Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.16 KB, 69 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN MỸ PHƯỢNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN MỸ PHƯỢNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản Lý Kinh Tế
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Bùi Quang Tuấn

HÀ NỘI, năm 2016



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO
ĐỘNG XUẤT KHẨU................................................................................................7
1.1. Khái niệm………………………………............................................................7
1.2. Nội dung lao động xuất khẩu............................................................................11
1.3. Nội dung chất lượng lao động xuất khẩu………………...……………....…....15
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động xuất khẩu……………...…….21
1.5. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á trong xuất khẩu lao động…..…..........23
Chương 2: Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
Châu Á…………………………………………………………………...…….......27
2.1. Các chính sách nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu những năm gần
đây………………………………………………………………………………….28
2.2. Thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam…………………….31
2.3. Đánh giá chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam sang một số nước Châu
Á.……………………………………………………………………...……………40
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu của Việt
Nam tại một số nước Châu Á....................................................................................47
3.1. Xu hướng nhận lao động của một số nước………………………………....…47
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu ...…….……48
3.3. Các kiến nghị để thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng lao động xuất
khẩu……………………...…………………………………………………………61
KẾT LUẬN...............................................................................................................63
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….....…………..……..64


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1.ESCAP: Economic and Social Commission for Asia and the Pacific
Ủy ban kinh tế xã hội Châu Á và Thái Bình Dương
2.FAO:

Food and Agriculture Organisation
Tổ chức liên hiệp quốc về lương thực và nông nghiệp

3.ILO:

Interational Labor Organization
Tổ chức lao động quốc tế

4.OECD:

Organization for Economic Cooperation and Development
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển

5.UNEP:

United Nations Environment Programme
Chương trình liên hiệp quốc về môi trường

6.UNESCO: United Nations Educational, Scientific
Tổ chức liên hiệp quốc về giáo dục, khoa học và văn hóa
7.WB:

World Bank
Ngân hàng thế giới

8.WFC:


World Food Council
Hội đồng lương thực thế giới

9.WIPO:

World Intellectual Property Organization
Tổ chức thế giới về sở hữu tri thức

10.WHO:

World Health Organization
Tổ chức y tế thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong những năm trở lại đây cho thấy,
nền kinh tế thế giới đang vận động với tốc độ biến chuyển ngày càng nhanh, các
chu kỳ kinh tế đang được rút ngắn lại, các biến động về kinh tế có mức độ tác động
ở qui mô rộng lớn, thậm chí là toàn cầu. Những biến động về kinh tế sẽ tác động
đến nhiều yếu tố không chỉ về khía cạnh chính trị hay xã hội… mà còn là chất
lượng đời sống cũng như nguồn nhân lực.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các nền kinh tế trên thế giới đang ngày
càng thu hẹp khoảng cáchKhi hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN, nguồn lao
động có kỹ năng, tay nghề sẽ di chuyển mạnh giữa các quốc gia. Di cư lao động
quốc tế là một xu thế khách quan diễn ra ngày càng rộng trong khu vực. Hoạt động
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là một hình thức di cư
lao động hợp pháp và đã trở thành nhân tố quan trọng của sự phát triển ở Việt Nam.
Hoạt động này đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo,

mang nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước và cải thiện đời sống cho người lao động
và gia đình họ. Một bộ phận lao động đã tiếp thu kinh nghiệm, kỹ thuật, công nghệ
tiên tiến trong sản xuất ở nước bạn, do đó, sau khi họ trở về Việt Nam có được
nguồn lao động chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước. Trong tình hình đó, Việt Nam là một quốc gia có nguồn lao động dồi dào
(1.6 triệu người tham gia vào lực lượng lao động một năm), tuy nhiên chất lượng
lao động đang còn gặp nhiều hạn chế, chưa thực sự cạnh tranh nếu so sánh với lao
động của nước ngoài.
Sau 30 năm đổi mới và vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động xuất khẩu
lao động ở Việt Nam đang được coi là một trong những mũi nhọn của kinh tế đối
ngoại, với gần 100 ngàn người ký hợp đồng tham gia xuất khẩu lao động mỗi năm.
Hiện nay Việt Nam có khoảng 500 ngàn lao động đang có mặt ở trên 40 quốc gia và
khu vực trên thế giới. Không chỉ mang lại một nguồn thu nhập cho người lao động,

1


tạo ra nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước mà hoạt động xuất khẩu lao động
còn là công cụ để tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ tiên tiến nước ngoài, thông
qua đó đào tạo một đội ngũ lao động có chất lượng cao về chuyên môn, ngoại ngữ
và tác phong lao động công nghiệp, mang tính chiến lược trong quá trình phát triển
& hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời tăng cường mối quan hệ giữa Việt Nam với
cộng đồng quốc tế và nâng cao một bước công tác quản lý Nhà nước của các cơ
quan trung ương cũng như chính quyền địa phương.
Trong những năm qua hoạt động xuất khẩu lao động đã thu được một số kết
quả khả quan, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống cho
người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động của Việt Nam
còn thấp, không đáp ứng được đầy đủ cáctiêu chí tuyển chọn của các doanh nghiệp
nước ngoài, nhất là ở các ngành, lĩnh vực áp dụng công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó
những hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho lao động xuất khẩu

vẫn chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng theo yêu cầu của thực tế, dẫn đến tình
trạng ngoại ngữ kém, kỷ luật lao động kém, tính chuyên nghịêp thấp... Hơn nữa,
cho đến nay Nhà nước vẫn chưa có những chính sách mang tính hệ thống, đảm bảo
hiệu lực và thực thi để nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực này, nhất là trong
giai đoạn hội nhập kinh tế ngày càng sâu, rộng tại Việt Nam. Chính vì vậy, đề tài
luận văn “ Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam“ là cần thiết
nhằm góp phần đề xuất các định hướng kịp thời để nâng cao chất lượng của lực
lượng lao động xuất khẩu nói riêng và lực lượng lao động nói chung trước những
yêu cầu và đòi hỏi ngày càng tăng trên thị trường lao động.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Về vấn đề xuất khẩu lao động và chất lượng của lao động xuất khẩu, đã có một
số nghiên cứu đề cập đến. Trong đó, có thể kể đến các nghiên cứu ở các nhóm vấn
đề như :
a. Nhóm những tác giả nghiên cứu về chính sách hỗ trợ kinh tế-tài chính, đào tạo
lại gồm có Nguyễn Lương Trào (Luận án tiến sĩ “Mở rộng và nâng cao hiệu quả của
việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài” tại Trường Đại

2


học Kinh tế quốc dân), Phạm Thị Hoàn, Tổng cục dạy nghề (Tạp chí việc làm ngoài
nước tháng 3/2006).... Nhóm nghiên cứu này chú trọng phân tích các chính sách về
kinh tế-tài chính, đào tạo lại nhằm giúp lao động xuất khẩu nâng cao tay nghề.
Nhóm tác giả nghiên cứu về chính sách quy hoạch, kế hoạch nguồn nhân lực sau
XKLĐ có tác giả Lê Hồng Huyên, Ban kinh tế Trung ương (Tạp chí việc làm ngoài
nước tháng 4/2005 “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhân lực”), Cao Văn Sâm, Tổng
cục dạy nghề (Tạp chí việc làm ngoài nước tháng 5/2005) “Nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam, nhìn từ góc độ xuất khẩu lao động” ). Nhóm
nghiên cứu này chú trọng phân tích tình hình nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao
động, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao đời sống nguồn nhân lực này.

Bùi Sỹ Tuấn (2007) tập trung nguyên cứu về thị trường xuất khẩu lao động tại
một số quốc gia thông qua một số bài báo như “Một số giải pháp phát triển thị
trường việc làm ngoài nước trong thời gian tới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (416)
tháng 2/2007, tr.8-tr.10; “Một số kinh nghiệm đối với doanh nghiệp XKLD nhằm
hạn chế tranh chấp phát sinh ở nước ngoài”, Tạp chí Lao động và Xã hội, 16/0915/10/2010; “Chất lượng lao động Việt Nam - dưới góc nhìn của chủ sử dụng
Malaysia”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (488), tháng 12/2010. Tác giả đã phân tích
cụ thể thị trường xuất khẩu lao động và các vấn đề có liên quan đến XKLĐ tại một
số quốc gia như Nhật Bản, Malaysia.
Luận văn Thạc sỹ Kinh doanh và quản lý cúa tác giả Dương Tuyết Nhung
(2011) với tiêu đề “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu tại các DN
Xuất khẩu LĐ ở Hà Nội” đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chất lượng
nguồn LĐ xuất khẩu; thực trạng chất lượng nguồn LĐ xuất khẩu và hoạt động nâng
cao chất lượng nguồn LĐ của các DN dịch vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm
2007 – 2010, qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn LĐ
xuất khẩu tại các DN dịch vụ đóng trên địa bàn.
Đề tài cấp Bộ của PGS.TS. Nguyễn Tiệp (2011): “Định hướng và giải pháp phát
triển thị trường LĐ chuyên môn, kỹ thuật cao đảm bảo yêu cầu hội nhập kinh tế

3


quốc tế đến 2020” đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển thị trường
LĐ chuyên môn, kỹ thuật cao, phân tích thực trạng và dự báo xu hướng phát triển
thị trường LĐ ở Việt Nam.
Nghiên cứu khảo sát của Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan Hương và Thạc sỹ Trịnh Thu
Nga (2012) với tên đề tài là “Đánh giá thực trạng LĐ đi làm việc ở nước ngoài đã
trở về Việt Nam” đãphân tích thực trạng XKLĐ tại các địa bàn khảo sát; tác động
của XKLĐ đến đời sống việc làm và các vấn đề xã hội của người LĐ; khuyến nghị
chính sách nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của XKLĐ và nâng cao hiệu quả các
chương trình di cư ra nước ngoài trong giai đoạn tới.

Ngoài ra còn có nhiều bài viết và những công trình khoa học có liên quan đến
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực XKLĐ. Các công trình trên đều ít nhiều đề cập
đến vấn đề cần thiết hiện nay là đào tạo nguồn nhân lực XKLĐ của Việt Nam
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, chưa có công
trình khoa học nào đề cập một cách hệ thống và chuyên sâu về nâng cao chất
lượng lao động xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động của Việt
Nam. Vì vậy, luận văn lựa chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu
của Việt Nam“ làm nội dung nghiên cứu với mong muốn đóng góp một số đề
xuất giải pháp để nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu chung: trên cơ sở làm rõ thực trạng và hạn chế của lao động xuất khẩu
của Việt Nam sang một số nước Châu Á trong những năm vừa qua, luận văn đưa ra
một số đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu.
Để thực hiện được mục tiêu chung, luận văn có một số nhiệm vụ nghiên cứu như
sau:
 Hệ thống hoá một số vấn đề chung và cơ sở lí luận về chất lượng lao động xuất
khẩu.

4


 Làm rõ thực trạng chất lượng lao động xuất khẩu trong những năm gần đây, chỉ
ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế dẫn đến chất lượng
lao động xuất khẩu thấp.
 Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu để đáp ứng
được những yêu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam sang một số
nước Châu Á.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích vấn đề nâng cao chất lượng

lao động xuất khẩu của Việt Nam sang một số nước châu Á. Trong đó, luận văn đề
cập đến những phương diện như: Cơ sở lý luận chung liên quan đến lao động xuất
khẩu và những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động xuất khẩu. Luận văn
không đề cập đến tiền lương, chế độ đãi ngộ, yếu tố an sinh xã hội của lao động
xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Châu Á.
- Phạm vi thời gian: Từ 2010 đến nay.
- Phạm vi không gian: Xem xét trên tổng thể quốc gia Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp
phân tích, tổng hợp từ các tài liệu thứ cấp như bảng khảo sát chất lượng LĐ đi làm
việc ở Đài Loan, Nhật Bản đã trở về Việt Nam, bảng tổng hợp trình độ LĐ trước khi
đi làm việc ở nước ngoài (LĐ đã qua đào tạo, LĐ chưa qua đào tạo), bảng tổng hợp
ngành nghề. Phương pháp thu thập thông tin khi trao đổi tiếp thu kiến thức từ một số
chuyên gia. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp phân tích so sánh thông
qua sử dụng các công cụ bảng biểu, đồ thị, tỉ lệ phần trăm…, so sánh điều kiện tự
nhiên, kinh tế của Việt Nam và các nước Châu Á...
6. Ý nghĩa lý luận và và thực tiễn của luận văn.
Luận văn góp phần làm rõ thực tiễn chất lượng lao động xuất khẩu của Việt
Nam sang một số nước trong khu vực và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Cụ thể là: Thứ nhất, luận văn cung cấp cái nhìn tổng quát nhất về lao động xuất

5


khẩu của Việt Nam ở một số nước Châu Á , qua đó làm nổi bật bản chất, chức năng
và nội dung của việc nâng cao nguồn nhân lực cũng như những xu hướng chính
trong bối cảnh toàn cầu hóa và mở cửa thị trường. Thứ hai, luận vănlàm rõ các
chính sách nâng cao lao động xuất khẩu đã được áp dụng trong bối cảnh kinh tế ở
nước ta từ đó khái quát thành thành tựu và hạn chế của những chính sách này. Thứ
ba, luận văn đề xuất được một số giải pháp chính sách để nâng cao chất lượng lao

động xuất khẩu của Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn.
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, có các chương sau:
Chương 1: Luận văn bàn về các khái niệm, nội dung, các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng lao động xuất khẩu.
Chương 2: Luận văn bàn về thực trạng và những chính sách nâng cao chất
lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam thông qua đó đánh giá những chính sách
này.
Chương 3: Luận văn đưa ra các khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam tại một số nước Châu Á trong bối cảnh
hiện nay. Ngoài ra, luận văn cũng đưa ra những điều kiện cần thiết để thực hiện các
giải pháp nâng cao chất lượng lao động.

6


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO
ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm
1.1.1. Các khái niệm về nguồn lao động và lao động xuất khẩu
- Khái niệm về nguồn lao động:
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong
các ngành kinh tế. Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt biểu hiện đó là
số lượng và chất lượng.
Nguồn lao động xét về mặt số lượng: giới hạn độ tuổi lao động được qui định
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước và trong từng thời kỳ. Tại
Điều 6 và Điều 145 của Bộ Luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam qui định độ tuổi lao động của nam từ 15 – 60 và nữ là 15 –55 tuổi. Như vậy,
nguồn lao động bao gồm dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm
công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc và những người thuộc
tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định). Đối với
nguồn lao động thì số lượng phụ thuộc vào một số yếu tố có tính chất xã hội như:
quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ,
trình độ phát triển của giáo dục - đào tạo. Nếu các cá nhân có nhiều điều kiện để
học tập họ sẽ ở lại học tập lâu hơn và trì hoãn thời gian tham gia vào thị trường lao
động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự di dân và nhập cư cũng là nhân tố
ảnh hưởng đến nguồn lao động.
Nguồn lao động không chỉ được xem xét dưới góc độ số lượng mà còn ở khía
cạnh chất lượng. Chất lượng nguồn lao động là một khái niệm tổng hợp, bao gồm
những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Nó thể hiện
trạng thái nhất định của nguồn lao động với tư cách vừa là một khách thể vật chất
đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Trong đó:

7


Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự chăm sóc sức
khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe mạnh, thích nghi với
môi trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng yêu cầu của một hoạt động
cụ thể nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết định năng lực hoạt động của con
người. Phải có thể lực con người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ của mình
trong xã hội.
Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học, trình độ kiến thức chuyên
môn, kỹ năng kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán của mỗi con
người. Trí lực thực tế là một hệ thống thông tin đã được xử lý và lưu giữ lại trong
bộ nhớ của mỗi cá nhân con người, được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau. Nó

được hình thành và phát triển thông qua giáo dục đào tạo cũng như quá trình lao
động sản xuất.
Đạo đức, phẩm chất là những đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã hội của
nguồn lao động bao gồm toàn bộ những tình cảm, tập quán phong cách, thói quen,
quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật..., gắn liền
với truyền thống văn hóa. Một nền văn hóa với bản sắc riêng luôn là sức mạnh nội
tại của một dân tộc. Kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản
và các nước NICs châu Á là tiếp thu kỹ thuật phương Tây trên cơ sở khai thác và
phát huy giá trị tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc để đổi mới và phát triển.
Các yếu tố này có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, là tiền đề phát triển của
nhau. Muốn nâng cao chất lượng nguồn lao động phải nâng cao cả ba mặt: thể lực,
trí lực và đạo đức, phẩm chất. Tuy nhiên mỗi yếu tố trên lại liên quan đến một lĩnh
vực rất rộng lớn. Thể lực và tình trạng sức khỏe gắn với dinh dưỡng, y tế và chăm
sóc sức khỏe. Trí lực gắn với lĩnh vực giáo dục đào tạo, còn đạo đức phẩm chất chịu
ảnh hưởng của truyền thống văn hóa dân tộc, nền tảng văn hóa và thể chế chính trị...
Do vậy, để đánh giá chất lượng nguồn lao động thường xem xét trên ba mặt: sức
khỏe, trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất của người lao
động.

8


- Khái niệm về lao động xuất khẩu:
Sự di chuyển lao động từ nước này sang nước khác để kiếm sống nằm trong
phạm trù chung là di dân quốc tế (international migration), di dân quốc tế bao hàm
cả những người hoặc dòng người di chuyển từ nước này sang nước khác với nhiều
lứa tuổi khác nhau, nhiều lý do khác nhau, trong số đó có một bộ phận thuộc lực
lượng lao động (labour force).
Những tiến bộ của khoa học công nghệ trên thế giới, sự phát triển kinh tế thị
trường ngày càng lan rộng trên bình diện quốc tế dẫn đến toàn cầu hóa kinh tế là xu

thế khách quan của thời đại, vì vậy phân công lao động quốc tế luôn có những thay
đổi là điều tất yếu. Việc phân công lao động quốc tế có đặc điểm sau:
Nhóm các nước phát triển vừa có nhu cầu lao động đơn giản trong hệ thống cả
ba lĩnh vực: Dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp, nhất là lao động trong các công
việc thuộc nhóm 3D (Dirty: Bẩn thỉu, Difficult: khó khăn, Danggerous: nguy hiểm).
Ngược lại bản thân các nước này lại đưa lao động có trình độ kỹ thuật và chuyên
viên bậc cao (lao động chất xám) đi làm việc ở các nước chậm phát triển khác dưới
hình thức chuyên gia, lao động kỹ thuật có mức thu nhập cao (ví dụ Nhật Bản với
Việt Nam).

9


Quốc Gia Xuất
Khẩu Lao Động
CÁC NƯỚC
ĐANG
PHÁT TRIỂN

CÁC NƯỚC
PHÁT TRIỂN

CHUYÊN GIA
KỸ THUẬT
VIÊN LÀNH
NGHỀ

LAO ĐỘNG

ĐƠN GIẢN,

KỸ THUẬT
ĐƠN GIẢN

CÁC NƯỚC
ĐANG
PHÁT TRIỂN

CÁC NƯỚC
PHÁT TRIỂN
QUỐC GIA

NHẬP KHẨU
LAO
ĐỘ
Sơ đồ 1.1. Xu hướng chuyển dịch lao động tại các Quốc gia
Nhóm các nước đang phát triển và chậm phát triển cũng vừa có nhu cầu đưa
lao động sang các nước phát triển và đang phát triển có nhu cầu thuê mướn lao động
nhằm làm giảm sức ép việc làm trong nước và để tăng nguồn ngoại tệ (Việt Nam và
Hàn quốc, Nhật Bản). Bên cạnh đó, ngayNG
trong các nước này cũng có nhu cầu trao
đổi lao động theo từng thời kỳ, từng thời vụ (Việt Nam và Lào, Malaysia và Thái
Lan). Ngoài ra, các nước này còn nhập khẩu lao động chất lượng cao dưới các hình
thức chuyên gia, kỹ thuật viên khi chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến trong
quá trình phát triển kinh tế đất nước nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất khẩu lao động: Trong những năm gần đây, công việc đưa người lao động
có tổ chức từ một quốc gia này tới một quốc gia khác có nhu cầu thuê mướn sức lao
động đã trở thành phổ biến. Đó chính là xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là

10



sự di chuyển lao động có tổ chức đi làm việc trong thời hạn nhất định ở nước ngoài
thông qua các hiệp định về XKLĐ và các thỏa thuận khác giữa các quốc gia nhận
và gửi lao động.
Những nước xuất khẩu lao động chuyên môn kỹ thuật giản đơn thường là
những nước kém phát triển hoặc phát triển với tốc độ chậm mà không ưu tiên đẩy
mạnh các các ngành dùng nhiều lao động, những nước này vừa đông dân số, vừa
đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động XKLĐ được diễn ra sôi
động khi mà các chính sách mở cửa kinh tế của Nhà nước được tiến hành. . Xuất
khẩu lao động cần phải được phân biệt với lao động xuất khẩu. Một cái là thể hiện
hành động di chuyển đối tượng một cách có tổ chức, cái kia thể hiện bản thân đối
tượng được di chuyển.
1.1.2. Khái niệm về nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu
Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu là khái niệm được hiểu ở góc độ
hoàn thiện, nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu và điều chỉnh hợp lý
số lượng nguồn lao động xuất khẩu. Để có thể nâng cao được chất lượng nguồn
lao động xuất khẩu, xét từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế, phải có các cơ chế, chính
sách tác động vào nguồn lao động xuất khẩu. Như vậy, có thể hiểu khái niệm nâng
cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu là tổng thể các cơ chế, chính sách và
biện pháp hoàn thiện, nâng cao phẩm chất về trí tuệ, thể chất, tâm lý - xã hội của
lao động xuất khẩu và điều chỉnh hợp lý về số lượng lao động đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi về nguồn lao động cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát
triển.
Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu không chỉ giúp xóa đói giảm nghèo cho
lực lượng lao động xuất khẩu, mà còn giúp nâng cao chất lượng nguồn lao động nói
chung thông qua trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp,
tư duy kinh tế trong cộng đồng người lao động. Từ đó, góp phần chuyển dịch nền
kinh tế quốc dân theo hướng tích cực, tăng tỷ lệ việc làm và nâng cao đời sống
nguồn lao động.
1.2. Nội dung lao động xuất khẩu


11


1.2.1. Các hình thức xuất khẩu lao động
Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các nước vừa nhập
khẩu lao động lại vừa xuất khẩu lao động để phục vụ nhu cầu của thị trường lao
động.
Có 5 hình thức XKLĐ (còn gọi là kênh XKLĐ), đó là:
- Xuất khẩu lao động thông qua các đơn hàng của doanh nghiệp XKLĐ: Hình thức
XKLĐ này hiện này là phổ biến nhất, các doanh nghiệp được cấp phép XKLĐ,
thông qua hoạt động của mình, họ tìm kiếm đối tác ở nước ngoài có nhu cầu sử
dụng lao động, thông qua đàm phán, ký kết theo các nội dụng cụ thể theo quy định
của luật pháp 2 bên để có cơ sở tuyển chọn lao động trong nước (với yêu cầu cụ thể
của đối tác như về tuổi, giới tính, nghề nghiệp,…), sau khi học tập định hướng hoặc
bồi dưỡng khác sẽ thực hiện ký kết hợp đồng với lao động tuyển chọn và tổ chức
đưa sang phía nước tiếp nhận lao động làm việc theo hợp đồng có thời hạn.
- Xuất khẩu lao động thông qua hệ thống ưu đãi : Các nước nhận lao động đưa ra
các hình thức tiếp nhận, trong đó có hình thức “Thẻ” được quy định bởi một số tiêu
chí đặc thù ví dụ như hệ thống thẻ vàng của Hàn Quốc, loại thẻ này chỉ tiếp nhận
lao động có trình độ chuyên môn cao (thường là các kỹ thuật viên, tốt nghiệp đại
học thông thạo ngôn ngữ để làm việc trong các vị trí quan trọng). Việt Nam cũng đã
xuất khẩu sang Hàn Quốc theo hình thức này, chủ yếu là kỹ sư, chuyên gia, lương
của loại lao động này khá cao và họ được chủ động lựa chọn công việc khi sang
Hàn Quốc. Đại học Bách khoa Hà Nội là nơi có số lượng người đông nhất sang Hàn
Quốc làm việc theo hình thức này (đợt đầu tiên là 42 người). Ở Đức có hệ thống thẻ
xanh, thường chỉ nhận lao động trong cộng đồng EU. Đầu những năm 2000, nước
này có nhu cầu nhận 20.000 lao động nước ngoài đến làm việc nhưng hạn chế ở các
nước trong khối EU.
- Xuất khẩu lao động thông qua hợp đồng tu nghiệp sinh, thực tập sinh: Hình thức

này khi nhận lao động thường núp dưới bóng tu nghiệp sinh hoặc thực tập sinh, theo
nguyên lý thì các học viên đang học chuyên môn kỹ thuật tại các trường sang tu
nghiệp, lao động thực tế trong thời hạn nhất định, với mức thu nhập, thù lao theo

12


thoả thuận không theo mức lương nước bản địa cũng như các chế độ lao động khác,
tuy nhiên một số nước đã lợi dụng con đường này để tiếp nhận lao động và được
hiểu là XKLĐ vì quyền lợi của người lao động do hai bên thoả thuận phù hợp với
người lao động. (hiện tại Nhật Bản đang áp dụng hình thức này nhiều nhất).
- Xuất khẩu lao động do người lao động ký trực tiếp với chủ lao động ngoài nước:
Hình thức này thường xảy ra ở hai phương diện, khi người lao động hoàn thành hợp
đồng về nước mà trước đó do một doanh nghiệp tổ chức đưa đi, khi tái xuất họ trực
tiếp ký với người sử dụng lao động nước ngoài mà không thông qua cơ quan môi
giới, hoặc là do giới thiệu, giao dịch trên mạng,… mà họ trực tiếp ký với nhau và
khi làm thủ tục XKLĐ thì người lao động chỉ đăng ký qua Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội trước khi xuất cảnh.
- Xuất khẩu lao động do người lao động tự đi ra nước ngoài tìm việc.
Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam chủ yếu diễn ra ở
3 kênh đầu tiên trong khuôn khổ “Di trú thể nhân có tổ chức” thực hiện bởi các
pháp nhân kinh tế của nước nhận và cử lao động trên cơ sở:
- Thoả thuận giữa hai chính phủ về quan hệ cung - cầu lao động
- Thoả thuận giữa tổ chức thuộc Chính phủ Việt Nam và tổ chức phi chính phủ
nước ngoài
- Thoả thuận giữa tổ chức phi Chính phủ Việt Nam Nam và tổ chức phi chính phủ
khu vực nước ngoài
- Thoả thuận giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài
- Thoả thuận giữa người lao động Việt Nam và nhà tuyển dụng nước ngoài.
Việc tổ chức XKLĐ có thể được xếp thành 5 loại gồm: Doanh nghiệp làm dịch

vụ XKLĐ, doanh nghiệp nhận thầu làm việc ở nước ngoài, tổ chức cá nhân đầu tư
ra nước ngoài, doanh nghiệp đưa lao động ra nước ngoài dạng thực tập sinh, tu
nghiệp sinh, tổ chức sự nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Di cư lao động quốc tế ngày càng gia tăng mạnh mẽ, nhất là trong bối cảnh quốc
tế hoá tự do dịch vụ thương mại thì sự di chuyển lao động lao động giữa các nước
tìm kiếm việc làm lại càng diễn ra sôi động. Theo ước tính, hiện nay có khoảng gần

13


200 triệu người di cư trên thế giới, bình quân 35 người trên thế giới thì có 1 người
sống và làm việc ngoài đất nước họ.
1.2.2. Đặc điểm lao động của các nước đang phát triển
 Số lượng lao động tăng nhanh
Các nước đang phát triển đang gặp phải một thách thức lớn đó là sự gia tăng
nhanh của lực lượng lao động. Ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người
tìm việc làm tăng từ 2% trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với
việc gia tăng dân số. Theo số liệu tổng điều tra dân số 1-4-1999 dân số nước ta là
76,32 triệu người, trong đó khoảng 39 triệu người là lực lượng lao động chiếm 51%
dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao động dẫn
đến sức ép rất lớn về việc làm.
 Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển
là đa số lao động làm nông nghiệp. Ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm hơn
70% tông số lao động. Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước
nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động
trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ
phát triển của nền kinh tế.
 Hầu hết người lao động được trả tiền công thấp
Lực lượng lao động ở các nước đang phát triển có số lượng ngày càng tăng làm

cho nguồn cung ứng lao động dồi dào. Trong khi đó hầu hết các nguồn lực khác đều
thiếu và yếu: trang thiết bị cơ bản ,đất trồng trọt, ngoại tệ và những nguồn lực khác
như khả năng buôn bán, trình độ quản lý. Tiền công thấp còn một nguyên nhân cơ
bản nữalà trình độ chuyên môn của người lao động thấp.
Ở Việt Nam số người không biết chữ hiện nay còn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong
lực lượng lao động xã hội, số người lao động phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ
thông trung học 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông
trung học được đào tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên
nghiệp, chỉ có 9%trong tổng số lao động của xã hội là lao động kỹ thuật. Các

14


chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật giỏi còn
ít. Bên cạnh đó, ở các nước đang phát triển tình trạng chung là những người lao
động còn thiếu khả năng lao động chân tay ở mức cao vì sức khoẻ và tinh trạng dinh
dưỡng của họ thấp.
 Còn một bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng
Ở các nước đang phát triển tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu
hướng gia tăng, đặc biệt ở khu vực thành thị. Ở nước ta, năm 1998, chỉ tính riêng
khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp là 6,85%tăng hơn 0,84% so với năm 1997. Số
lao động thiếu việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay trên 8%, thậm
chí còn có nơi lên tới 50-60%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm khoảng
27,65%. Tính chung cho cả nước, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng cho hoạt
động kinh tế năm 1998 là 71,13%. Thực tế đó cho thấy, vấn đề giải quyết việc làm
đang là áp lực nặng nề đối với các nươc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói
riêng.
1.3. Nội dung chất lượng lao động xuất khẩu.
1.3.1. Yếu tố về thể lực:
Thể lực của lao động xuất khẩu được biểu hiện thông qua những yếu tố: chiều

cao, cân nặng, giới tính, sức chịu đựng…Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng lao động của một doanh nghiệp. Đây là yếu tố được nhà tuyển dụng quan
tâm nhưng cũng rất khó cho họ có thể tuyển được những lao động có sức khoẻ như
ý, bởi sức khoẻ người lao động cần được thể hiện trong cả thời gian làm việc tại
nước ngoài. Điều này rất khó khăn do lao động làm việc tại nước ngoài thường có
những thay đổi về sức khoẻ khi phải làm việc và có cuộc sống không như trong
nước, vì vậy các doanh nghiệp khi tuyển lao động thì cần tuyển chọn thật kỹ càng
vấn đề sức khoẻ để tránh khỏi những điều đáng tiếc xảy ra ví dụ như lao động bị trả
về nước vì vấn đề sức khoẻ.
Sức khỏe được hiểu không chỉ là tình trạng không có bệnh tật, mà còn là sự
hoàn thiện về mặt thể chất và tinh thần. Sức khoẻ làm tăng chất lượng của
nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai, người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang

15


lại những lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng
tập trung trong khi đang làm việc. Với thể lực tốt, lao động có thể tiếp thu nhanh
chóng những kiến thức, kỹ năng kỹ xảo trong quá trình giáo dục - đào tạo và thực
hiện công việc.
 Chiều cao: là lợi thế và cũng là yếu tố đánh giá chất lượng lao động xuất khẩu.
So với thế giới, tầm vóc và thể lực của người lao động Việt Nam thuộc loại
trung bình thấp, tỷ lệ thấp còi cao hơn nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Theo công bố mới nhất của Viện dinh dưỡng Việt Nam vào tháng 6/2013, chiều
cao trung bình của nam (tuổi từ 15 – 29) là 163,7 cm, nữ là 153 cm; thấp hơn so
với tiêu chuẩn quốc tế là 13,1 cm đối với nam, 10,7 cm đối với nữ; thấp hơn
thanh niên Nhật Bản là 8cm đối với nam, 4 cm đối với nữ; thấp hơn thanh niên
Thái Lan, Singapore từ 2-6 cm. Hạn chế về chiều cao ảnh hưởng đến việc sử
dụng, vận hành máy móc hiện đại, hạn chế năng suất lao động, bắt buộc người
lao động phải gắng sức nhiều và làm tăng nguy cơ mất an toàn lao động.

 Cân nặng: Thể trạng béo, gầy… ảnh hưởng đến sự linh hoạt, cường độ và năng
suất lao động. Cân nặng cũng là một trong những tiêu chí phản ánh sức khỏe,
khả năng làm việc của người lao động trong tương quan với chiều cao và độ
tuổi. Cân nặng có thể ảnh hưởng tới sức khỏe và khả năng chịu sức ép của người
lao động và giảm hiệu suất lao động .
 Giới tính: Nhìn chung, sự mất cân đối về giới tính khi sinh ở nhiều vùng miền,
nhiều quốc gia làm cho chất lượng nguồn lao động trong tương lai bị ảnh hưởng.
Do đặc thù công việc, nhiều ngành nghề yêu cầu phù hợp với nam giới (cơ khí,
xây dựng, hầm mỏ, đánh bắt cá…) hoặc ngược lại phù hợp với nữ giới (dệt may,
chế biến thủy sản, điện tử…).


Độ tuổi: Nguồn lao động nhiều quốc gia đang bị già hóa và tỷ lệ phụ thuộc
rất cao. Trong khi đó, Việt Nam nổi trội về nguồn LĐ trẻ dồi dào, tỷ lệ dân số
phụ thuộc thấp. Tuy nhiên, xét về yếu tố độ tuổi, LĐ chất lượng cao không chỉ
đánh giá qua số lượng LĐ trẻ mà chủ yếu qua tỷ trọng LĐ có trình độ văn hóa
và chuyên môn kỹ thuật.

16


1.3.2. Yếu tố về trí lực
Trí lực là yếu tố chủ yếu hình thành nên năng lực làm việc của người lao động,
được đúc kết qua quá trình giáo dục – đào tạo. Nguồn lao động có chất lượng khi
trình độ văn hóa và trình độ ngoại ngữ tốt, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao,
ngành nghề đa dạng. Thái độ lao động tốt, cần mẫn, chăm chỉ, chịu khó học hỏi.. và
có tác phong công nghiệp, tuân thủ kỷ luật lao động và công nghệ, phối hợp công
việc, tổ chức sản xuất… Cụ thể:
- Trình độ ngoại ngữ: khi ra nước ngoài làm việc, người lao động cần có một vốn
ngoại ngữ nhất định để có thể giao tiếp xã giao và để làm việc với chủ lao động

của mình. Đây là một yếu tố không thể thiếu đối với người lao động khi tham
gia làm việc tại nước ngoài. Để có thể làm được việc và sống được bên đó thì ngoại
ngữ là cầu nối duy nhất của người lao động. Đối với người lao động thì khi sang lao
động tại nước nào thì họ được học và thực hành tiếng nước đó. Tuy nhiên học ngoại
ngữ đối với họ không phải là dễ dàng vì gần như đây là lần đầu tiên tiếp xúc với
tiếng nước ngoài, vì vậy đây là khó khăn của không chỉ người lao động mà nó còn
là khó khăn của doanh nghiệp để nâng cao chất lượng lao động của mình. Chất
lượng lao động phụ thuộc rất lớn vào tiêu chí này, nên ngoại ngữ là rất cần thiết và
đó là yếu tố rất quan trọng để đánh giá chất lượng lao động của một doanh nghiệp
xuất khẩu lao động.
- Trình độ văn hóa: là những tri thức của nhân loại mà người lao động tiếp thu được
theo những cấp độ khác nhau, đạt được thông qua học tại trường lớp, tự học, học
qua thực tế… nhưng phần lớn được tiếp thu qua trường lớp. Vì vậy, đánh giá trình
độ văn hóa thông qua bằng cấp của người lao động đạt được ở các trường phổ
thông, cao đẳng, đại học như:
+ Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 10 tuổi trở lên: (%) số lao động có thể đọc, viết, hiểu
được những câu đơn giản của tiếng Việt so với tổng dân số 10 tuổi trở lên. Chỉ tiêu
này đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của một quốc gia.
+ Chỉ tiêu học vấn chung (số năm đi học bình quân): tống số năm đi học của những
người thuộc nguồn lao động so với tổng số người trong nguồn lao động. Chỉ tiêu

17


này phản ánh chất lượng của nguồn lao động ở góc độ học vấn xét cho một
địa phương, vùng, thành thị, nông thôn và toàn quốc.
+ Tỷ lệ LĐ tốt nghiệp tiểu học: (%) Tổng số lao động tốt nghiệp tiểu học
thuộc nguồn lao động so với tổng số lao động của nguồn lao động.
+ Tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học cơ sở: (%) Tổng số lao động tốt nghiệp
trung học cơ sở trong nguồn lao động so với tổng số lao động của nguồn lao động.

+ Tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ thông: (%) Tổng số lao động tốt
nghiệp trung học phổ thông trong nguồn lao động so với tổng số lao động của
nguồn lao động. Đối với người lao động, trình độ văn hóa là cơ sở quan trọng để họ
tiếp thu các kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, giác ngộ giai cấp và nâng cao ý
thức tổ chức kỷ luật trong lao động … Vì vậy đây là tiêu thức quan trọng để đánh
giá chất lượng nguồn lao động.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật là những kiến thức về chuyên môn, nghề nghiệp
của người lao động theo những cấp độ khác nhau. Chuyên môn kỹ thuật là tiêu chí
hàng đầu khi người lao động được xét tuyển. Để có thể ra nước ngoài làm việc,
người lao động cần có một trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định phù hợp với yêu
cầu của phía đối tác. Do đó các doanh nghiệp hay các công ty xuất khẩu lao động
cần đào tạo người lao động sau khi tuyển dụng để họ có một trình độ ngành nghề cụ
thể. Các ngành nghề này thường là các nghề mà nước tiếp nhận lao động cần tuyển
như: xây dựng, may măc, điện, thông tin, hay người giúp việc. Chất lượng lao động
xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Người lao động
có một kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ tốt sẽ dễ dàng được nước bạn tiếp nhận hơn
là người lao động không đáp ứng được yêu cầu này. Đánh giá thông qua bằng cấp
chuyên môn của người lao động đã đạt được qua học tập và thi cử như: thạc sĩ,
đại học, trung cấp, sơ cấp, công nhân kỹ thuật… Trình độ chuyên môn thể hiện
khả năng ứng dụng lý thuyết với thực hành để tạo ra sản phẩm, đó chính là trình
độ tay nghề của người lao động. Các chỉ tiêu cụ thể:

18


+ Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo: (%) số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao
động thuộc nguồn lao động. Chỉ tiêu này đánh giá khái quát về trình độ chuyên môn
của nguồn lao động mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ.
+ Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo (công nhân kỹ thuật, trung cấp
chuyên nghiệp, đại học và sau đại học): (%) số lao động theo cấp bậc đào tạo tương

ứng so với tổng số lao động thuộc nguồn lao động. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá có
sự mất cân đối và quyết định nhu cầu đào tạo tổng thể của cả nước.
Năng lực làm việc của lao động chủ yếu nhờ các yếu tố về trí lựcc. Chất lượng
lao động khi so sánh giữa các quốc gia khác nhau chủ yếu thông qua tiêu chí: trình
độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động và thái độ làm việc,
trình độ ngoại ngữ, khả năng xử lý tình huống… Nhìn chung, đối với lao động xuất
khẩu thì yếu tố về giáo dục-đào tạo được đánh giá qua các tiêu chí: kĩ năng sống,
hiểu biết xã hổi, kĩ năng nghề, trình độ học vấn, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng xử lý
tình huống, kỹ năng làm việc độc lập, kỹ năng làm việc theo nhóm.
1.3.3. Yếu tố về phẩm chất
Ngoài yếu tố thể lực và trí lực, quá trình lao động đòi hỏi người lao động phải
có những phẩm chất như tính kỷ luật, tự giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao
động công nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao… Những phẩm chất này gắn liền
với truyền thống văn hóa dân tộc. Người lao động Việt Nam cần cù, sáng tạo và
thông minh nhưng về kỷ luật lao động và tinh thần hợp tác lao động còn nhiều
nhược điểm, đang gây trở ngại lớn cho tiến trình hội nhập của nước ta. Chỉ tiêu
đánh giá định hướng: tỷ lệ lao động vi phạm kỷ luật về thời gian lao động (đi muộn,
về sớm, không chấp hành quy định giờ giấc trong thời gian làm việc, nghỉ việc
không báo trước), tỷ lệ lao động vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, các yếu tố về ý thức xã hội bao gồm tập quán, truyền thống, phẩm
chất đạo đức, tác phong làm việc, tôn giáo, hiểu biết và chấp hành pháp luật. Phẩm
chất đạo đức và tác phong làm việc là những yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp
hay nước bạn đánh giá chất lượng lao động của mình khi tuyển chọn. Đây cũng là
tiêu chí đầu tiên mà doanh nghiệp quan tâm để tuyển chọn lao động cho mình.

19


Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ có thể dạy khi người
lao động đã được tuyển chọn nhưng phẩm chất đạo đưc và tác phong làm việc thì là

yếu tố không thể dạy được trong thời gian ngắn mà lao động đang ở tại doanh
nghiệp. Do đó cần tuyển chọn được những lao động đạt tiêu chuẩn về phẩm chất
đạo đức, tác phong làm việc để có thể đảm bảo chất lượng lao động một cách toàn
diện hơn khi tham gia lao động tại nước ngoài.
1.3.4. Yếu tố đáp ứng yêu cầu của nước tiếp nhận lao động
Ta thấy rằng, chất lượng lao động xuất khẩu, có một số điểm khác biệt so với lao
động trong nước như: đòi hỏi có chiều cao, cân nặng theo yêu cầu của nước sử dụng
lao động, đáp ứng yêu cầu ngành nghề ( có trình độ tay nghề nhất đinh), sử dụng
ngoài ngữ ở một mức độ nhất định để phục vụ yêu cầu của công việc và đời sống
sinh hoạt hằng ngày, ý thức chấp hành kỷ luật lao động, pháp luật và hiểu biết
phong tục tập quán của nước đến làm việc. Người lao động đi làm việc ở nước
ngoài phải có nhân thân tốt, không có tiền án, đồng thời đáp ứng các tiêu thức theo
nhu cầu cụ thể của chủ sử dụng lao động nước ngoài, thể hiện qua đặc thù sản xuất
của ngành nghề và yêu cầu riêng của chính người sử dụng lao động. Ví dụ như:
nghề điện tử, dệt may và chế biến thủy sản thực hiện theo dây chuyền sản xuất,
trong đó nghề điện tử cần người kiên trì, nhanh tay và tinh mắt nên chọn lao động
trẻ, nghề chế biến thủy sản và dệt may cần người kiên nhẫn, chịu khó, do đó, những
ngành nghề này phù hợp với lao động nữ. Nghề giúp việc gia đình, chăm sóc sức
khỏe người bệnh cần người có vốn sống trải nghiệm, kiên nhẫn và cẩn thận, do đó,
sẽ lựa chọn lao động nữa ở độ tuổi trung niên. Nghề xây dựng, cơ khí, hầm mỏ,
thuyền viên tàu cá, vận tải biển yêu cầu lao động có sức khỏe tốt, đạt tiêu chuẩn về
chiều cao và cân nặng, có sức chịu đựng để có thể làm việc liên tục ngoài trời, trong
hầm hay trên biển, do đó, cần lựa chọn lao động nam có kinh nghiệm và thể lực tốt.
Nhìn chung, lao động đi làm việc ở nước ngoài đều có những yêu cầu cơ bản về các
yếu tố thể lực, trí lực và phẩm chất. lao động trong nước không đòi hỏi quá khắt khe
về chiều cao, cân nặng, sức chịu đựng nhưng lao động đi làm việc ở nước ngoài chỉ
lựa chọn những người đạt tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng theo yêu cầu sản xuất, tính

20



chất công việc. Người khuyết tật vẫn được tạo cơ hội việc làm trong nước nhưng
không được tham gia hoạt động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ số lao động nam/nữ
đi làm việc ở nước ngoài xuất phát từ nhu cầu tuyển dụng của chủ sử dụng lao động
nước ngoài và khả năng đáp ứng của nước phái cử lao động. Ở Việt Nam, độ tuổi
lao động trong nước không quá 55 tuổi với nữ, 60 tuổi với nam nhưng độ tuổi lao
động đi làm việc ở nước ngoài thường được giới hạn thấp hơn như Đài Loan không
quá 40 tuổi, ở Hàn Quốc không quá 38 tuổi. Đa số người lao động đi làm việc ở
nước ngoài có độ tuổi từ 18-30 tuổi. Bên cạnh đó, tùy theo tính chất đặc thù một số
ngành nghề như xây dựng ở Trung Đông có thể lấy đến độ tuổi 45-50, nghề giúp
việc gia đình ở Đài Loan, Malaysia có thể lấy đến độ tuổi 40-45 hay chăm sóc
người bệnh có thể lấy độ tuổi 25-30. Chuyên gia có thể lấy đến 50-60 tuổi.
Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu là yếu tố được các nhà đối tác quan tâm
hàng đầu khi tiếp nhận lao động xuất khẩu. Nó quyết định khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp và các công ty tham gia xuất khẩu lao động, đồng thời quyết định
đến sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất khẩu lao động. Khi mà chất
lượng lao động không được chú ý đến thì hiệu quả công việc sẽ không đạt kết qủa
như mong muốn. Không chỉ đối với lao động nói chung mà bất kỳ một lao động
trong ngành nghề cụ thể nào cũng cần có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao. Vì
vậy khi lao động đủ điều kiện đi xuất khẩu lao động phải là lao động có trình độ
chuyên môn, có tay nghề, có thể đáp ứng công việc kỹ thuật cao, là lao động có
phẩm chất đạo đức, có tác phong làm việc tốt... Đây không chỉ là đòi hỏi của thị
trường lao động, của nước tuyển lao động, mà nó là xu thế khách quan khi mà
công nghệ kỹ thuật cao đang chiếm đại đa số công nghệ sản xuất của các nước trên
thế giới. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, ở đâu chuẩn bị được tốt lực lượng lao
động, có chất lượng cao phù hợp sẽ nhanh chóng chiếm giữ được thị trường, dành
thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ khác. Vì vậy trước khi đi làm việc tại
nước ngoài, người lao động cần được đào tạo toàn diện cả về ngoại ngữ, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, kiến thức về pháp luật và sự hiểu biết khác.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động xuất khẩu


21


×