thanh toán nhất định. Đó là
những chứng từ văn bản hoặc chứng từ điện tử chứa đựng những điều kiện
thanh toán và là căn cứ để thực hiện chi trả [48, tr. 62]. Trong kinh doanh
thường sử dụng một số phương tiện thanh toán sau: