Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của đảng cộng sản việt nam trong đường lối cách mạng miền nam (1954 1964)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.17 KB, 75 trang )





TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**********



ĐỖ THỊ THANH TUYẾN



TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG MIỀN NAM
(1954 - 1964)


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng

Người hướng dẫn khoa học
TS. Khuất Thị Hoa







HÀ NỘI - 2015

Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến K37 – CN Lịch sử
LỜI CẢM ƠN

Khóa luận tốt nghiệp với đề tài "Tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đường lối cách mạng miền Nam (1954 -
1964)" được thực hiện tại trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 dưới sự hướng
dẫn của TS. Khuất Thị Hoa.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Cô Khuất Thị
Hoa - người đã hướng dẫn tận tình, đầy hiệu quả, thường xuyên dành cho tôi
sự chỉ bảo, giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn đến gia đình, các thầy cô giáo trong khoa và toàn thể
các bạn trong lớp K37C Cử Nhân Lịch Sử đã động viên, tạo mọi điều kiện
giúp đỡ Tôi trong suốt quá trình nghiên cứu cũng như học tập tại trường.

Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận


Đỗ Thị Thanh Tuyến

Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến K37 – CN Lịch sử
LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp "Tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong Đường lối cách mạng miền Nam (1954 - 1964)"

được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của Cô Khuất Thị Hoa.
Tôi xin cam đoan đề tài này là kết quả nghiên cứu của riêng Tôi, không
trùng với bất kỳ kết quả nào của các tác giả khác.

Hà Nội ngày 04 tháng 05 năm 2015
Tác giả khóa luận


Đỗ Thị Thanh Tuyến













Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến K37 – CN Lịch sử
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Đối tượng, mục đích nhiệm vụ nghiên cứu 4

4. Đóng góp của khóa luận 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Kết cấu của khóa luận 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ SÁNG TẠO 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 6
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính sáng tạo trong
hoạt động của Đảng Cộng sản. 6
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, sáng tạo 8
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 10
1.2.1. Thời kỳ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng (1920-1930). 10
1.2.2. Đảng tiếp tục hoàn chỉnh đường lối cứu nước và đấu tranh
giành chính quyền (1930 -1945) 15
1.2.3 Thời kỳ đấu tranh giữ vững chính quyền cách mạng và tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp
Mỹ (1945 -1954). 22
Chương 2. TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP TỰ CHỦ SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG
TRONG ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM 1954 - 1964 29
2.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG
LỐI CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM 29
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến K37 – CN Lịch sử
2.1.1. Bối cảnh lịch sử 29
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng ở
Miền Nam 1954 - 1964 34
2.2. TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP – TỰ CHỦ - SÁNG TẠO LÀ SỢI CHỈ
ĐỎ XUYÊN SUỐT ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM
1954 - 1964 45
2.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU 57

2.3.1. Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế
thừa truyền thống quý báu của dân tộc 57
2.3.2. Kết hợp sáng kiến của quần chúng với trí tuệ của toàn Đảng
và bộ tham mưu của Đảng 61
2.3.3. Ở vào thời điểm bước ngoặt của cách mạng, Đảng càng phải
phát huy tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo 63
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67




Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 1 K37 – CN Lịch sử
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng độc lập, tự chủ, sáng tạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng
là vấn đề vô cùng quan trọng của Đảng cầm quyền. Nó có ý nghĩa quyết định
đến thành bại của cách mạng.
Trong lịch sử tiến hóa của xã hội loài người, sự đa dạng về truyền
thống, phong tục tập quán, bản sắc văn hóa, đạo lý của các dân tộc là một sự
thật và quy luật phổ biến. Theo đó, để dân tộc mình phát triển đúng với sự
tiến hóa của loài người, các tổ chức chính trị cầm quyền ở đó không thể xây
dựng Cương lĩnh hoạt động của mình một cách giáo điều, rập khuôn theo kinh
nghiệm của các đảng khác, hay một tổ chức quốc tế nào khác.
Các nhà sáng lập ra học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học đã từng chỉ
rõ: Các Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng ở từng nước, phải chịu trách
nhiệm trước giai cấp, trước dân tộc mình, xác định cho được phương hướng
và biện pháp cách mạng đúng đắn, sao cho phù hợp với nguyên lý phổ biến

của chủ nghĩa Mác – Lênin, phù hợp với thực tiễn đất nước, để đưa đất nước,
dân tộc mình ngày càng phát triển. Nhưng không phải không có những Đảng
Cộng sản, những người cộng sản ở một thời kỳ nào đó lại mắc bệnh chủ quan
giáo điều, không tìm ra phương hướng đúng cho cách mạng nước mình, đã
dẫn tới làm cho cách mạng gặp khó khăn, thậm chí bị tổn thất. Vì vậy, độc
lập, tự chủ, sáng tạo là nguyên tắc, là bản lĩnh của các Đảng Cộng sản nói
chung và của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 80 năm qua cho thấy, khi nào
đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, có đường lối độc lập
tự chủ sáng tạo thì cách mạng nước ta phát triển và giành được thắng lợi. Khi
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 2 K37 – CN Lịch sử
nào tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo không được phát huy một cách đầy đủ
thì cách mạng không phát triển, gặp khó khăn thậm chí còn thất bại.
Cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử
và tầm vóc thời đại sâu sắc, để lại dấu ấn Việt Nam trong suốt thế kỷ XX. Có
nhiều nguyên nhân, song cội nguồn của nó là tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo
được coi là nguyên tắc chiến lược trong quá trình lãnh đạo, đặc biệt trong
những thời điểm lịch sử có ý nghĩa bản lề. Hoạch định đường lối cách mạng
miền Nam giai đoạn 1954-1964 là một điển hình trong việc vận dụng chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm của các nước và của
dân tộc. Vì vậy, cách mạng Việt Nam đã phát huy được tối đa sức mạnh tổng
hợp của dân tộc và thời đại, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ, tiến tới đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của chúng,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân mới trên phạm vi toàn thế giới. Nghiên cứu cách mạng miền
Nam là một đề tài khoa học lịch sử vô cùng phong phú và hấp dẫn, với khả
năng của một sinh viên năm cuối khoa lịch sử, em mạnh dạn chọn đề tài: “Tư
tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đường lối
cách mạng miền Nam (1954 - 1964)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân

ngành khoa học lịch sử của mình góp phần khẳng định mạnh mẽ hơn nữa vai
trò của phương pháp luận khoa học đối với sự lãnh đạo của của Đảng trong sự
nghiệp cách mạng miền Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã kết thúc
thắng lợi gần 40 năm nay. Thắng lợi đó không những có ý nghĩa to lớn đối
với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa đối với quốc tế và thời đại. Do vậy đã có
nhiều công trình khoa học, bài viết về tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Có thể kể các loại sau:
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 3 K37 – CN Lịch sử
+ Các văn kiện của Đảng:
- Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ VI (mở rộng)
khóa II, 7-1954. Trường Nguyễn Ái Quốc văn kiện lịch sử Đảng tập VIII.
- Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ XV (mở rộng)
khóa II, 1-1959. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước tập I 1954-
1965, NXB Sự Thật, Hà Nội 1985.
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thử III của Đảng, 9-1960.
Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước tập I, 1954-1965, NXB Sự
Thật, Hà Nội 1985.
- Nghị quyết Ban chấp hành trung ương lần IX khóa III, 12-1963. Một
số văn kiện của Đảng về chông Mỹ cứu nước tập I, 1954-1965, NXB Sự Thật,
Hà Nội 1985.
- Hồ Chí Minh: Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ VI (mở rộng) khóa II, ngày 15-7-1954. Trường
Nguyễn Ái Quốc, văn kiện lịch sử Đảng tập III.
+ Các công trình nghiên cứu rất quan trọng của các nhà lãnh đạo Đảng;
các nhà khoa học:
- Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do vì chủ nghĩa

xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, NXB Sự Thật, Hà Nội 1970
- Trường Chinh: Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi con đường Các Mác đã
vạch ra, NXB Sự Thật, Hà Nội 1969.
- Nguyễn Văn Linh: Độc lập tự chủ sáng tạo bài học lớn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tạp chí Lịch sử Đảng số 2. 1995.
- Đỗ Mười: Phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng phấn đấu mãi mãi
xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát
triển mới. Báo quân đội nhân nhân số ra ngày 3-2-1995.
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 4 K37 – CN Lịch sử
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II, 1954-1975, NXB Chính trị
Quốc Gia Hà Nội 1994.
- Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tập I, NXB Chính trị
Quốc Gia Hà Nội 1996.
- Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học,
NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội 1995.
- Lê Ngọc: Tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường và sự thể nghiệm
lịch sử, Tạp chí lịch sử Đảng số I. 1991.
- Nguyễn Trọng Phúc: Đảng ta Đảng cửa tinh thần độc lập tự chủ sáng
tạo. Báo nhân dân số ra ngày 4-12-1995.
- Đặng Chí Dũng: Quá trính xác lập đường lối giải phóng miền Nam.
Bài học về tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng. Báo quân đội nhân dân
số ra ngày 3-4-1995.
Đồng thời có nhiều bài viết về cách mạng miền Nam đăng trên các tạp
chí nghiên cứu lịch sử; lịch sử Đảng; tạp chí Cộng sản.
Nhìn chung các công trình nói trên ở góc độ khác nhau đã đề cập đến,
tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Những tác phẩm bài viết đó đều có giá trị với viêc nghiên cứu,
trên cơ sở kế thừa, em cố gắng trình bày có hệ thống nội dung của đề tài.
3. Đối tượng, mục đích nhiệm vụ nghiên cứu

- Đối tượng: Trình bày một số quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số nội dung cơ bản của tư tưởng độc lập tự
chủ sáng tạo của Đảng trong đường lối cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra
đời cho đến năm 1954.
Tập chung trình bày quá trình hình thành phát triển và làm rõ tư tưởng
độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng trong đường lối cách mạng ở miền Nam thời
kỳ 1954 - 1964.
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 5 K37 – CN Lịch sử
- Mục đích:
Khóa luận làm rõ tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng ta trong
quá trình hoạch định, phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng ở miền
Nam thời kỳ 1954 - 1964, góp phần làm sâu sắc thêm giá trị lý luận và ý
nghĩa thực tiễn về tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng ta.
- Nhiệm vụ:
+Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử Việt Nam làm cơ sở cho
tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng ta trong thời kỳ 1954-1964.
+ Phân tích so sánh đối chiếu làm sáng tỏ tư tưởng độc lập tự chủ sáng
tạo của Đảng ta trong đường lối cách mạng miền Nam thời kỳ 1954-1964.
Rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu có giá trị lý luận và thực tiễn nhất
định trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
4. Đóng góp của khóa luận
Làm rõ thêm giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng độc lập tự chủ
sáng tạo trong việc vạch đường lối cách mạng của Đảng.
Rút ra một số kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, sử dụng phương pháp logic lịch sử, phân tích tổng hợp, phân kỳ lịch sử, triệt
để vận dụng phương pháp so sánh đối chiếu để nghiên cứu vấn đề này.

6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận chia thành
2 chương 10 tiết.
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của tư tưởng độc lập tự chủ
sáng tạo.
- Chương 2: Tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng trong đường
lối cách mạng ở miền Nam 1954 - 1964.
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 6 K37 – CN Lịch sử
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG ĐỘC LẬP
TỰ CHỦ SÁNG TẠO

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tính sáng tạo trong hoạt
động của Đảng Cộng sản.
Trong khi khái quát những quy luật mang tính tất yếu khách quan của
xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời đề cập đến vấn đề
sáng tạo của chủ thể, cụ thể là của các Đảng Cộng sản ở các nước khác nhau
trong việc vạch ra đường lối, phương pháp và biện pháp cách mạng, nhằm
thực hiện bằng được mục tiêu cao cả của mình.
Nghiên cứu thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân châu
Âu, các ông nhận thấy, ngoài những điểm chung của phong trào, còn có sự
phong phú, đa dạng do ảnh hưởng khác nhau của điều kiện lịch sử, phong tục
tập quán và văn hóa của các dân tộc. Từ đó các ông cho rằng “Trong những
nước khác nhau những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều” [47,
tr.568].
Khi công bố học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mác –
Ph.Ăngghen khẳng định học thuyết của các ông không phải là kinh thánh, bất
biến, mà chỉ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động các Đảng Cộng sản trong quá

trình đấu tranh cách mạng. Theo đó, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào việc áp
dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời. Vì
vậy, đến năm 1872, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, các ông cũng thấy cần phải
điều chỉnh lại và bổ sung những biện pháp cách mạng nêu ở chương II của
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản để phát triển lý luận cho phù hợp. Đồng thời với
việc đòi hỏi sự sáng tạo của các Đảng Cộng sản, các ông còn chỉ ra tính tự lực
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 7 K37 – CN Lịch sử
tự cường của quần chúng cách mạng: “Việc giải phóng những người lao động
phải là sự nghiệp của bản thân những người lao động” [1, tr.19].
Sau khi Ph.Ăngghen mất, cơ quan lãnh đạo của quốc tế II đã rơi vào tay
các phần tử phi vô sản. Họ cho rằng chủ nghĩa Mác đã lạc hậu cần phải điều
chỉnh cho phù hợp với lịch sử. Quan điểm này không hoàn toàn sai. Tuy vậy,
họ muốn phủ nhận sạch trơn cả những luận điểm cách mạng của học thuyết
Mác. Vì vậy, họ đã trở thành những kẻ phản bội lại sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
Kế thừa quan điểm của C.Mác - Ph. Ăngghen, V.I. Lênin nêu tấm
gương về tính sáng tạo. Nhiều luận điểm của C.Mác về triết học, kinh tế chính
trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học được Lênin mở rộng, nâng lên ở tầm cao
mới trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Sự phát triển đó đã được các nhà lý
luận gọi là chủ nghĩa Mác- Lênin.
V.I.Lênin đặc biệt yêu cầu các Đảng Cộng sản phải đi sâu tìm tòi
nghiên cứu, phát hiện nắm vững hơn nữa những đặc điểm của dân tộc mình,
của đất nước mình để “Áp dụng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cộng
sản (chính quyền Xô Viết và chuyên chính vô sản) sao cho những nguyên tắc
được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết cho thích hợp với những
đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước dân tộc” [27, tr.96].
Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã mở ra kỷ nguyên mới cho
lịch sử loài người - đưa lịch sử loài người bước sang thời hiện đại. Điều đáng
chú ý là cách mạng vô sản đã thắng lợi ở một nước riêng lẻ, nơi ấy là khâu

yếu nhất của sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa, chứ không diễn ra đồng thời
trong các nước tư bản phát triển như dự đoán của C.Mác. Không chỉ dừng lại
những sáng tạo trong cách mạng vô sản, sau này, khi lãnh đạo nhà nước Xô
Viết tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin cũng căn cứ vào hoàn
cảnh thực tiễn để điều chỉnh đường lối cho phù hợp. Chính sách “Cộng sản
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 8 K37 – CN Lịch sử
thời chiến” trong thời kỳ nội chiến (1918-1921) và Chính sách kinh tế mới
cuối năm 1922 là một minh chứng. Năm 1923 trong tác phẩm “Bàn về chế độ
hợp tác”, V.I.Lênin đã nói rằng: “Toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ
nghĩa xã hội đã thay đổi hoàn toàn” [29, tr.428]. Sự điều chỉnh đó chứng tỏ tư
duy chính trị mẫn tiệp tuyệt vời của Lênin, đồng thời cũng nói lên cách mạng
luôn luôn đòi hỏi phải có sự sáng tạo.
Trong phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, V.I.Lênin
là tấm gương sáng chói của lòng trung thành rất mực đối với chủ nghĩa Mác,
về tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù giai cấp, để bảo vệ chủ
nghĩa Mác và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác để giải quyết những
vấn đề cách mạng của nước mình và cách mạng của thế giới trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, sáng tạo
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc mà sau này là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm bộc lộ tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo. Người
không viết một tác phẩm nào, một bài báo nào chuyên bàn về tư tưởng độc
lập sáng tạo, nhưng tư tưởng ấy đã quán triệt trong cả cuộc đời hoạt động của
Người.
Ở vào thời điểm mà đất nước và dân tộc còn nằm trong đêm trường nô
lệ, “Tình hình đen tối như không có đường ra” [17, tr.3], trước hiện trạng các
giải pháp cứu nước đang bị khủng hoảng nghiêm trọng, mặc dù chưa có một ý
niệm nào về con đường cứu nước mới, nhưng bằng sự nhạy cảm của mình,
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy: Phải có một con đường khác trước, mới hơn

trước mới đáp ứng yêu cầu của lịch sử dân tộc. Theo đó, Người quyết chí ra
đi tìm đường cứu nước cứu dân bằng một hướng đi mới- sang phương Tây,
nơi đã sản sinh ra những gì của nền văn minh hiện đại để tìm hiểu xem “Họ
làm như thế nào”, sau đó trở về giúp đồng bào mình tự giải phóng.
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 9 K37 – CN Lịch sử
Việc chọn cho mình một hướng đi đúng, một cách đi đúng đã nói lên ý
chí kiên cường, lòng tự tin, một ý chí tự lực mạnh mẽ, và đặc biệt là sáng tạo
của Nguyễn Ái Quốc.
Trải qua hành trình vạn dặm khảo sát thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã nắm
bắt được chiều hướng phát triển của lịch sử. Nghiên cứu ba cuộc cách mạng
điển hình của lịch sử nhân loại: cách mạng tư sản Mỹ 1776; đại cách mạng tư
sản Pháp 1789 và đại cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng 10 Nga 1917. Bằng
tư duy độc lập, Người nhận xét: Cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đều
“Không đến nơi”. Chỉ có “Cách mạng Nga là thành công và thành công đến
nơi”. Đó là mốc đánh dấu bước phát triển tư tưởng độc lập của Người.
Khi tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy giá trị
phổ biến bởi bản chất cách mạng và khoa học, sáng tạo và phát triển của học
thuyết đó. Tuy vậy, Người cũng sớm nhận thấy trong những điều kiện mới
của lịch sử, chủ nghĩa Mác vẫn cần được bổ sung và phát triển. Người viết:
“Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử,
nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu, mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn
thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông, đó chính là nhiệm vụ mà các Xô Viết đảm
nhiệm” [13, tr.465]. Cũng với tư duy đó, Ngưới rất lo lắng cho nhân dân ở các
nước lạc hậu không hiểu đấu tranh giai cấp là gì? Lực lượng giai cấp vô sản là
gì? Điều ấy dễ dẫn quần chúng tới chỗ hoặc xa lánh cách mạng, hoặc là phong
trào yêu nước ở đó rơi vào chủ nghĩa quốc gia.
Vận dụng lý thuyết macxit vào Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc lại cho
rằng, cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước phương Đông không diễn ra sâu sắc

như ở phương Tây, nên khi vận dụng học thuyết của Mác vào xã hội phương
Đông đừng “Thấy người ta làm thế nào, mình cũng một mực bắt chước làm
như thế ấy” , “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh mình cũng ra khẩu hiệu
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 10 K37 – CN Lịch sử
giai cấp đấu tranh mà không xem xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để
làm cho đúng” [15, tr.272]. Theo Người, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin “Là
học những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin, để áp dụng một cách
sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta” [16, tr.292]. Những nhận thức
quan trọng đó bắt nguồn từ tư tưởng độc lập tự chủ, tự lực tư cường, sáng tạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) tiếp nhận và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách
mạng Việt Nam, dẫn dắt cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Rất nhiều luận điểm mới mẻ của
Người được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận đó.
Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện một tấm gương mẫu
mực về sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở phát triển sáng
tạo trong điều kiện cụ thể của lịch sử cách mạng Việt Nam. Theo đó, các nhà
nghiên cứu đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn Việt Nam” [8, tr.159].
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN và Chủ
tịch Hồ Chí Minh là thực tiễn sinh động về sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác- Lênin. Thực tiễn đó thể hiện rất cụ thể trong những chặng đường lịch sử
vẻ vang của Đảng ta.
1.2.1. Thời kỳ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng (1920-1930)
Đầu thế kỷ XX dưới sự thống trị áp bức bóc lột của thực dân Pháp,
nhân dân ta ở khắp ba kỳ đã liên tiếp đứng lên chống Pháp. Các phong trào
yêu nước chống Pháp lúc đầu đi theo hệ tư tưởng phong kiến, tư tưởng nông

dân, tiếp đó là màu sắc dân chủ tư sản, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp và
thất bại. Cách mạng nước ta đang đứng trước cuộc khủng hoảng sâu sắc về
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 11 K37 – CN Lịch sử
đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Tìm ra đường lối cứu nước đúng
đắn, để đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ lầm than là yêu cầu cấp
bách của lịch sử.
Hoàn cảnh lịch sử đã xuất hiện con người lịch sử. Đó là Nguyễn Ái
Quốc mà sau này là Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ái Quốc lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi tên là
nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19-5-1892 tại Nam Đàn - Nghệ An. Nhờ tiếp
thu được truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương, của đất nước,
Nguyễn Ái Quốc đã sớm có ý thức về thời cuộc và ý chí đánh đuổi thực dân
Pháp giải phóng cho đồng bào. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường
cứu nước. Qua mười năm bôn ba hải ngoại từ 1911 đến 1920, Người đã tiếp
thu được chủ nghĩa Mác- Lênin và truyền bá về Việt Nam, làm chuyển biến tư
tưởng của nhiều nhà cách mạng Việt Nam, từ lập trường yêu nước theo quan
điểm tiểu tư sản và tư sản sang lập trường yêu nước theo quan điểm chủ nghĩa
Mác- Lênin và từng bước vạch ra đường lối cứu nước giải phóng dân tộc.
Ảnh hưởng những quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam đã phát triển mạnh mẽ, tạo
nên những nhân tố cho ra đời ĐCSVN tháng 2-1930 (Từ tháng 10-1930 đến
tháng 2 -1952 là Đảng Cộng sản Đông Dương). Đó là sự kết hợp chủ nghĩa
Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam
cuối những năm hai mươi của thế kỷ XX.
ĐCSVN ra đời đã mở ra một bước ngoặt căn bản của cách mạng Việt
Nam, độc lập dân tộc không còn gắn với chủ nghĩa tư bản mà đã gắn với chủ
nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới.
Trong mười năm từ năm 1920 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều

sách báo, nổi bật là “Bản án chế độ thực dân”, “Đường cách mệnh”, “Cương
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 12 K37 – CN Lịch sử
lĩnh vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng”…
Nghiên cứu các văn kiện đó, chúng ta thấy bừng sáng tư tưởng độc lập, tự
chủ, sáng tạo mang đậm dấu ấn của Người.
Một là: Cách mạng thuộc địa cần được tiến hành chủ động và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản (CMVS) ở chính quốc.
Trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc chưa được thiết lập. Vì thế, C.Mác và Ph. Ăngghen mới
chỉ bàn về CMVS, chưa có điều kiện bàn về cách mạng thuộc địa. Các ông
cũng cho rằng CMVS sẽ thành công đồng thời trong nhiều nước tư bản tiên
tiến, mà chưa có quan niệm cách mạng sẽ thành công ở một nước, thậm chí
một nước tư bản chậm phát triển như phát hiện sau này của Lênin.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa đế quốc ra đời mà đặc
trưng cơ bản là xâm lược thuộc địa. Vì vậy, phần lớn lục địa đã trở thành
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Bước lên vũ đài chính trị và trở thành lãnh
tụ của cách mạng thế giới, cùng với việc phát triển những luận điểm về
CMVS, V.I.Lênin có điều kiện quan tâm và nghiên cứu về cách mạng thuộc
địa. Tuy vậy, trong phong trào công nhân và cộng sản quốc tế những năm 20
thế kỷ XX, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi cách mạng thuộc địa phụ
thuộc trực tiếp vào thắng lợi của CMVS ở các nước tư bản. Trong tuyên ngôn
thành lập của Quốc tế Cộng sản năm 1919, có đoạn viết: Công nhân và nông
dân ở An Nam, Angiêri, Bengan Ba Tư chỉ có thể giành được độc lập khi
mà công nhân các nước Anh, Pháp giành chính quyền nhà nước vào tay mình.
Trước thực trạng đó, Nguyễn Ái Quốc đã có quan điểm gì?
Ngay từ 1919, hiểu sâu thêm về bản chất của chủ nghĩa đế quốc khi
Yêu sách 8 điểm của mình không được chủ nghĩa đế quốc đếm xỉa, Nguyễn
Ái Quốc rút ra kết luận quan trọng: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc chỉ
có thể trông cậy vào mình vào lực lượng của bản thân mình” [42, tr.30]. Phát

Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 13 K37 – CN Lịch sử
triển tư tưởng tự lực tự cường đó, năm 1924, Người đã nói rõ tính chủ động
của cách mạng thuộc địa “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu Á bị tàn
sát và bị áp bức, thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân
lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành những lực lượng khổng lồ và trong khi
thủ tiêu một trong những điều kiện sống còn của chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” [13, tr.36].
Mặc dù không được sự nhất trí từ Quốc tế cộng sản, nhưng Người vẫn
nhất quán với quan điểm của mình. Luận điểm này đã được chứng minh là
đúng sau 20 năm tại đất nước của Người và trong phạm vi toàn thế giới suốt
thế kỷ XX. Theo đó, luận điểm của Nguyễn Ái Quốc về tính chủ động của
cách mạng thuộc địa là một đóng góp lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Hai là: tiến hành khăng khít nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến nhưng phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Bước lên vũ đài chính trị khi vấn đề dân tộc ở phương Tây đã được giải
quyết bằng các cuộc cách mạng tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin chỉ bàn về vấn đề giai cấp và học thuyết đấu tranh giai cấp. Học thuyết
này chỉ rõ nhiệm vụ cách mạng vô sản nhằm giải phóng giai cấp vô sản và
giai cấp nông dân. Nhưng ở Việt Nam, trước những yêu cầu cấp bách của một
nước thuộc địa nửa phong kiến, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta khẳng định giải
quyết vấn đề giai cấp phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc, giải
phóng dân tộc. Khi giải quyết vấn đề dân tộc, không tách rời dân tộc và giai
cấp, mà phải nhận thấy tính gay gắt của đấu tranh dân tộc, thấy sức mạnh của
yếu tố dân tộc; đánh giá đúng thái độ chính trị của tầng lớp trung gian và lớp
trên, không cường điệu tính giao động và tính không triệt để của họ. Cương
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 14 K37 – CN Lịch sử

lĩnh của Đảng ta cho rằng chỉ khi nào đất nước có độc lập thì mới có điều kiện
để giải quyết đầy đủ vấn đề ruộng đất cho nông dân.
Cương lĩnh của ĐCSVN có những điểm khác so với quan điểm của
Quốc tế Cộng sản và đường lối của một số Đảng Cộng sản khác. Điều đó
chứng tỏ: “Tính độc lập tự chủ, phát huy được bản lĩnh sáng tạo, không máy
móc sao chép kinh nghiệm của những Đảng ra đời trước” [22, tr.34] của
ĐCSVN.
Như vậy, nếu tất cả các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đều
nêu lên quan điển chống đế quốc và chống phong kiến phải tiến hành ngang
bằng nhau, thì sự vận dụng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta về giải
quyết mối quan hệ giữa nhiện vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong
kiến nêu trên đã mở rộng rất nhiều lực lượng chống đế quốc.
Ba là kết hợp đúng đắn lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, giải quyết vấn
đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước ở Đông Dương.
Quan điểm đó của Đảng cũng rất mới và thể hiện tính sáng tạo trong
việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và nghị quyết Quốc tế Cộng sản (QTCS)
giải quyết vấn đề dân tộc.
Dân tộc là một vấn đề rất phức tạp. Lý luận macxit về quyền dân tộc tự
quyết chỉ rõ: Mỗi dân tộc dù to hay nhỏ đếu có quyền bình đẳng như nhau,
quyền tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình. Song lý luận đó cũng
cho rằng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc một mặt đấu tranh chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc, thành lập quốc gia có chủ quyền, mặt khác do
“Xu hướng tạo nên một nền kinh tế toàn thế giới duy nhất với tính chất là một
khối chỉnh thể, do giai cấp vô sản hoặc tất cả các dân tộc quản lý theo một kế
hoạch chung” [27, tr.201], vậy nên các dân tộc có xu hướng liên hiệp lại, để
thành lập những liên bang, bước quá độ để tiến tới liên hiệp tự nguyện các
dân tộc sau này. Với tư duy đó, năm 1922, Lênin đã thành lập Liên bang cộng
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 15 K37 – CN Lịch sử
hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô- CCCP), bao gồm nhiều dân

tộc hợp lại.
Nhận được thông tin về cách mạng ở Đông Dương, QTCS đã chỉ thị
cho các nhóm cộng sản ở Đông Dương một nhiệm vụ quan trọng và cần kíp là
sáng lập một Đảng cách mạng của giai cấp vô sản… “Và Đông Dương chỉ có
Đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi” [4, tr.10-11]. Chỉ thị đó có nghĩa là tạo
điều kiện để tiến tới thành lập Liên bang Đông Dương.
Cách mạng mỗi nước đều là bộ phận của cách mạng thế giới, các nước
đoàn kết nhau lại để chống kẻ thù chung là một tất yếu khách quan. Để tiến
hành đoàn kết có rất nhiếu cách, nhiều hình thức. Có thể cần một Đảng, một
Nhà Nước chung để lãnh đạo cách mạng của các dân tộc ở các nước có vị trí
địa lý hoặc đặc điểm dân tộc gần nhau, nhưng cũng có thể không cần như vậy,
một khi các dân tộc chưa đạt tới trình độ tự nguyện liên hiệp với nhau.
Phân tích đặc điển các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương, những
người cộng sản và Nguyễn Ái Quốc đã quyết định thành lập “Đảng Cộng sản
Việt Nam”, tiến tới thành lập một mặt trận thống nhất toàn Đông Dương là
một quyết định chính xác vừa thể hiện sự sáng suốt, vừa thể hiện tư tưởng độc
lập tự chủ sáng tạo của Người và của ĐCSVN. Mặc dù quan điểm đúng đó bị
QTCS và một số đồng chí chủ chốt trong Đảng phê phán kịch liệt nhưng 10
năm sau đã được khẳng định là đúng.
Nguyễn Ái Quốc còn nêu ra nhiều luận điểm thể hiện tính độc lập tự
chủ sáng tạo, nhưng những luận điểm trên là sự thể hiện nổi bật nhất.
1.2.2. Đảng tiếp tục hoàn chỉnh đường lối cứu nước và đấu tranh giành
chính quyền (1930 -1945)
Đây là giai đoạn cách mạng sôi động nhất của ĐCSVN. Giai đoạn
chuẩn bị mọi mặt cho công cuộc giành chính quyền cách mạng với 3 cao trào
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 16 K37 – CN Lịch sử
cách mạng lớn phù hợp với bối cảnh chính trị quốc tế và yêu cầu của thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
- Thời kì 1930 - 1931

Vừa mới ra đời, Đảng ta đã chủ trương phát động quần chúng đấu tranh
nhằm: Đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống, chống địch khủng bố. Và thông
qua phong trào để thống nhất Đảng về tư tưởng, tổ chức và hành động. Chủ
trương đó được quần chúng công nông nhiệt liệt hưởng ứng.
Cùng với sự chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng, lời kêu gọi của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng, đường lối cứu nước đã
nhanh chóng đi vào quần chúng, làm dấy lên một làn sóng đấu tranh dân tộc
dân chủ mạnh mẽ khắp cả nước. Tháng 9 năm 1930 phong trào đã phát triển
lên tới đỉnh cao với sự ra đời các Xô Viết ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Đảng Cộng sản Pháp cho đó là một thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng đã
thông qua “Bản Luận cương chính trị” do đồng chí Trần Phú tổng bí thư của
Đảng khởi thảo. Bản Luận cương chính trị và Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt có nhiều điểm giống nhau về chiến lược, nhưng cũng có một số điểm
khác nhau về sách lược, tập trung xung quanh vấn đề gương cao ngọn cờ dân
tộc. Luận cương có xu hướng coi nhẹ các yếu tố dân tộc, phạm sai lầm “tả
khuynh”. Ngày 18-11-1930, Đảng đã kịp thời sửa chửa và ra chỉ thị thành lập
“Hội phản đế đồng minh” để tập hợp lực lượng đông đảo quần chúng cách
mạng và yêu nước.
- Thời kì 1936 - 1939
Trước sự biến động của tình hình chính trị quốc tế, Đại hội lần thứ VII
Quốc tế Cộng sản đã được triệu tập tháng 7 năm 1935. Đại hội chỉ ra chủ nghĩa
phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới và quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng thế giới.
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 17 K37 – CN Lịch sử
Hội nghị có những chủ trương quan trọng: tạm gác lại nhiệm vụ tiêu
diệt toàn bộ chủ nghĩa tư bản xây dựng chủ nghĩa cộng sản; nêu lên nhiệm vụ
cấp bách đối với tất cả các Đảng Cộng sản là thành lập mặt trận nhân dân
chống pháp xít bảo vệ hòa bình và dân chủ trên thế giới. Ở các nước thuộc

địa và nửa thuộc địa việc thành lập các mặt trận thống nhất chống đế quốc có
tầm quan trọng đặc biệt.
Tháng 5 năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp với Đảng Cộng sản Pháp
làm nòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Chính phủ Bình
Dân Pháp lên cầm quyền chủ chương thực hiện một số cải cách đối với các
nước thuộc địa. Ở Trung Quốc, Quốc – Cộng hợp tác đã được nối lại để
chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản.
Trước những chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế, dưới
ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VII QTCS, trong những năm 1936-1939,
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp các kỳ Hội nghị Trung ương
(HNTW) như HNTW2 (7-1936); HNTW3 (3-1937); HNTW4 (9-1937);
HNTW5 (3-1938) đề ra chủ trương mới nhiệm vụ cách mạng, về tổ chức và
đấu tranh cho phù hợp với tình hình.
Chủ trương mới đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu
chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng; thành lập Mặt trận
nhân dân phản đế Đông Dương, về sau đổi thành mặt trận dân chủ Đông
Dương nhằm thống nhất lực lượng đấu tranh chống phản động thuộc địa và
tay sai chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi quyền dân chủ, dân sinh. Giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp; giữa phong trào cách
mạng Việt Nam với cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới; đề ra các
các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp nhằm hướng dẫn quần
chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu
tranh cao hơn vì độc lập và tự do. Các Nghị quyết trên đánh dấu bước trưởng
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 18 K37 – CN Lịch sử
thành về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ,
sáng tạo của ĐCSVN. Thực hiện Nghi quyết, Đảng ta đã phát động một
phong trào đấu tranh kéo dài 3 năm đòi quyền dân sinh dân chủ. Phong trào
đã thu hút được hàng triệu quần chúng tham gia, hình thành được đội quân
chính trị rộng lớn cho cách mạng, tạo thêm những tiền đề về tinh thần và vật

chất và kinh nghiệm để Đảng ta vững vàng hơn trong việc lãnh đạo cách
mạng trong thời kì 1939 - 1945.
-Thời kì 1939 - 1945
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Nước Pháp
và các thuộc địa của Pháp nhanh chóng bị lôi cuốn vào cuộc chiến. Mọi quyền
tự do dân chủ và các tổ chức dân chủ của nhân dân ta đã giành được trong
thời kỳ Mặt trận Dân chủ đều bị thủ tiêu.
Trước tình hình mới, để đưa phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ
hơn, đấu tranh thực hiện mục tiêu giành chính quyền về tay nhân dân, Ban
chấp hành trung ương Đảng đã liên tiếp triệu tập ba hội nghị. HNTW6 (11-
1939), HNTW7 (11-1940); HNTW8 (5-1941). Đảng ta quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược: Nêu cao nhiệm vụ đánh đế quốc giải phóng dân
tộc; thành lập mặt trận Việt Minh để tập hợp lực lượng dân tộc; xác định con
đường giành chính quyền của cách mạng Việt Nam là con đường khởi nghĩa
vũ trang.
Đảng luôn luôn bám sát tình hình thế giới khai thác thuận lợi chỉ đạo
kịp thời phong trào đấu tranh của quần chúng, nên đã phát động được một
phong trào rộng lớn.
Trong quá trình đấu tranh, Đảng ta luôn luôn chú trọng xây dựng cả lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị
mà xây dựng lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 19 K37 – CN Lịch sử
Khi thời cơ đến, Đảng ta kịp thời phát động toàn dân đứng lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Thắng
lợi của cách mạng tháng 8 – 1945 có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc
Việt Nam và quốc tế.
- Tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo trong thời kỳ 1930-1945 của Đảng

ta thể hiện nổi bật trên một số điểm sau đây:
Một là: tiếp tục hoàn chỉnh quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ, gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc.
Vấn đề nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đề ra từ năm
1930, phải trải qua thực tiễn 10 năm mới đạt được sự nhất trí, đồng thời Đảng
ta còn phát triển thêm lý luận về vấn đề dân tộc thuộc địa lên một bước mới
đó là:
+ Từ đoàn kết công nhân, nông dân, trí thức, tư sản dân tộc, cá nhân
yêu nước Đảng đã khái quát cao đưa ra tư tưởng “ Toàn dân đoàn kết”. Như
vây phạm vi đoàn kết dân tộc rất rộng rãi, bao gồm tất cả các tầng lớp các giai
cấp, các dân tộc, các Đảng phái, các tôn giáo gồm tất cả những người Việt
Nam yêu nước chỉ trừ bọn tay sai phản động.
+Từ chủ trương thành lập chính phủ công – nông – binh, chính quyền
Xô Viết (1930-1931) đến việc thành lập chính quyền không của riêng một
giai cấp nào mà là chính quyền của toàn thể dân tộc với hình thức chính thể
dân chủ cộng hòa. Với chủ trương thành lập chính quyền của nhân dân, yếu
tố dân tộc mới được phát huy mạnh mẽ hơn, lực lượng tham gia vào “Mặt trận
Việt Minh” ngày càng đông đảo hơn.
+ Từ chủ trương chống đế quốc đánh trúc bọn địa chủ, Đảng đi đến tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay
sai, giảm tô, giảm tức. Đảng ta vẫn tiến hành khăng khít nhiệm vụ phản đế và
Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đỗ Thị Thanh Tuyến 20 K37 – CN Lịch sử
phản phong, nhưng nhiệm vụ phản phong phải làm từng bước để tập trung
vào nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là chống đế quốc, tay sai giành độc lập
dân tộc.
+ Từ chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất của cả Đông
Dương đến Mặt trận Dân tộc Thống nhất của từng nước; từ chủ trương thành
lập Chính phủ dân chủ cộng hòa liên bang Đông Dương, đến quyền dân tộc tự
quyết, thành lập Chính phủ riêng cho từng nước

Tư tưởng kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó yếu tố dân tộc luôn đặt lên hàng đầu là
tư tưởng chỉ đạo chiến lược rất sáng tạo của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Hai là: Đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.
Cách mạng muốn giành thắng lợi nhất thiết phải đi qua con đường cách
mạng bạo lực. Lê-nin đã chỉ rõ “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi Nhà nước vô
sản (chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường “Tiêu phong” được mà
chỉ có thể theo quy luật chung bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi” [26,
tr.27].
Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng là một điều vô cùng quan
trọng, nhưng cụ thể hóa quan điểm đó cho phù hợp với từng nơi, từng thời kỳ
cũng không kém phần quan trọng. Và chính ở lĩnh vực này, Đảng ta và
Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện mạnh mẽ tư tưởng độc lập tự chủ sáng tạo.
Hai hình thức bạo lực cách mạng đã được thể hiện trong lịch sử. Đó là
“Tổng khởi nghĩa” và “Chiến tranh vũ trang lâu dài”.
Tổng khởi nghĩa đã được V.I.Lênin sử dụng ở cách mạng tháng Mười
Nga năm 1917 và đã giành được thắng lợi. Còn ở Việt Nam con đường tổng
khởi nghĩa sẽ phải thể hiện như thế nào? Đảng ta đã tổng kết thực tiễn từ cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ và rút ra kết luận rất sáng
tạo: chúng ta “có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa

×