Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo THỂ HIỆN bản LĨNH CHÍNH TRỊ của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM NHÂN tố QUYẾT ĐỊNH mọi THẮNG lợi của CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.61 KB, 20 trang )

1

ĐƯỜNG LỐI ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO THỂ HIỆN BẢN
LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, LÀ NHÂN TỐ
CƠ BẢN QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA
Đảng ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Quá trình xây dựng, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định
đường lối cũng như trong tổ chức tổ chức thực hiện đường lối đó. Nét tiêu
biểu trong đường lối chính trị của Đảng là tính độc lập, tự chủ, sáng tạo. Độc
lập tự chủ, sáng tạo không chỉ là truyền thống, mà còn là nét nổi bật thuộc về
bản lĩnh chính trị của Đảng, là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi cho mọi
bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Đường lối chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo biểu hiện rõ nhất ở những lúc cách mạng gặp khó khăn, trước những
bước ngoặt của lịch sử. Đó là cơ sở bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhờ có tư duy độc lập tự chủ, sáng
tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có đường lối cách mạng đúng đắn, luôn luôn
quán triệt sâu sắc nền tảng tảng tư tưởng của Đảng, xuất phát từ thực tiễn
khách quan của đất nước để đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp, đưa
sự nghiệp đổi mới vượt qua những khó khăn thử thách, đi đến thắng lợi.
Đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng được xuất phát từ lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ yêu cầu khách quan của tình
hình thế giới cũng như thực tiễn cách mạng nước ta. Nhưng một điều không
thể phủ nhận, đó chính là bản lĩnh chính trị, năng lực thiên tài của Đảng ta khi
đứng trước những khó khăn thử thách, trước những bước quanh của lịch sử.


2



Đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng chính là thứ vũ khí giúp
Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Nhưng đó không có
nghĩa là Đảng đưa ra đường lối cách mạng một cách áp đặt chủ quan, mà
Đảng luôn quán triệt trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học
luôn yêu cầu những người cách mạng phải mạnh dạn đổi mới để tiến lên, phải
có dũng khí nhìn vào sự thật, phải có gan vứt bỏ những nhận thức của ngày
hôm qua, khi mà nó không còn phù hợp với thực tế của ngày hôm nay. Chính
Lênin đã từng chỉ rõ: Một trong những nghệ thuật của cách mạng là sự mềm
dẻo, linh hoạt, khi điều kiện khách quan đã thay đổi thì người cách mạng phải
nhanh chóng thay đổi sách lược. Lênin còn nhấn mạnh, chúng ta phải: “Chọn
một con đường khác để đi tới đích...nếu con đường cũ, trong một thời gian
nhất định nào đó, xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa”.1
Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bám sát thực tiễn cách mạng cụ thể ở Việt
Nam để từ đó định ra đường lối đúng đắn, phù hợp. Đồng thời Người cũng
nêu cao tư tưởng độc lập tự chủ, với phương châm: “ Đem sức ta mà giải
phóng cho ta”; “ Muốn người giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình
đã”. Người cũng hết sức phê phán tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, tư
tưởng không dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Người nói: “ Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ, thì
không xứng đáng được hưởng độc lập”.2
Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn quán
triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn xuất phát từ thực tiễn cách mạng.
Trên cơ sở đó, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
1
2

. V.I- Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ Mát-xcơva, 1978, Tập 44, Tr.198.

. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, Tập 6, Tr.522.


3

hoạch định đường lối lãnh đạo, trong phát động phong trào cách mạng, để từ
đó tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc, bất chấp những khó khăn thử thách, bất
chấp sự can thiệp, chi phối từ bên ngoài, đem lại thắng lợi cho cách mạng.
Thực tiễn cách mạng cho thấy, hoàn cảnh luôn thay đổi, nếu Đảng ta không
biết sáng tạo, không đổi mới kịp thời, khi đó sẽ không theo kịp với thời cuộc,
cách mạng sẽ dậm chân tại chỗ, nhưng sáng tạo mà không có cơ sở khoa học
sẽ dẫn đến đi chệch quĩ đạo. Do vậy, tính sáng tạo ở đây đòi hỏi phải đúng
đắn, khoa học, có vậy mới đưa cách mạng phát triển đúng hướng. Đồng thời
phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ; chúng ta độc lập trong tư duy, độc lập
trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, không bị lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào,
sự can thiệp nào từ bên ngoài, có vậy những quyết sách đưa ra mới đúng đắn,
kịp thời.
Thực tiễn trong suốt 78 năm qua, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc
lập tự chủ, sáng tạo, để có đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng đi
đến thắng lợi. Sự sáng tạo của Đảng được thể hiện ngay trong qui luật ra đời
của Đảng, đó là sự kết hợp không chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào
công nhân và mà còn thêm một yếu tố là phong trào yêu nước. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhờ có đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo,
mà Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã có Cương lĩnh, đường lối cách mạng
đúng đắn, đưa cách mạng phát triển vào trào lưu tiến bộ nhất của nhân loại, để
cách mạng phát triển đúng hướng từ đó về sau. Khi đó, nếu không có tính độc
lập tự chủ, sáng tạo, thì Đảng ta sẽ chấp nhận sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản một cách thụ động. Nhưng nhờ có tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã
đưa ra Cương lĩnh, đường lối phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó
chính là việc Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng, phải trải qua

hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ


4

đó Đảng phát động được cao trào rộng khắp, thu hút, tập hợp được lực lượng
cách mạng to lớn, mặc dù phải đương đầu với không ít khó khăn thử thách,
song với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng mục tiêu đã định, Đảng đã
lãnh đạo, xác định mục tiêu đấu tranh phù hợp cho từng giai đoạn, xác định
đúng đắn kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, đó là đặt nhiệm vụ đánh đế quốc,
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó đoàn kết, tập hợp được lực lượng cách
mạng to lớn, giành thắng lợi qua các cao trào 30- 31; 36- 39 đặc biệt cao trào
39- 45, để đưa cách mạng Tháng Tám đến thành công. Khi thời cơ đến “dù
phải đốt cháy dãy Trường sơn cũng phải dành cho được độc lập”; nghệ thuật
khởi nghĩa tháng Tám là một điển hình về tính chủ động, sáng tạo của Đảng.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng trong
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Các thế lực đế quốc cấu kết với nhau, định
thủ tiêu chính quyền non trẻ, tiêu diệt Đảng Cộng sản. Đảng hết sức sáng tạo
trong chính sách hoà hoãn, nhân nhượng kẻ thù, khi thì hoà Tưởng để chống
Pháp, khi thì hoà với Pháp để gạt Tưởng, tránh cho nhân dân ta cùng một lúc
phải đương đầu với nhiều kẻ thù. Thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; đó là
những biện pháp cực kỳ sáng suốt, nhưng Đảng vẫn giữ vững nguyên tắc độc
lập, thống nhất Tổ quốc, mềm dẻo linh hoạt trong sách lược.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng vậy, nhờ đường
lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đưa ra đường lối đấu tranh đúng đắn, vừa
tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế, vừa không phụ thuộc vào sự chỉ đạo
của bên ngoài, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Nhìn lại cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về
Đảng. Mặc dù khi đó bạn bè quốc tế khuyên ta không nên đánh Mỹ, trong đó

có ý kiến lo lắng cho cuộc chiến không cân sức giữa ta và Mỹ; lại có ý kiến
khuyên ta không nên đánh Mỹ “sợ một đám lửa làm cháy cả một cánh rừng”,
nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, bởi “Mỹ giàu nhưng


5

không mạnh”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Đáng cho Mỹ cút,
Nguỵ nhào”. Khi đó Liên Xô, Trung Quốc giúp đỡ ta rất lớn về vật chất, tinh
thần, nhưng chúng ta không vì thế mà phụ thuộc vào họ, điều đó chứng tỏ bản
lĩnh kiên định và thể hiện tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, một lần nữa, tính độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng được phát huy. Mặc dù đất nước mới cơ bản hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc, miền Nam tiếp tục
cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhưng Đảng đã độc lập, sáng tạo trong
việc đề ra đường lối đúng đắn, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, miền
Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chính sự đúng đắn,
sáng tạo đó đã giúp cho cách mạng Việt Nam phát triển đúng quĩ đạo, đi đến
thắng lợi. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhanh chóng đạt được
những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời là hậu
phương lớn chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam, để hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cả nước thống nhất
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta do còn
những bỡ ngỡ, lúng túng, nên không tránh khỏi những vấp váp. Đặc biệt cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp không phù hợp, thêm vào đó tư tưởng
chủ quan duy ý chí, thoả mãn với thắng lợi đạt được từ đó làm cho đất nước
rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong thời kỳ này nền kinh tế của ta chủ
yếu là sản xuất nhỏ, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Đội ngũ cán
bộ của Đảng trong chiến tranh cơ bản có tinh thần yêu nước, dám hy sinh vì

nền độc lập của dân tộc, có phẩm chất đạo đức trong sáng, nhưng trình độ văn
hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế, không còn
phù hợp với cơ chế sản xuất mới, chưa đáp ứng kịp thời với sự phát triển của
đất nước. Mặt khác cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã phát huy trong điều


6

kiện đất nước có chiến tranh, đến nay không còn phù hợp nữa, trở thành lực
cản đối với sự phát triển của đất nước.
Trước tình hình đó, một lần nữa bản lĩnh chính trị, đường lối độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng được thể hiện. Đảng đã kịp thời nhận rõ khuyết điểm
là đã kéo dài quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, từng bước tìm tòi
những biện pháp khắc phục những khuyết điểm ấy. Trước hết Đảng chủ
trương xoá bỏ bao cấp, tạo cho quá trình sản xuất bung ra đúng hướng, phát
triển một cách hợp lý, đó chính là quá trình Đảng tiến hành đổi mới từng
phần, từng lĩnh vực riêng lẻ. Đó là quá trình tìm tòi cơ chế, chính sách trong
sản xuất nông nghiệp, trong công nghiệp và trong phân phối lưu thông. Có thể
coi Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (năm 1979) với chủ trương và quyết tâm
làm cho sản xuất “ bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở
nước ta. Chỉ thị 100-CT/TW, năm1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác
xã nông nghiệp đã ra đời. Trên lĩnh vực công nghiệp, bước đầu xác định
quyền tự chủ của cơ sở trong sản xuất, kinh doanh, Quyết định 25/CP,
năm1981 của Hội đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở
rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, được áp dụng. Trên lĩnh vực
cải tạo xã hội chủ nghĩa, vấn đề sử dụng các thành phần kinh tế đã được đặt
ra; từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất
thích hợp; chính sách đối với kinh tế có thể từng bước được điều chỉnh cho

đúng thực tế hơn nhấn mạnh chống tư tưởng nóng vội, chủ quan, mệnh lệnh,
làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống. Cho đến đầu những năm 80,
không còn xem kế hoạch hoá là công cụ duy nhất để định hướng phát triển
kinh tế, đã khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường, kết
hợp thị trường có kế hoạch và thị trường không có kế hoạch; có sự nhìn nhận


7

tích cực hơn đối với kinh tế tư nhân; xem tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá
đúng, sai của chính sách kinh tế là năng suất lao động có được nâng cao hay
không, có làm cho sản xuất phát triển và đời sống của nhân dân được cải thiện
hay không.
Tuy đó chỉ là những khám phá ban đầu, nhưng nó có ý nghĩa hết sức
quan trọng, mở ra hướng đi cụ thể, đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trên
cơ sở thành công của quá trình đổi mới từng phần, tình hình kinh tế- xã hội đã
có bước chuyển biến quan trọng, kinh tế có sự tăng trưởng đáng kể. Tuy
nhiên, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đất nước chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế- xã hội, thực tế nảy sinh nhiều khó khăn mới tưởng
chừng khó có thể vượt qua. Hội nghị Trung ương 8 khoá V (năm 1985) đánh
dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật
theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh
doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và
những quy luật của sản xuất hàng hoá. Sau Nghị quyết Trung ương 8 chúng ta
tổ chức thực hiện, mắc phải những khuyết điểm, làm cho giá cả tăng nhanh,
lạm phát ở mức độ khó kiểm soát. Hàng loạt nhà máy không có việc làm,
công nhân không có lương, quần chúng một số nơi tỏ ra hoang mang, dao
động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, niềm tin của nhân dân đối với

Đảng bị mai một.
Tháng 8- 1986, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, trên lĩnh
vực kinh tế, kết luận: phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức
phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc;
xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời


8

phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới
thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, có vai trò định hướng cho Đảng đã
kịp thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhưng có trọng tâm, trọng điểm để từng bước tháo gỡ khó khăn,
đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, vững bước trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta không dập khuôn, bắt trước
các nước về cách thức tiến hành đường lối đổi mới, đồng thời từ kinh nghiệm
cải tổ, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới cho thấy, nếu xa
rời nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ định những thành
tựu của chủ nghĩa xã hội, phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin, hạ thấp đi đến vô
hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì công cuộc đổi mới sẽ mất
phương hướng, lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội. Chính vì thế, khi các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào khủng hoảng dẫn đến đổ vỡ do
sai lầm về đường lối cải tổ, cải cách, nhưng công cuộc đổi mới của đất nước
dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn phát triển một cách vững chắc. Đại hội
VI( tháng 12 năm 1986 ), Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ
sự thật, đánh giá đúng sự thật, để từ đó đưa ra đường lối đổi mới. Đường lối

đổi mới do Đại hội VI khởi xướng, được Nghị quyết Đại hội Đảng VII, các
nghị quyết Trung ương, nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng bổ xung, phát triển.
Thực tiễn cho thấy, từ cuối năm 1988, công cuộc cải tổ, cải cách ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ngày càng chao đảo. Việc
thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập, phủ nhận sạch trơn quá khứ
cách mạng; chĩa mũi nhọn phê phán vào Đảng Cộng sản, vào có nghĩa Mác -


9

Lênin và tung ra các tư tưởng, quan điểm xa lạ làm cho tình trạng khủng
hoảng ở các nước này ngày càng trầm trọng, xã hội ngày càng hỗn loạn.
Trong bối cảnh đó, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (năm 1989), cùng với
việc tiếp tục bổ sung, phát triển đưa lối đổi mới, Đảng ta đã nêu ra 6 nguyên
tắc đổi mới trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã
hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp phù hợp hơn để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; phải giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên
định nguyên tắc tập trung dân chủ, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập... Việc khẳng định các nguyên tắc đó đã góp phần ngăn chặn có
hiệu quả những tư tưởng hoang mang dao động; giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đường lối độc lập, sáng tạo của Đảng trong đổi mới chính là việc
Đảng ta xuất phát từ thực tiễn, nắm vững qui luật khách quan. Đường lối của
Đảng nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm,
khẳng định là đúng đắn. Đường lối đó là kết quả của quá trình Đảng tìm tòi,
khảo nghiệm, tổng kết từ thực tiễn cách mạng, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm của cách mạng thế giới. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng xác định
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời Đảng
đề ra đường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện, đồng bộ, triệt để trên tất
cả các lĩnh vực. Tuy nhiên giai đoạn đầu tập trung vào đổi mới trên lĩnh vực
kinh tế, trước hết là tư duy kinh tế. Sau hai năm tiến hành đổi mới, Đảng ta
xác định: “ Trong mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
chúng ta tập trung sức làm đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị”. 3 Tổng kết thực tiễn
3

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 ( khoá VI), Nxb CTQG, H.1989, tr.18.


10

công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ VII đã nhấn mạnh: Trong những năm đầu
của công cuộc đổi mới, phải lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, phải tập trung
mọi lỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách về kinh tế. Trên lĩnh vực kinh tế,
Đảng chủ trương đổi mới tư duy kinh tế, nhận thức đúng về các thành phần
kinh tế, khuyến khích phát triển kinh tế hành hoá nhiều thành phần; giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Đường lối đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng,
lãnh đạo đã đáp ứng nhu cầu khách quan của cách mạng nước ta, do đó, nó
như một luồng sinh khí mới thổi vào, tạo ra một sự chuyển biến mau chóng
cho đất nước. Chúng ta đã giải quyết được những yêu cầu bức thiết của cuộc
sống, vừa ổn định cuộc sống cho nhân dân, vừa tích luỹ để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị - xã hội.
Đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong đổi mới còn được
thể hiện là: Đảng luôn bám sát thực tế, tôn trọng qui luật khách quan, vừa
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách, cải tổ của các nước xã hội chủ
nghĩa trên thế giới, nhưng không chịu sức ép, sự áp đặt, không dập khuôn

máy móc, không giáo điều bảo thủ. Điều đó được thể hiện trong những năm
cuối của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ. Xu
hướng đối đầu đã được thay thế bằng đối thoại, hoà bình hợp tác đã trở thành
xu thế khá phổ biến trong quan hệ quốc tế. Những thành tựu trong lĩnh vực
khoa học công nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển, đồng thời đặt
ra cho các nước, các dân tộc muốn phát triển phải biết tranh thủ thời cơ, vận
dụng thành tựu khoa học. Trong bối cảnh đó, tình hình cải cách, cải tổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng, thế
giới mất đi lực lượng đối trọng với Mỹ. Chủ nghĩa đế quốc điên cuồng chống
phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam, bằng chiến lược “diễn biến
hoà bình”, nhằm làm chuyển hoá dần dần đi đến xoá bỏ hoàn toàn chế độ xã


11

hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng ta đã có sự điều chỉnh
kịp thời, bằng những chủ trương đúng đắn, phù hợp, từ đó đưa sự nghiệp đổi
mới đạt được những thành tựu to lớn, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta còn được thể hiện
trong quá trình đổi mới Đảng đã thực sự tự xây dựng, chỉnh đốn để đổi mới,
kể cả trong tư duy cũng như trong hành động. Tuy nhiên, Đảng luôn quán
triệt quan điểm biện chứng, đó chính là phát triển nhưng có kế thừa, Đảng
không phủ nhận sạch trơn, mà biết kế thừa những thành tựu, những yếu tố
tích cực mà nhân dân ta đã đạt được trong thời gian trước đó. Đồng thời Đảng
cũng không phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, không phủ nhận những
qui luật phổ biến; trái lại, Đảng luôn quán triệt và vận dụng sâu sắc các
nguyên lý, qui luật của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn quá trình đổi mới; nhận
thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, lựa chọn hình thức,
bước đi phù hợp từ đó đem lại thành tựu to lớn cho công cuộc đổi mới ở nước

ta.
Quá trình đổi mới, Đảng chủ trương phải toàn diện, triệt để, đồng bộ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải có hình thức, bước đi
thích hợp. Đây chính là mắt khâu quan trọng để đi đến thành công của Đảng
ta trong công cuộc đổi mới. Sau đường lối đổi mới mà Đại hội VI, chúng ta đã
tiến hành đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là cuộc cách mạng,
là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra kể cả về lý luận cũng như thực tiễn cần được giải
quyết, chúng ta vừa đổi mới, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, từng bước tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, sao cho đi
đúng qui luật khách quan, phát triển vững chắc phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn đặt ra.


12

Đổi mới là công việc hệ trọng, mang tính sống còn đối với mỗi quốc
gia, là công việc hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ xã
hội, như mối quan hệ giữa người với người, giữa con người với tổ chức…Dễ
bị kẻ thù lợi dụng chống phá. Nếu tiến hành không thận trọng, không có hình
thức, bước đi vững chắc, sẽ dẫn đến đổ vỡ. Đây chính là bài học đắt giá cho
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã xảy ra mà Đảng ta cần
rút ra trong quá trình đổi mới. Chính vì thế, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta
đã biết tập trung đột phá đổi mới vào hai lĩnh vực then chốt, trọng yếu nhất,
đó là kinh tế và chính trị, đồng thời giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng xác định kinh tế và chính trị là hai
lĩnh vực lớn, quyết định sự thay đổi bộ mặt đất nước, quyết định đến nhiệm
vụ giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị quốc gia, trật tự
an toàn xã hội. Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị phải được tiến hành đồng thời, nhưng giai đoạn đầu tập trung sức

cho đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước, thận trọng đổi mới chính trị. Bởi
chỉ có như thế chúng ta mới giải quyết được mắt khâu quan trọng nhất của
công cuộc đổi mới, xét đến cùng cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định sự ra đời
và tồn tại của một chế độ xã hội. Kinh tế phát triển sẽ bảo đảm chính trị ổn
định, văn hoá, giáo dục phát triển, quốc phòng, an ninh được giữ vững, đời
sống nhân dân được cải thiện. Trong đổi mới kinh tế, trước hết tập trung vào
lĩnh vực tư duy kinh tế, sau đến thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, làm thay đổi
toàn bộ những suy nghĩ, những nhận thức trước kia chưa đúng, chưa đầy đủ.
Thay đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, bằng cơ chế kế hoạch
hoá, từ đó khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Chính quá trình đổi mới kinh tế thành công, đã có tác động tích cực đối
với việc đổi mới chính trị, đó là sự giữ vững định hướng chính trị trong quá


13

trình đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế là mặt trận đấu tranh giai cấp gay go
quyết liệt, phức tạp nhất, nếu đổi mới kinh tế đạt kết quả sẽ tạo điều kiện cho
đổi mới chính trị thắng lợi. Đồng thời kết hợp với đổi mới kinh tế, đổi mới
chính trị sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho nền kinh tế phát triển đúng hướng, có
hiệu quả. Trong đổi mới chính trị, thể chế chính trị, vai trò của nhà nước có
tác động đến năng lực hiện thực hoá đường lối phát triển kinh tế đất nước.
Trong đổi mới chính trị, Đảng chủ trương tập trung vào việc xây dựng và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị. Chính việc giải quyết hài hoà mối quan hệ đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị đã giúp cho nền kinh tế đất nước ta tăng trưởng khá, đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện, chính trị ổn định, quốc phòng và
an ninh được giữ vững.
Đường lối đổi mới độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng, là sản phẩm của

sự kế thừa lịch sử, truyền thống tốt đẹp của dân tộc qua hàng ngàn năm dựng
nước, giữ nước. Đồng thời còn là sự kế thừa giá trị tinh hoa nhân loại, biết
vận dụng cụ thể vào thực tiễn, yêu cầu đòi hỏi của cách mạng. Đảng ta, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường, trên cơ sở đó đề ra những quyết sách đúng đắn đưa cách
mạng đi đến thắng lợi. Chúng ta không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài, chúng
ta không bị ép buộc bởi bất cứ một thế lực nào. Đồng thời, Đảng cũng không
dập khuôn bất cứ một mô hình nào vào đường lối đổi mới, mà luôn sáng tạo
trong đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm, để công cuộc đổi mới thành công.
Đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo luôn là tư tưởng nhất quán, xuyên
suốt, là nguyên tắc sống còn đối với cách mạng Việt Nam, chính vì thế Đảng
ta mới thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng Mác xít chân
chính, trước những bước quanh của lịch sử, Đảng mới thể hiện được trách
nhiệm cao cả trước dân tộc. Có được thành công đó, chính là nhờ Đảng luôn


14

có đường lối đúng đắn, Đảng ta luôn nắm vững qui luật khách quan, biết dựa
vào dân, phát huy sức mạnh của dân. Đường lối đổi mới đã nảy sinh và phát
triển từ thực tiễn, trở thành xu hướng rõ rệt của quần chúng nhân dân, bắt gặp
tư duy sáng tạo của Đảng; đó là sự hoà quyện “ý Đảng lòng dân”, đi từ đổi
mới từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ, tiến lên đổi mới toàn diên, đồng bộ,
triệt để. Qua 20 năm đổi mới (1986- 2006), cách mạng nước ta đã giành được
những thành tựu to lớn, rất quan trọng: “ Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy
giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân
5 năm ( 2001- 2005) là 7,51% và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và
xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói giảm nghèo;
đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Chính trị- xã hội ổn định, quốc

phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba
lĩnh vực...sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy...”. 4 Đồng
thời qua quá trình đổi mới, Đảng đã tổng kết, rút ra được những bài học quý
giá. Điều đó càng thấy rõ trong quá trình đổi mới, Đảng luôn tìm tòi, sáng tạo
tìm ra hướng đi thích hợp nhất cho dân tộc, không lúc nào Đảng bằng lòng
với thành quả đã đạt được trong thời gian qua, mà mong muốn đạt kết quả cao
hơn nữa trong các giai đoạn tiếp theo. Nhìn lại quá trình hình thành và phát
triển đường lối đổi mới của Đảng ta có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, đường lối đổi mới không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả
của cả một quá trình tìm tòi, thể nghiệm; thông qua những trăn trở, đấu trành
gianh gian khổ về tư duy trên cơ sở tổng kết thực tiễn kết hợp với vận dụng lý
luận, tạo ra những đột phá quan trọng; đó là quá trình đổi mới từng bước từ
thấp đến cao, từ đổi mới bộ phận, từng mặt đến đổi mới toàn diện.
4

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.14.


15

Hai là, trong quá trình đổi mới, ý kiến, sáng kiến cách làm sáng tạo
của nhân dân các địa phương là cực kỳ quan trọng. Nếu biết lắng nghe, chắt
lọc, tổng kết khái quát thì sẽ có những quyết sách đúng những chủ trương phù
hợp, nhất là vào những thời điểm khó khái hoặc có tính bước ngoặt.
Ba là, đổi mới là một cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, nhiều khi
nó diễn ra ngay trong mỗi con người, trong từng tổ chức. Thành công của
Đảng ta là ở chỗ kiên quyết đổi mới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám thừa
nhận sai lầm; từ bỏ những cách nghĩ, cách làm không còn phù hợp; kiên quyết
khắc phục tư tưởng bảo thủ, giáo điều; đồng thời không rơi vào cực đoan, nôn

nóng. Đảng ta nhiều lần khẳng đính, phải kiên quyết đổi mới, đổi mới là sống
còn, nhưng phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, không
xa rời mục tiêu.
Bốn là, đường lối đổi mới được hình thành trên cơ sở độc lập tự chủ,
sáng tạo, xuất phát từ thực tế Việt Nam, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm
các nước khác một cách có chọn lọc; đường lối ấy hợp quy luật, thuận lòng
người, nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống.5
Trên cơ sở kết quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới, bằng những
bài học rút ra, đồng thời, Đảng không ngừng phấn đấu vì mục tiêu “ Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính vì thế từ khi khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo
làm cho đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, kinh tế tăng trưởng
năm sau cao hơn năm trước, chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh
được giữ vững, quan hệ đối ngoại được rộng mở. Có được kết quả ấy bởi vì
Đảng luôn có đường lối, phương pháp lãnh đạo đúng đắn, phù hợp qui luật
khách quan, hợp lòng dân. Phương hướng, mục tiêu Đảng đưa ra luôn phù
hợp thực tiễn, được nhân dân phấn đấu hết mình, điều đó càng khẳng định
5

Tổng kết XX năm đổi mới, Nxb CTQG, HN 2005


16

được tính đúng đắn của Nghị quyết đề ra. Ngay trong chỉ tiêu Nghị quyết Đại
hội Đảng X Đảng ta đã chỉ rõ: “ ...phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính
trị- xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện

đại. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền
vững, gắn với phát triển con người. Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước
( GĐP) gấp hơn hai lần so với năm 2000. Trong 5 năm 2006- 2010, mức tăng
trưởng GĐP bình quân đạt 7,5- 8%/ năm, phấn đấu đạt trên 8%/ năm”.6
Tuy nhiên công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cũng
đang bộc lộ một số vấn đề mới nảy sinh: Việc thành được một khung lý luận
vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa rõ
ràng; các bước đi của cả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được
làm rõ; Tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, chất lượng tăng
trưởng còn thấp; cân đối vĩ mô của nền kinh tế còn thiếu vững chắc; đời sống
nhân dân ở nhiều vùng còn khó khăn; thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chậm được hình thành đồng bộ, hệ thống thị trường còn bất
cập. Chuyển dịch lao động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề
khác còn rất khó khăn; tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp. Chưa có một
quan niệm thống nhất về vấn đề xã hội hoá các hoạt động dịch vụ, về công
bằng và bình đẳng, về sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta; khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, miền
xuôi và miền núi đang có xu hướng ngày càng doãng ra. Hiện tượng làm giàu
phi pháp do buôn lậu và tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi có
hiệu quả. Công tác xây dựng Đảng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực
6

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.76.


17

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; phương thức lãnh đạo của Đảng còn
lúng túng, hạn chế, chưa phát huy đầy đủ vai trò của chính quyền và các đoàn
thể nhân dân. Điều đó đòi hỏi đảng phải kiên định vững vàng, thường xuyên

tự chỉnh đốn, tự đổi mới; quán triệt sâu sắc quan điểm độc lập, tự chủ, sáng
tạo để hoạch định đường lối; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa
đất nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Từ những nội dung cơ bản trên đây, có thể khẳng định rằng, tính độc
lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta luôn luôn được phát huy cao độ trong suốt
quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày thành lập đến nay,
trải qua 78 năm, Đảng luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
việc hoạch định đường lối lãnh đạo, cũng như trong quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo cách mạng. Chính nhờ tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng mà cách
mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến phức tạp, khó lường, luôn chứa đựng những nhân tố gây mất ổn định
chính trị- xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc sắc tộc, tôn giáo
đang diễn ra với nội dung, hình thức mới. Kẻ địch không ngừng tăng cường
chống phá cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam ngày càng có nhiều thủ
đoạn tinh vi hơn, nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà nhân dân
ta đã phấn đấu,xây dựng. Điều đó càng đặt ra cho Đảng phải luôn phát huy
cao độ bản lĩnh của mình để chiến thắng kẻ thù, muốn vậy vấn đề đặt lên
hàng đầu là Đảng phải nêu cao tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định
đường lối đổi mới giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã
đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, đồng thời từ những bài học rút ra
trong quá trình đổi mới, để Đảng đưa ra đường lối đổi mới những năm tiếp
theo, với mục tiêu: “ Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước


18

chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát
triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời

sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn
định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong
khu vực và trên trường quốc tế ”.7
Hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang hực hiện với nội
dung và yêu cầu mới. Sự nghiệp đó đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế có
nhiều diễn biến phức tạp cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc tính chất chất ngày
càng gay gắt. Trước mắt chiến tranh thế giới ít có khả năng xảy ra. Nhưng
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, can thiệp quân sự lật đổ diễn ra nhiều
nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh “ diễn
biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ hòng xoá bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) vừa tạo thời cơ lớn, vừa đặt ra nhiều thách thức gay gắt.
Trước tình hình đó, lại càng đòi hỏi Đảng ta càng phải nêu cao hơn nữa tính
độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối chiến lược. Đòi hỏi:
“Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc; tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, tri thức mới của thời đại,
nâng cao năng lực trí tuệ; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ tư duy lý luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt,

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.185186.
7


19

sáng tạo về sách lược, phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi

mới vô nguyên tắc, chủ quan, nóng vội”8.
Tranh thủ mọi thời cơ như: nguồn vốn, công nghệ, đầu tư từ bên ngoài,
đồng thời đẩy lùi các nguy cơ như: chiến tranh, xung đột, cô lập, cấm vận,
khủng bố... để phát triển đất nước. Trong chính sách đối nội, Đảng phải luôn
có chính sách đúng đắn, phù hợp, khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển, để từ đó tranh thủ mọi nguồn lực trong nước, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, tuy nhiên phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự ổn định về
chính trị- xã hội, quốc phòng và an ninh vững chắc. Để đạt được mục tiêu
cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi Đảng phải thường
xuyên nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, sớm đưa
đất nước ta mới thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Kiên quyết
đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch hòng nhằm xoá
bỏ CNXH ở Việt Nam, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; những
biểu hiện lệch lạc, dập khuôn máy móc; hoặc tư tưởng bài ngoại, không biết
tận dụng sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tận dụng những kiến thức văn minh
của nhân loại, đều không đúng với quan điểm của Đảng.
Khẳng định những thành quả đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa
qua là không thể phủ nhận; điều đó không chỉ chúng ta ghi nhận, mà bạn bè
quốc tế cũng rất đánh giá cao thành tựu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Nhưng không khi nào Đảng xa rời nguyên tắc, mục tiêu đã được xác định;
Đảng luôn kiên định với mục tiêu, con đường đã lựa chọn, con đường đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, không vì những khó khăn trước mắt mà dao động,
mà từ bỏ Cương lĩnh, đường lối đã được xác định. Trong quá trình đổi mới
tiếp theo, để đạt được thành tựu to lớn, đưa sự nghiệp đổi mới đạt được những
8

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006.


20


kết quả to lớn hơn nữa Đảng phải thường xuyên nêu cao hơn nữa tính độc lập,
tự chủ, sáng tạo của mình. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên phát huy trí
tuệ của toàn Đảng, toàn dân, không độc đoán chuyên quyền, không bao biện
làm thay, thường xuyên đổi mới tư duy, cách làm, sao cho theo kịp với tình
hình phát triển của đất nước, khu vực và trên thế giới.
Trong những năm tới càng đòi hỏi tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, sáng tạo càng được Đảng phát huy cao hơn nữa, nhằm dự báo chính
xác tình hình, đề ra đường lối đổi mới, chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù
hợp với tình hình thực tiễn cách mạng, xu thế phát triển của quốc tế. Đồng
thời biết kế thừa, phát huy kinh nghiệm, kết quả đã đạt được trong công cuộc
đổi mới vừa qua, đưa sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi, phấn đấu vì mục
tiêu mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra:“ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
băng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các
nước tiên tiến trên thế giới”9.

9

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.10.



×