Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN NHẬN THỨC ĐÚNG bản CHẤT của GIAI cấp CÔNG NHÂN và VAI TRÒ của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.59 KB, 12 trang )

NHẬN THỨC ĐÚNG BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nhận thức đúng về bản chất giai cấp công nhân chính là hiểu rõ khả
năng và yêu cầu của giai cấp công nhân; đồng thời, khẳng định tầm trí tuệ,
tính hiện đại của Đảng Cộng sản. Trên cơ sở nhận thức đúng bản chất và xu
thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam có chủ trương thích hợp để tiếp tục nâng cao chất lượng giai cấp công
nhân, bảo đảm cho họ xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
C.Mác đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh cách mạng vì
sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân chuyển từ giai cấp "tự mình" thành
giai cấp "vì mình", phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác khi
tổ chức ra đội tiên phong của mình - các Đảng Cộng sản.
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đầu thế kỷ XX đã
mở ra thời đại quá độ của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tiếp đó là sự hình thành hệ thống xã hội chủ
nghĩa trên thế giới vào giữa thế kỷ XX. Hệ thống này đã ảnh hưởng tích cực
đến đời sống nhân loại trong nhiều thập niên sau. Điều đó chứng minh cho
phát hiện đúng đắn của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy
nhiên, đến cuối thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở một số nước
Đông Âu và Liên Xô, đặc biệt là sự thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa
trên thế giới đã dẫn đến việc xét lại vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.

1


Tuy nhiên, không ít người hiểu vến đề này rất rõ rằng, sự sụp đổ của


chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều nguyên nhân
trực tiếp, nhưng nguồn gốc sâu xa là sự lạc hậu, bất cập của một vài mô hình
chủ nghĩa xã hội cụ thể và của ban lãnh đạo ở các nước này trước sự phát
triển mới của văn minh nhân loại.
Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định
luận điểm của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, nhưng cũng
cần có nhận thức đúng hơn về bản chất giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử
của Đảng Cộng sản. Bởi vì, trong mấy trăm năm, kể từ khi giai cấp công nhân
ra đời đến nay, xã hội loài người trải qua biết bao biến cố to lớn, cả những
bước ngoặt có tính thời đại, như Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển
của văn minh nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Chủ
nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản cổ điển mà đã phát triển thành
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giai cấp công nhân cũng thay
đổi rất nhiều, khác hẳn giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX.
Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là của chủ nghĩa tư bản
hiện đại, gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh nông
nghiệp sang văn minh công nghiệp, rồi từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ. Đến nay, những thành tựu đó đã làm thay đổi rất nhiều chế độ tư
bản, giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và các tầng lớp dân cư trong hầu hết
các quốc gia trên thế giới.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ
thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các
nước tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn
như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng
ngày càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% -

2



40%, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm
1961 đến năm 1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm
30%, ở Thụy Sĩ giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18%
Chính vì vậy, khi nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta
thường nghĩ nhiều đến những người lao động chân tay hơn là những người lao
động trí óc; chủ yếu nói đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo
vàng" (kỹ thuật viên); còn công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ
sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với
giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải lương trong phong trào
công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng
công nhân được trí thức hóa, những công nhân "áo vàng" và công nhân "áo
trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh" ngày càng giảm dần, như ở
Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công nhân có trình độ đại học
chiếm đến 80%.
Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở
rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan
trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào
mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm
hình thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn
mới của cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của
khoa học - công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội
ngày càng tăng. Đúng như C.Mác đã tiên đoán, khoa học - công nghệ đã và
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tình hình đó khiến cho một số nhà tư tưởng tư sản vội đưa ra luận điểm
"quyền lực thuộc về trí tuệ" để che đậy bản chất của vấn đề. Thực chất, quyền
lực vẫn thuộc về tư bản. Vì vậy, nhận thức đúng về bản chất giai cấp công
nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ, chính là nhằm hiểu rõ khả năng và

3



yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt
qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Như vậy,
cũng có nghĩa là ngày càng nhận thức đúng hơn về chủ nghĩa xã hội.
Đương nhiên, vẫn có sự phát triển không đều giữa các nền kinh tế của
các nước trên thế giới. Xét về tổng thể, loài người vẫn đang quá độ từ văn
minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, nghĩa là quá trình công nghiệp hóa
còn đang diễn ra. Ở các nước phát triển, đã kết thúc giai đoạn công nghiệp
hóa cổ điển, chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận ngày
càng sâu hơn dến văn minh trí tuệ. Còn ở những nước chậm phát triển và
đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa diễn ra có phần còn trong giai đoạn
công nghiệp hóa cổ điển, đồng thời tiếp cận dần giai đoạn công nghiệp hóa
hiện đại và một số thành tựu của kỷ nguyên tin học, của văn minh trí tuệ. Tất
nhiên, cơ cấu các ngành nghề và tình hình giai cấp công nhân ở những nước
này không giống ở những nước phát triển.
Đối với Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến
tranh giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và cả nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội, nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều
phần lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội bước đầu đã xây
dựng nhưng chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt nam, đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang
trong cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa
cổ điển, nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa

4



hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức.
Cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng:
tăng dần công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao
động nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể
giảm xuống còn 10%, có nghĩa là khi đó dịch vụ và công nghiệp có thể lên tới
80% - 90%. Điểm đáng chú ý là, những thành tựu của cách mạng tin học đang
xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu
chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ
thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng
năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách quốc gia.
Từ đó, đã dần hình thành một đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Nghiên cứu sự phát triển của cách mạng tin học, của lao động trí óc
trong điều kiện của kỷ nguyên thông tin, của kinh tế tri thức, đã có ý kiến về
sự xuất hiện những "công nhân tri thức" và "công nhân trí thức" hay nói cách
khác là "lao động tri thức", và "lao động trí óc". Sự phân biệt giữa ấy có thể
làm rõ sự phát triển mới của công nhân trong kinh tế tri thức. Nhưng có lẽ cả
"lao động tri thức", "lao động trí óc", cùng một bộ phận tầng lớp trí thức gia
nhập hàng ngũ giai cấp công nhân và bộ phận lao động chân tay chiếm tỷ
trọng lớn, nhất là ở nông thôn dần dần được đào tạo theo yêu cầu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng được tiếp cận cách mạng thông tin. Tất cả các
lực lượng lao động đó hợp thành một quá trình lịch sử trí thức hóa giai cấp
công nhân, đưa giai cấp công nhân ở nước ta từng bước trở thành giai cấp
công nhân của văn minh trí tuệ. Đó cũng là quá trình "trí thức hóa công
nông" và "công nông hóa trí thức", như dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Về vấn đề này, trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta", C. Mác đã đưa ra luận
điểm: một khi lao động được giải phóng thì tất cả mọi người đều trở thành


5


công nhân. Chắc ai cũng hiểu, nói lao động được giải phóng ở đây, trước hết
là được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột. Nhưng có lẽ chúng ta nên hiểu thêm
là, được giải phóng khỏi lao động cơ bắp, nặng nhọc, chuyển dần sang lao
động trí óc là chính; cả hai công cuộc giải phóng đó phải hỗ trợ và tạo điều
kiện cho nhau, thống nhất với nhau. Đó chính là sự thống nhất và tác động
qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà
lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định. Như vậy cũng có nghĩa là, khi ấy giai
cấp công nhân sẽ không còn tồn tại như một giai cấp riêng nữa, mà dần dần
hòa mình vào dân tộc trong một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Quá trình giải phóng lao động, tiến tới "tất cả mọi người đều trở thành
công nhân" đang diễn ra từng bước ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại,
cuối cùng cũng phải trải qua đấu tranh cách mạng dưới hình thức này hay
hình thức khác. Quá trình đó cũng đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển
như nước ta, khi biết tiếp cận nhanh chóng những thành tựu mới nhất của
khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức trong văn minh trí tuệ, gắn
liền với việc xử lý đúng đắn những vấn đề về quan hệ sản xuất, hướng tới một
xã hội tốt đẹp hơn.
Và đương nhiên, giai cấp công nhân muốn đứng vững trên vũ đài chính
trị để lãnh đạo cách mạng thì, về mặt khách quan, phải đại biểu cho phương
thức sản xuất mới, và về mặt chủ quan, phải tổ chức ra đội tiên phong - chính
đảng, của giai cấp mình. Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ phận trí tuệ
nhất, tiêu biểu nhất cho trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các
giai cấp cách mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay.
Nhưng chính điều đó lại dễ dẫn đến sự ngộ nhận rằng, lãnh đạo cách mạng
phải là các tầng lớp trí thức chứ không phải là các giai cấp cách mạng trong
lịch sử. Tuy nhiên, phủ nhận yêu cầu trí tuệ của đội tiên phong là rất sai lầm.


6


Đội tiên phong - chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, là bộ phận lao
động trí thức đặc biệt của giai cấp công nhân chứ không phải là tầng lớp trí
thức nói chung trong xã hội.
Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ
phận trí tuệ nhất của giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu
mới nhất của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ
sở của phép biện chứng mác-xít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang
chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh, chiến
lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia - dân tộc để từng
bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ
có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ
yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển
từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải
có những chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp với cuộc sống của nhân
dân, xây dựng cho nhân dân lao động có niềm tin vững chắc vào con đường đi
tới một xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng, một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của các Đảng Cộng sản ở một số nước tư
bản phát triển là do chưa nhận thức rõ được điều này.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam,
là Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi vì, Đảng được
thành lập từ hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên
trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ

sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo

7


cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã biết huy động sức mạnh toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa
không chỉ là nhiệm vụ của giai cấp mà còn là nhiệm vụ của cả dân tộc, định
hướng cho nhiệm vụ cách mạng của dân tộc, giành độc lập dân tộc, giải
phóng triệt để, đưa dân tộc ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định:
"Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Đồng thời, dự thảo cũng ghi rõ Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của toàn xã hội, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Thực tế, từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam không ngoài
mục đích "phục vụ Tổ quốc, phục vụ giai cấp và nhân dân". Đó là mục đích
tối cao của Đảng. "Ngoài ra, Đảng không có lợi ích nào khác". Điều này, một
mặt nói lên mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, dân tộc; mặt khác, cũng
phản ánh bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta. Là Đảng của giai cấp công
nhân, vì thế, Đảng ta cũng phải không ngừng nâng cao trí tuệ. Có như vậy
Đảng mới thực sự là đội tiền phong của giai cấp. Hơn nữa, sự nghiệp cách
mạng của Đảng và nhân dân ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây
dựng xã hội mới tiến bộ, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người lao
động và toàn xã hội với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, đòi hỏi Đảng ta phải có trí tuệ, lương tâm và hành động. Ngày nay,
bản chất giai cấp công nhân của Đảng phải được thể hiện ở tầm cao trí tuệ của
Đảng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng phải nhận biết được quy
luật trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Quần chúng chỉ thừa nhận

vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung và đảng viên nói riêng khi chúng ta có
kiến thức, năng lực thực sự trong lãnh đạo kinh tế, trong tổ chức và quản lý

8


sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao hơn, sản phẩm nhiều hơn, tốt hơn cũng
như trong việc quản lý một cách khoa học mọi mặt của đời sống xã hội, mang
lại những quyền lợi thiết thực cho họ. Ngày nay, không thể động viên, lôi
cuốn được đông đảo quần chúng tham gia vào công cuộc đổi mới nếu không
mang lại lợi ích vật chất và tinh thần cho họ. Và không bao giờ hàng triệu
quần chúng lại nghe theo lời khuyên của một đảng phái, nếu những lời
khuyên đó không phù hợp với những điều mà kinh nghiệm từ chính cuộc sống
đã dạy bảo họ.
Đảng Cộng sản chỉ thực sự là đội tiền phong của giai cấp cách mạng
nếu bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, những người có học
vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm đấu tranh bền bỉ, nếu biết gắn liền
với tất cả cuộc sống của giai cấp mình và thông qua đó, gắn liền với tất cả
quần chúng bị bóc lột và biết làm cho giai cấp đó, quần chúng đó tin tưởng
hoàn toàn vào mình.
Thực tế vừa qua đã dạy chúng ta rằng, hàng triệu quần chúng lao động
chỉ thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản khi chúng ta xây dựng
được một xã hội mới mà trên mọi phương diện phải ưu việt hơn chủ nghĩa tư
bản. Không thể khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bằng pháp luật, bằng sự
áp đặt và cưỡng bức. Không thể làm cho quần chúng đi theo, tin vào lý tưởng
tốt đẹp bằng một "thiên đường" ở tương lai xa xôi, trong khi cuộc sống hiện
tại thì đầy rẫy những khó khăn, tiêu cực và những quyền lợi chính đáng, tối
thiểu, cơ bản của con người không được bảo đảm.
Chỉ có trí tuệ không thôi thì chưa đủ, Đảng cần phải có lương tâm và
hành động. Lương tâm thể hiện trước hết và trên hết ở tình yêu nhân dân,

quan tâm đến đời sống nhân dân, "phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết
nhân dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những tủi buồn,
những công tác nặng nhọc với nhân dân" như Bác Hồ đã dạy. Lương tâm của

9


Đảng, của mỗi đảng viên được thể hiện ở đạo đức cách mạng là hòa mình với
quần chúng thành một khối, tin tưởng quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến của quần chúng. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, "lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ", đó là đạo đức, là lương tâm của người cộng sản mà
Bác Hồ đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta. Thờ ơ trước sự đau khổ, thiếu thốn,
đói rách của quần chúng, đó không phải là lương tâm, đạo đức của người
cộng sản, của một đảng cách mạng. Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta
đã nhiều lần căn dặn chúng ta phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân
dân: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi".
Đảng ta là Đảng chiến đấu, Đảng hành động. Trí tuệ, lương tâm và đạo
đức của Đảng thể hiện ở hành động của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng xã
hội mới hiện nay, hành động của Đảng phải được thể hiện ở những việc cụ thể
hằng ngày, mang lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân lao động như Bác
Hồ đã nói: "Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no,
dân không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các cháu bé không có trường học,
Đảng phải lo... Tất cả mọi việc, Đảng phải lo. Việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản… Đảng phải lo. Ngay đến cả tương, cà, mắm, muối
của dân, Đảng đều phải lo". Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh
tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến,
đồng thời phải luôn luôn quan tâm đến những việc "đời thường" cần thiết cho
đời sống hằng ngày của nhân dân. Hành động của Đảng trong công cuộc đổi

mới hôm nay cần phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, vững tay chèo lái, đưa con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua bão tố, thác ghềnh thẳng hướng đi lên, cập bến
quang vinh. Trước mắt và cũng là vấn đề đang nổi cộm nhất, cản trở sự đi lên

10


của cách mạng, sự thành công của công cuộc đổi mới là tệ tham nhũng, quan
liêu, đặc quyền đặc lợi. Hành động của Đảng lúc này là phải kiên quyết và
triệt để, công minh trong trận chiến đấu này, có như vậy dân mới tin và "lòng
dân mới yên".
Điều có ý nghĩa quyết định trong lúc này để đưa sự nghiệp đổi mới đến
thắng lợi là sự kiên định về chính trị của Đảng. Sự sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô không phải là do sai lầm của chủ nghĩa
xã hội, hoặc sự "lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin" như quan niệm của một
số người, mà là do sai lầm trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và cung cách
đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế càng chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản
không phải là giải pháp hữu hiệu có thể mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
và dân chủ thực sự cho nhân dân lao động ở những nước này. Rõ ràng "chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ". Chủ nghĩa Mác Lênin không phải là đã lỗi thời, trái lại, nó vẫn "là kim chỉ nam" là mặt trời
soi sáng cho nhân dân ta đi đến đích cuối cùng như Bác Hồ đã nói.
Vấn đề quan trọng cấp thiết là phải không ngừng củng cố và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, phải xây dựng một cơ chế bảo
đảm lựa chọn, tiếp nhận, thu hút những người có tài, có đức vào Đảng, đồng
thời sa thải, loại trừ những phần tử thoái hóa, biến chất, không còn xứng đáng
với danh hiệu đảng viên.
Để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình là đội tiên phong của giai cấp,
của dân tộc trong tình hình hiện nay Đảng Cộng sản Việt nam phải hiểu rõ

giai cấp công nhân và dựa vào giai cấp công nhân, nhân dân lao động để xây
dựng Đảng. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã có nhiều thay đổi,
đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nhận thức đúng bản chất
và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, trên cơ sở đó,

11


có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng cao
chất lượng giai cấp công nhân, làm cho nó xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại, đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là
quan trọng nhất của đội tiên phong.
Đảng phải hiểu sâu sắc dân tộc mình, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai,
cũng như lịch sử, đất nước, con người và đặc biệt là bản sắc văn hóa, bởi vì
bản sắc văn hóa là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Đảng phải tổ chức,
động viên và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả các dân tộc
hợp thành đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phải đổi mới tư duy về chủ
nghĩa xã hội, tìm tòi, thể nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại mang bản sắc dân tộc Việt
Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ nghĩa xã hội phải
được ăn sâu, bám rễ trong lòng dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam đi vào thời đại
dân tộc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế trong điều kiện nền kinh tế
thế giới ngày càng đi sâu vào toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa.
Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân, vì nhân dân.
Chỉ có như vậy thì Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực là Đảng của giai
cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,

nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng ta mới quy tụ được khối liên minh
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, huy động được sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.

12



×