Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Các quy luật của trí não và một số vận dụng trong việc thiết kế và tổ chức quá trình dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.86 KB, 14 trang )

Các quy luật của trí não và một số vận dụng trong việc thiết kế và
tổ chức quá trình dạy học
The brain rules and applications in the design and organize
of the teaching process
TÓM TẮT
Tác giả John Medina trong cuốn sách Luật trí não (Brain Rules) đã đề cập một
cách sinh động đến 12 quy luật của trí não để tồn tại và phát triển ở nơi làm việc và
trường học. Kết hợp với những kinh nghiệm được đúc kết trong suốt quá trình nghiên
cứu tại Trung tâm nghiên cứu ứng dụng quy luật trí não trong học tập của trường đại
học Seattle Pacific, ông đưa ra những ý tưởng để ứng dụng luật trí não trong giáo dục
và dạy học. Bài viết dưới đây trình bày một cách khái quát những ý tưởng của tác giả
đồng thời cung cấp những cách thức vận dụng luật trí não trong quá trình dạy học với
những ví dụ cụ thể được đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy.
Từ khóa: Luật trí não, nhận thức, bộ não, tư duy, dạy học
Abstract
John Medina mentioned to the 12 rules of the brain in order to survive and develop in
the workplace and schools in his book Brain Rules vividly. Based on his experience
which was gained during research process at the Center for Research and Application
the brain rule in learning in Seattle Pacific University, he gave the ideas to apply them
in education. This article presents an overview of the author's ideas and provides
solutions to use brain rules in teaching with specific examples from the teaching
experience.
Key words: Brain rules, education, teaching, application, experience
I. Đặt vấn đề
Dạy học là hoạt động trí tuệ của thầy và trò, một quá trình vận động và phát
triển liên tục trong trí tuệ và nhân cách của HS [1, tr.57]. Về bản chất quá trình này liên
quan trực tiếp đến cơ chế nhận thức, cơ chế hoạt động cơ bản cũng như cơ chế ghi nhớ
và tư duy của não người. Chính vì thế, giáo viên (GV) cần phải nắm bắt được những
quy luật của trí não để áp dụng vào quá trình giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả nhận
thức và tư duy của học sinh (HS). Điều này thể hiện trong quan điểm dạy học, cách lựa
chọn mô hình, phương pháp (PP) dạy học và đặc biệt là mối quan hệ giữa người dạy và


người học.
II. Nội dung


1. Các quy luật của trí não và những ứng dụng trong giáo dục và dạy học
1.1. Ứng dụng quy luật 1. Luyện tập thể chất giúp tăng cường năng lực trí não
Hoạt động rèn luyện thể chất trong trường học thực sự giúp người học nâng cao
khả năng nhận thức. Chính vì thế trường học nên tăng cường môn rèn luyện thể chất
vào chương trình giảng dạy thường xuyên, thậm chí hai lần một ngày, 20 – 30 phút mỗi
sáng và chiều. Đa phần khi HS được hỏi đều cho rằng công việc này thực sự mang lại
nhiều lợi ích khi thực hiện nhiều lần trong tuần, thậm chí nếu thực hiện có hiệu quả sẽ
giúp cho nhiều ý tưởng mới nảy sinh. Tác giả đã trình bày một ý tưởng thú vị có thể
thử nghiệm trong lớp học – Trong suốt buổi học các em sẽ không ngồi tại bàn học mà
đi bộ trên các máy tập. HS có thể nghe một bài giảng toán trong khi đang đi bộ với tốc
độ 1 đến 2 dặm một giờ, hoặc học tiếng Anh trên các máy đi bộ có lắp một chiếc máy
tính để bàn. Các máy đi bộ trong lớp học có thể tận dụng được những lợi thế quý báu
của việc gia tăng nguồn khí oxy một cách tự nhiên cho não.
1.2. Ứng dụng quy luật 2. Não người cũng tiến hóa
Xuất phát từ quá trình tiến hóa của con người tác giả chỉ ra ý nghĩa trong giáo
dục đó chính là “sự cộng tác” và “mối quan hệ”. Ông lí giải rằng khả năng học hỏi của
chúng ta có nguồn gốc sâu xa từ các mối quan hệ. Như vậy, thành tích có thể bị ảnh
hưởng sâu sắc từ môi trường xúc cảm mà chúng ta đang học tập. Ở một nghiên cứu
khác cũng chỉ ra: Chất lượng giáo dục một phần phụ thuộc vào mối quan hệ giữa HS
và GV.
1.3. Ứng dụng quy luật 3. Mỗi bộ não được kết nối khác nhau
Quy luật này khi vận dụng trong dạy học được John Medina khái quát trong hai
ý tưởng lớn là Lớp học nên nhỏ hơn và Dạy học cá nhân hóa
Lớp học nên nhỏ hơn. Thực tế cho thấy, lớp học càng nhỏ, càng thân thiện sẽ
tạo ra môi trường học tập tốt hơn những giảng đường to lớn. Quy luật trí não có thể
giúp lí giải tại sao nhỏ hơn mà lại hiệu quả hơn: Mọi bộ não đều được thiết lập khác

nhau nên cách tiếp cận sẽ không giống nhau. Bên cạnh đó, khả năng đọc được tư duy
của HS là một trong những công cụ hữu ích của GV. Điều này khiến GV tiếp cận tích
cực vào đời sống giáo dục nội tâm của SV. Từ hai vấn đề trên chỉ ra rằng: Sinh viên
(SV) lĩnh hội được kiến thức phức tạp trong các thời điểm khác nhau ở các độ sâu khác
nhau. Một GV chỉ có thể theo dõi được số lượng tư duy nhất định nên phải có giới hạn
về số lượng SV trong một lớp. Các lớp quy mô nhỏ hơn giúp mang lại thành tích tốt
hơn, đơn thuần vì GV có thể theo dõi tốt hơn xem mỗi SV đã đi đến đâu.
Dạy học cá nhân hóa. Hiện nay, hệ thống giáo dục của chúng ta đang không
thừa nhận quy luật trí não – Não người được thiết lập hoàn toàn theo cá nhân, não của
mọi HS, SV được thiết lập khác nhau. Hệ quả của quan điểm này là: Khi GV dạy trong
các lớp học truyền thống, các SV với mặt bằng trí tuệ không đồng đều sẽ có những lỗ
hổng trong học tập, bị bỏ lại không được sửa chữa, những lỗ hổng này khiến SV tụt


hậu ngày càng xa hơn. Để giải quyết thực trạng trên người ta đề xuất mô hình kết hợp
giữa GV và phần mền dạy học có trí tuệ nhân tạo. Trong đó phần mềm sẽ hỗ trợ GV
trong việc cá nhân hóa việc học của SV.
1.4. Ứng dụng quy luật 4. Chúng ta không chú ý đến những điều nhàm chán
Trong quy luật này nhà giáo dục John Medina giới thiệu mô hình thiết kế bài
giảng với những phân đoạn 10 phút. Ông quy định các bài giảng của mình đều chia
thành các module và mỗi module này chỉ kéo dài đúng 10 phút. Mỗi phân đoạn sẽ bao
gồm một khái niệm cốt lõi – luôn rộng hơn và khái quát, luôn đầy đủ ý chính và luôn
có thể lí giải trong một phút. Như vậy mỗi tiết học kéo dài 50 phút tác giả có thể cung
cấp cho SV 5 khái niệm mỗi cái trong 1 phút. Chín phút còn lại cung cấp sự mô tả chi
tiết của khái niệm khái quát đó. Ông đưa ra ba nguyên nhân để lí giải cho ý tưởng của
mình như sau:
- Người dạy chỉ có 600 giây được SV lắng nghe, sau thời điểm này sự tập trung
sẽ giảm đi nhanh chóng và những hoạt động tiếp theo sẽ kém hiệu quả nếu ở giây thứ
601 không có sự thay đổi.
- Bộ não xử lí ý nghĩa trước chi tiết, chính vì thế cần cung cấp cho nó những ý

chính, khái niệm cốt lõi từ ban đầu. Bên cạnh đó, bộ não cũng thích tính hệ thống, thứ
bậc, cho nên bắt đầu với những khái niệm khái quát sẽ tự nhiên dẫn đến việc lí giải
thông tin một cách có hệ thống.
- Người dạy cung cấp dàn ý của bài giảng ngay đầu tiết học, nhắc lại nhiều lần
về vị trí của của nội dung rải rác trong suốt tiết học để ngăn cản sự mất phương hướng
và mất tập trung của người học.
Sau 9 phút 59 giây sự chú ý của người học bắt đầu tụt giảm nhanh chóng. Thời
điểm này cần có một sự kích thích để họ vượt quan rào cản 10 phút và tiếp tục với
những 10 phút tiếp theo. Tác giả đã đưa ra “những chiếc lưỡi câu” với những dụng ý
sau:
- Lưỡi câu phải kích hoạt được cảm xúc như nỗi sợ hãi, nụ cười, niềm vui, sự
luyến tiếc, sự ngờ vực…bằng cách mô tả những sự kiện có tính đe doạ nào đó, hoặc
khẩu vị thích hợp, sự kiện có tính sinh sản…những câu chuyện sẽ đặc biệt hiệu quả khi
chúng sinh động và đi đúng vấn đề.
- Lưỡi câu phải thích hợp chứ không chỉ là những câu chuyện hay sựu kiện đơn
thuần. Nghĩa là nó phải phù hợp với nội dung trước đó để tâm trí của người học đang
nghĩ về kiến thức trong khi họ vẫn thư giãn.
- Lưỡi câu phải nằm giữa 2 module. Đặt ở cuối 10 phút để để xem lại, tóm tắt,
nhắc lại nội dung bài giảng; đặt ở đầu mỗi 10 phút nhằm giới thiệu kiến thức mới hoặc
nội dung mong đợi…
1.5. Ứng dụng quy luật 5. Nhắc lại để nhớ


Các ý tưởng ở đây gồm: Các ví dụ thực tế, Lời giới thiệu hấp dẫn và Môi trường
quen thuộc
 Các ví dụ thực tế: Người học càng tập trung vào ý nghĩa của thông tin được giới
thiệu thì tiến trình mã hóa diễn ra càng kĩ lưỡng. Nó có nghĩa là khi SV muốn đưa
một mẩu thông tin vào hệ thống trí nhớ của não họ cần phải đảm bảo hiểu chính xác
ý nghĩa của thông tin đó. Để hỗ trợ cho quá trình này các ví dụ thực tế đem lại
nhiều hiệu quả vì chúng phát huy tối đa sự ưa thích so mẫu tự nhiên của não. Thông

tin dễ được xử lí hơn nếu nó được liên kết tức thì với thông tin đang tồn tại sẵn
trong não người học. Người học so sánh hai thông tin đầu vào, tìm sự giống nhau
và khác nhau ngay khi họ mã hóa thông tin mới. Điều này có thể thực hiện bằng
cách người học có thể học sau giờ lên lớp hoặc là tốt hơn với thầy giáo trong quá
trình trải nghiệm học hỏi thực tế…
 Lời giới thiệu hấp dẫn: Những lời giới thiệu đầu tiên, hấp dẫn có ý nghĩa quyết
định đối với chất lượng giờ học bởi kí ức của một sự kiện được lưu giữ trong cùng
nơi ban đầu đã được huy động để lĩnh hội sự kiện học hỏi. Não càng huy động
nhiều cấu trúc phức tạp càng tạo ra nhiều căn cứ trong thời điểm học hỏi thì việc
truy cập thông tin càng dễ dàng hơn.
 Môi trường quen thuộc: Người học cải thiện cơ hội ghi nhớ thông tin nếu môi
trường mà họ đã cập nhất thông tin đó lúc đầu được tái tạo. Trong giáo dục và dạy
học, môi trường nhớ lại cần được tái lập để hỗ trợ môi trường mã hóa để cải thiện
việc lĩnh hội kiến thức.
1.6. Ứng dụng quy luật 6. Nhớ để nhắc lại
Cách thức để trí nhớ dài hạn trở nên bền vững hơn là dần dần hợp nhất thông tin
mới và nhắc lại nó trong những khoảng thời gian nhất định. Dựa trên lí thuyết này tác
giả đề xuất mô hình lớp học tương lai, trong đó các bài học sẽ chia thành những đơn vị
dài 25 phút lặp lại theo chu kì xuyên suốt một ngày. Ví dụ, môn học A được dạy trong
25 phút, tạo nên sự tiếp xúc đầu tiên, 90 phút sau, nội dung dài 25 phút của môn A
được nhắc lại và sau đó là lần nhắc lại thứ 3. Mỗi buổi học được chia ra và được xen
vào nhau theo cách đó. Tiếp đó, cứ mỗi ngày thứ 3 hoặc thứ 4 sẽ quay vòng lại để ôn
tập những nội dung được truyền đạt trong vòng 72 hoặc 96 giờ trước đó. Trong suốt
thời gian ôn tập, thông tin sẽ được trình bày một cách cô đọng. SV sẽ có cơ hội kiểm
tra lại việc ghi chép của họ trong những lần tiếp xúc đầu tiên với thông tin đó, so sánh
chúng với những điều GV nói tới trong bài ôn tập. Điều này khiến việc thu nhận thông
tin sẽ chi tiết và tỉ mỉ hơn. Nối tiếp quá trình này các bài ôn tập tích hợp sẽ được thực
hiện sau sáu tháng hoặc một năm dựa trên toàn bộ sự kiện đã diễn ra trong năm học, kì
học.
1.7. Ứng dụng quy luật 7. Ngủ tốt, suy nghĩ tốt



Nghiên cứu về não chỉ ra rằng: Mất ngủ làm tổn thương sự chú ý, chức năng
thực thi, trí nhớ làm việc, tâm trạng, kĩ năng định hướng và thậm chí sự khéo léo về
vận động. Một nghiên cứu khác khẳng định: HS thường chuyển qua tập tính thức
khuya khi chúng chuyển qua tuổi vị thành niên. Trong thực tế giáo dục, SV thường có
tập tính thức khuya và cũng không loại trừ cả GV. Giải pháp cho vấn đề nêu trên là các
trường học nên bắt đầu giờ vào lớp muộn hơn có thể là 9 giờ sáng như một vài trường
đã thực hiện. Trường học nên khuyến khích và tạo không gian cho giấc ngủ trưa cho
GV và HS, SV…
1.8. Ứng dụng quy luật 8. Những bộ não bị căng thẳng học tập không giống nhau
Căng thẳng về cảm xúc có ảnh hưởng to lớn đến khả năng học tập ở trường của
HS. Những bộ não bị căng thẳng học tập khác với những bộ não không bị căng thẳng.
Những kết luận này thúc đẩy các GV thay đổi cách thức giáo dục và dạy học.
1.9. Ứng dụng quy luật 9. Kích thích nhiều giác quan
Quy luật này đề cập đến các 5 nguyên tắc của trình diễn đa phương tiện ảnh
hưởng đến khả năng học tập của con người:
1. Nguyên tắc đa phương tiện: SV học tập qua từ ngữ và hình ảnh tốt hơn là chỉ
qua từ ngữ
2. Nguyên tắc liên tưởng tạm thời: SV học tốt hơn khi các từ ngữ với hình ảnh
tương ứng được trình bày đồng thời hơn là trình bày lần lượt.
3. Nguyên tắc liên tưởng không gian: SV học tốt hơn khi các từ ngữ với hình
ảnh tương ứng được trình bày gần nhau hơn là cách xa nhau trên một trang giấy hay là
trên màn hình.
4. Nguyên tắc gắn kết: SV học tập tốt hơn khi các thông tin ngoài lề không được
đề cập đến.
5. Nguyên tắc phương thức: SV học từ hình động có lời dẫn dắt tốt hơn là hình
ảnh động với văn bản trên màn hình.
Học tập đa giác quan được thừa nhận là cải thiện đáng kể chất lượng học tập.
Chúng tăng tốc các phản ứng, tăng cường độ chính xác, cải thiện phát hiện kích thích

và làm giàu khả năng mã hóa trong thời điểm học tập. Ý tưởng là: Ở thời điểm mở đầu
bài giảng, những gì được trình bày có tính đa giác quan, sự ghi nhớ tổng thể sẽ gia
tăng. Bên cạnh đó, trí nhớ lặp lại thông tin trong các khoảng thời gian xác định giúp
củng cố trí nhớ. Vì thế chúng ta cần giới thiệu thông tin trong một trải nghiệm đa giác
quan và sau đó nhắc lại không chỉ thông tin đó mà còn là các kiểu trình bày. Có thể là,
mở đầu được trình bày bằng thị giác, tiếp đó là thính giác, thứ ba là diễn đạt bằng ngôn
ngữ cơ thể.
1.10. Ứng dụng quy luật 10. Thị giác là quân bài chủ trong tất cả các giác quan
Chúng ta học tập và ghi nhớ tốt nhất thông qua hình ảnh chứ không phải thông
qua ngôn ngữ viết và nói. Kết luận này giúp tác giả đưa ra một số gợi ý cho GV tham


khảo. GV nên nghiên cứu lí do tại sao các bức tranh thu hút được sự chú ý của người
học. Không chỉ bởi màu sắc, kích thước, sự định hướng mà quan trọng hơn là sự
chuyển động; GV nên sử dụng hoạt hình trên máy tính bởi hoạt hình giữ vai trò quan
trọng về cả màu sắc, vị trí và quan trọng hơn là sự vận động; GV nên giao tiếp bằng
tranh ảnh nhiều hơn là từ ngữ vì tranh ảnh có cơ chế cấp phát thông tin hiệu quả hơn
chữ, hơn thế HS chỉ cần một sự nỗ lực trí tuệ vừa phải là có thể hiểu được nội dung của
bức tranh. Hãy thiết kế bài giảng bằng các phần mền trình chiếu.
1.11. Ứng dụng quy luật 11. Bộ não của đàn ông và phụ nữ khác nhau
Giới tính ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo dục và dạy học. HS nam và
HS nữ trong một lớp có sự khác nhau về năng lực nhận thức và kiểu trí tuệ. Việc xây
dựng những lớp học có sự kết hợp cả hai giới được chứng minh là hiệu quả trong nhiều
nghiên cứu. Tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề khó khăn đối với GV trong việc
nắm bắt đặc điểm tâm sinh lí của từng giới.
1.12. Ứng dụng quy luật 12. Chúng ta luôn là những nhà thám hiểm mạnh mẽ và
tự nhiên
Một số phần trong não người trưởng thành dễ uốn nắn như não của trẻ nhỏ, vì
vậy chúng ta có thể tạo ra các nơ-ron và học những điều mới mẻ trong suốt cuộc đời
của chúng ta. Để tạo ra những giá trị mới, dạy học cần phải hỗ trợ để người học phát

triển khuynh hướng khám phá tự nhiên của họ bằng cách sử dụng những mô hình học
tập “dựa trên vấn đề” và “dựa trên phát minh”. Tác giả đã phân tích mô hình trường y
để chứng minh cho nhận định trên. Một trường y lí tưởng gồm 3 thành phần: Một bệnh
viện giảng dạy, một đội ngũ cán bộ làm việc tại các bệnh viện cũng như giảng dạy trên
giảng đường, và các phòng thí nghiệm nghiên cứu. Mô hình này ưu việt ở chỗ: SV luôn
được tiếp xúc với thực tế. Sự kết hợp học tập bằng sách truyền thống với bệnh viện
giảng dạy giúp họ có tầm nhìn khoáng đạt về những gì họ đang thực hiện trong khi họ
đang trải nghiệm nó. Thứ hai, SV luôn tiếp xúc với người làm việc thực tế là những
người làm công việc mà họ giảng dạy như một nghề chính. Thứ ba, SV luôn tiếp xúc
với chương trình nghiên cứu thực nghiệm. Nhờ việc đặt nhu cầu từ thực tế bên cạnh
việc học bằng sách truyền thống các chương trình nghiên cứu lần lượt ra đời.
2. Cách thức vận dụng luật trí não trong dạy học – Những ví dụ cụ thể
2.1. Lựa chọn mô hình, phương pháp dạy học, quản lí lớp học
Dưới đây giới thiệu một vài mô hình, PP dạy học được đánh giá cao trong việc
phát triển năng lực cho HS, SV. Đây đều là những PP đề cao hoạt động trải nghiệm
sáng tạo được đề cập trong quy luật số 12.
- Mô hình Lớp học đảo ngược [5]: Thay vì đến lớp nghe giảng bài, rồi về nhà
làm bài tập, ở lớp học đảo ngược học trò sẽ chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự định
hướng của thầy cô và làm bài tập về nhà. Khi đến lớp, các em được tổ chức nhiều hoạt
động để tương tác và chia sẻ lẫn nhau. Cách học này đòi hỏi HS phải dùng nhiều đến


hoạt động trí não nên được gọi là “High thinking". PP này không cho phép HS ngồi
nghe thụ động nên giảm được sự nhàm chán.
- Mô hình STEM (Science Technology, Engineering, Math) [6]. Giáo dục
STEM về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần
thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Các kiến
thức và kỹ năng này gọi là kỹ năng STEM phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho
nhau giúp HS không chỉ hiểu biết về nguyên lý mà còn có thể áp dụng để thực hành và
tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục STEM vận dụng PP

học tập chủ yếu dựa trên thực hành và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Các PP giáo
dục tiến bộ, linh hoạt nhất như học qua dự án – chủ đề, học qua trò chơi và đặc biệt PP
học qua hành luôn được áp dụng triệt để cho các môn học tích hợp STEM.
- Phương pháp dạy học dự án [7] có những ưu điểm nổi trội sau: Gắn lý thuyết
và thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội; kích thích động cơ và hứng
thú cho người học; phát huy tính tự lực và tính trách nhiệm; phát triển khả năng sáng
tạo; rèn luyện khả năng giải quyết những vấn đề phức hợp; rèn luyện tính bền bỉ và
kiên nhẫn; rèn luyện năng lực cộng tác làm việc; rèn luyện năng lực đánh giá. Đặc biệt,
ưu điểm nổi bật nhất của DHDA là tập trung vào một câu hỏi lớn hoặc một vấn đề
quan trọng có thể có nhiều quan điểm liên quan tới nhiều bộ môn khác nhau.
- Vận dụng PP vi mô trong đào tạo GV. PP này tạo cơ hội cho SV phát triển
những năng lực sư phạm cần thiết thông qua những lớp học vi mô – lớp học được chia
nhỏ và mô phỏng điều kiện dạy học thực tế. Việc rèn luyện kĩ năng được cá thể hóa với
cơ chế thực hành – phát lại – chỉnh sửa dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của GV.
- Tổ chức và quản lí lớp học: Lớp học nên có quy mô nhỏ từ 25 đến 30 HS/SV
để có thể thực hiện được dạy học cá nhân hóa. Trong thực tế, ở nước ta, các lớp học
thường có quy mô lớn 40 đến 50 HS, ở các giảng đường đại học có thể lơn tới cả trăm
SV. Tuy nhiên không có nghĩa là không có giải pháp trong trường hợp này, có thể tham
khảo một số cách thức sau:
Tổ chức học tập theo nhóm nhỏ: Mỗi môn học, mỗi khóa học GV nên xây
dựng những nhóm học tập cố định từ 4 – 5 SV. Việc tạo ra những nhóm học tập này
cần được khảo sát kĩ lưỡng nhằm đảm bảo đồng đều về năng lực giữa các nhóm để các
em có thể hỗ trợ nhau trong học tập. Sau đó đưa ra nhiều nhiệm vụ học tập nhóm và
kiểm soát sự cộng tác làm việc của các em. Trong các buổi học, nhóm tập tạm thời
cũng nên được tạo ra bằng nhiều kĩ thuật chia nhóm đa dạng, mục đích là để SV có khả
năng thích nghi với những nhóm học tập khác nhau. Các công cụ quản lí học tập trực
tuyến cần được áp dụng một cách tối đa để hỗ trợ quá trình này. Như vậy, quản lí 10
nhóm vẫn sẽ dễ dàng hơn là 50 SV bởi trong các nhóm các em sẽ tự hỗ trợ lẫn nhau.
Phát huy thế mạnh ở mỗi SV và hỗ trợ những SV gặp khó khăn: Trong một
tập thể lớp mỗi SV có những thế mạnh riêng và GV phải là người nhận ra điều đó. Phát

hiện thôi chưa đủ, chúng ta phải có những động thái để biến thế mạnh đó thành sức


mạnh và giúp SV thành công. Nhận ra những SV gặp trở ngại trong học tập khó hơn
phát hiện SV có thế mạnh. GV cần phải tạo nhiều hơn các cơ hội cho họ so với các bạn
khác trong lớp thì sự tiến bộ sẽ thể hiện một cách rõ rệt.
2.2. Thiết kế bài giảng và tiến trình lên lớp
Vận dụng quy luật đa giác quan, quy luật thị giác để thiết kế các bài giảng theo
định hướng phát triển năng lực đa trí tuệ của HS trong lớp học. Bảng dưới đây tóm tắt
các dạng trí tuệ ở HS và các phương tiện hỗ trợ để phát triển các năng lực đó trong quá
trình dạy học.
Năng lực trí tuệ
Ngôn ngữ
Logic – toán học
Không gian

Suy nghĩ…
Bằng lời
Bằng lí luận
Bằng hình ảnh, tranh vẽ

Hình thể - Động năng

Bằng cảm xúc, vận động

Âm nhạc

Thông qua nhịp điệu và âm
thanh
Bằng cách trach đổi ý tưởng

với người khác
Thông qua sự quan tâm tới nhu
cầu, tình cảm, mục tiêu của
bản thân
Thông qua thiên nhiên, bằng
hình tượng thiên nhiên

Giao tiếp
Nội tâm

Tự nhiên học

Phương tiện
Sách, băng ghi âm, thảo luận, tranh luận…
Trang thiết bị thí nghiệm, tham quan
Video, phim ảnh, các trò chơi đòi hỏi trí tưởng tượng, tài
liệu có hình minh họa
Các trò chơi hình thể, đóng vai, học trực tiếp qua mẫu
vật, mô hình…
Bài hát, giải lao bằng ca nhạc, chơi nhạc
Các trò chơi tập thể, thảo luận
Các công việc làm một mình, các lựa chọn độc lập
Tiếp cận thiên nhiên, tương tác với động vật, các
phương tiện để nghiên cứu thiên nhiên

Bảng 1. Mô tả các dạng trí tuệ của học sinh [2]
Thiết kế bài giảng sử dụng các phần mềm đa phương tiện như Microsoft Office
Powerpoint, Prezi kết hợp trong đó là tranh ảnh, âm thanh, video, sơ đồ, đồ thị, số
liệu…Giảm thiểu tối đa kênh chữ thay vào đó là sự dẫn dắt bằng ngôn ngữ của GV.
PP“vẽ bằng lời” kết hợp “ngôn ngữ cơ thể” sẽ tạo nên những bài giảng thu hút HS và

mang lại hiệu quả cao về mặt nhận thức.
Kết hợp 5 nguyên tắc của quy luật 9 thông qua một ví dụ cụ thể sau: Khi dạy về
sự phát triển vượt bật của Trung Quốc sau đổi mới GV mở đầu bài học bằng một câu
chuyện hình ảnh kể bằng 4 bức tranh đường phố Trung Quốc. GV cho các bức hình
xuất hiện lần lượt trên slide kết hợp với vài câu giới thiệu về nó, Đường phố Bắc kinh
năm 1949, 1965, 1985 và 2010 gắn với các mốc quan trọng trong quá trình phát triển
của Trung Quốc, slide cuối cùng 4 bức hình được đặt cùng nhau với một câu hỏi được
đặt ra: “Sự thay đổi trong bốn bức hình phản ánh điều gì?”. Trong ví dụ này nguyên tắc
đa phương tiện thể hiện ở việc sử dụng tranh ảnh; nguyên tắc liên tưởng tạm thời và
liên tưởng không gian ở chỗ các bức hình được đặt song song trên một slide; nguyên
tắc phương thức thể hiện ở lời dẫn dắt.
Tiến trình lên lớp truyền thống hiện nay vẫn được áp đã bộc lộ nhiều hạn chế và
nếu vận dụng các quy luật của trí não để phân tích thì có nhiều điểm không còn hợp lí.


- Việc kiểm tra bài cũ tạo ra sự căng thẳng không cần thiết cho HS trước khi bắt
đầu bài học, vì thế vô hình trung giảm đi sự hứng thú và tâm thế sẵn sàng tiếp thu kiến
thức mới.
- Dạy bài mới với các hoạt động liên tiếp nhau để chuyển tải hết nội dung kiến
thức sách giáo khoa khiến việc học trở nên căng thẳng. HS bắt đầu mất tập trung, sao
nhãng ở những hoạt động cuối và những tiết học cuối.
- Củng cố bài học, thường thì rất ít GV thực hiện vì không có đủ thời gian, có
nữa cũng chỉ là sự hệ thống một cách nhanh nhất những gì đã học trong bài. Điều này
không thể thu hút được sự tập trung, chú ý của HS khi tiết học kết thúc.
Để khắc phục được những hạn chế trên, tiến trình lên lớp cần được cải tiến dựa
trên các quy luật của trí não gồm: Luyện tập, sự chăm chú, trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài
hạn, sự căng thẳng. Tiến trình lên lớp cải tiến được đề xuất gồm các bước sau:

Hình 1. Các bước của tiến trình lên lớp
Bước 1. Vận động thể chất

Tổ chức cho HS, SV chơi các trò chơi vận động trong phòng học hoặc bền
ngoài. Những trò chơi này có rất nhiều trong các cuốn cẩm nang tổ chức các hoạt động
đoàn thể, chúng không những vui nhộn mà còn giúp SV vận động chân tay và đầu óc
để chuẩn bị cho việc học. Một thực tế hiện này, HS, SV của chúng ta thức rất khuya vì
khối lượng bài tập về nhà và công việc học thêm cũng như thói quen của các em. Vì
thế nhất thiết phải có hoạt động này vào đầu mỗi giờ học để lấy lại sự tỉnh táo và tập
trung.
Bước 2. Khởi động bài học
Thay vì kiểm tra bài cũ là một hoạt động khởi động với những tiêu chí sau: Tái
hiện kiến thức đã học, kết nối được với kiến thức mới, thu hút sự chú ý của HS, vui
nhộn, và kích thích đa giác quan. Các hình thức khởi động bài học khá đa dạng, dưới
đây là một số cách thức:
- Khởi động bằng kĩ thuật động não
- Khởi động bằng PP đóng vai
- Khởi động bằng phương tiện trực quan
- Khởi động bằng trò chơi
- Khởi động bằng câu chuyện


- Khởi động bằng tình huống
- Khởi động bằng cách gây chấn động
Ví dụ về mở đầu bài học với những hoạt động kích thích đa giác quan. Một
game học tập được thiết kế dưới dạng một trò chơi vận động, nội dung của game liên
quan đến việc ôn tập kiến thức bài trước và định hướng kiến thức mới gồm các câu hỏi
vừa mang tính hiểu biết vừa mang tính tư duy, các câu hỏi thể hiện đa dạng với nhiều
phương tiện khác nhau, HS phải cộng tác mới có thể chiến thắng và toàn bộ trò chơi
được đặt trên nền nhạc phù hợp. Các trò chơi như hiểu ý đồng đội, đuổi hình bắt chữ…
Bước 3. Cung cấp cấu trúc bài học
Trước khi bắt đầu bài học GV sẽ cung cấp dàn ý chi tiết cho HS bằng sơ đồ
hoặc sơ đồ tư duy. Dàn ý này được viết cố định trên bảng và sau mỗi đơn vị kiến thức

kết thúc GV đều đánh dấu lên sơ đồ để HS tiện theo dõi tiến trình buổi học. Về hình
thức cũng giống với cách ghi bảng trong lớp học hiện nay tuy nhiên ghi bảng dàn trải
có nhiều nội dung sẽ không tồn tại xuyên suốt tiến trình giảng bài.
Bước 4. Các hoạt động học tập
Giờ học được chia thành nhiều hoạt động nối tiếp nhau và không quá 3 hoạt
động trong một tiết học. Mỗi hoạt động được cấu trúc gồm: Mục tiêu, nội dung,
phương pháp, kĩ thuật, hình thức tổ chức dạy học, phương tiện dạy học, thời gian. Mỗi
hoạt động chuyển tải một đơn vị kiến thức dưới dạng các bài tập nhận thức đa dạng.
HS dưới sự hướng dẫn của GV sẽ giải các bài tập để tự phát hiện ra kiến thức. Sau mỗi
hoạt động cần có sự nối tiếp để chuyển sang hoạt động khác và đảm bảm rằng nó thu
hút HS.
Bước 5. Củng cố và đánh giá
Việc củng cố kiến thức không chỉ thực hiện khi kết thúc mà tiến hành trong suốt
tiến trình bài học. Hoạt động mở đầu cũng nên nhắc lại kiến thức trước đó, giữa các
hoạt động học tập tương ứng các đơn vị kiến thức việc “nhắc lại” cũng rất cần thiết sẽ
tạo cho bài giảng có những “điểm dừng” hợp lí. Kết thúc bài học, hoạt động củng cố sẽ
khái quát hơn và đánh dấu những điểm cốt lõi của mỗi bài. Có nhiều cách thức để củng
cố bài học, có thể là một trò chơi, sử dụng sơ đồ tư duy, tự củng cố, bài tập củng cố…
Ví dụ, tiến trình tổ chức bài học: Các phương pháp và kĩ thuật sử dụng số liệu
thống kê trong dạy học Địa lí (Học phần: Phương pháp sử dụng phương tiện dạy học
Địa lí)
Bước
1. Vận động

Nội dung
Phương pháp/ kĩ thuật
Trò chơi
“Tôi bảo tôi bảo – Bảo gì bảo gì”
GV chia lớp thành 2 đội. Mỗi lần GV hô “Tôi
bảo tôi bảo” lớp sẽ đồng thanh hô “Bảo gì bảo

gì” và một món đồ vật sẽ được yêu cầu mang
đến cho GV, nhóm nào nhanh nhất sẽ được
cộng điểm, sau đó chọn ra đôi chiến thắng


2. Khởi động

Hãy nêu một vai trò bất kì của số liệu thống kê Kĩ thuật tia chớp
trong dạy học Địa lí
3. Cung cấp cấu
Sơ đồ hóa
trúc bài học

4. Hoạt động học HĐ 1. Tác dụng của số liệu thống kê
tập

HĐ 2. Các kĩ thuật ấn tượng hóa số liệu
Giải trí: Gắn số liệu lên bản đồ
HĐ 3. Hướng dẫn học sinh khai thác số liệu
5. Củng cố, đánh - Quay lại với sơ đầu cấu trúc bài học
giá
- Trắc nghiệm củng cố

- Kĩ thuật khăn phủ bàn và
phương pháp đàm thoại/ Nhóm
4 sinh viên
- Bài tập thực hành nhóm 8 SV
- Bài tập thực hành nhóm 8 SV,
thiết kế và trình bày trên giấy A0
Trò chơi với bản đồ/ nhóm

- Bài tập, nhóm 2 SV
Trò chơi online với công cụ
Kahoot.it/ Nhóm

Bảng 2. Quy trình tổ chức một bài học – ví dụ minh họa
2.3. Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh
Thái độ giữa người dạy và người học quyết định đến chất lượng giảng dạy và
học tập. Việc tạo ra những “căng thẳng” không cần thiết trong quá trình học tập có thể
ảnh hưởng tiêu cực đến nỗ lực thay đổi các thành phần khác của quá trình này. Có
nhiều nguồn phát sinh “căng thẳng” trong mối quan hệ dạy học như:
 Áp lực về điểm số, thành tích học tập, áp lực của việc hoàn thành bài tập, nhiệm
vụ học tập
 Sự đồng nhất về năng lực, khả năng nhận thức của các HS, SV trong một tập thể
lớp dẫn đến các SV có năng lực kém hơn sẽ luôn cảm thấy bị thua thiệt khi mà
các em không nhận được sự hỗ trợ từ phía GV và các bạn khác.
 Sự hạn chế trong việc nắm bắt tâm lí người học và những quyết định thiếu tế
nhị, thiếu cảm thông trong các tình huống sư phạm xảy ra xung quanh việc học.
 Khoảng cách được tạo ra giữa người dạy và người học quá lớn khiến học trò ít
khi bày tỏ quan điểm hay suy nghĩ trước GV.
Như đã trình bày ở trên sự căng thẳng về cảm xúc có ảnh hưởng to lớn đến khả
năng học tập ở trường của HS. Chính vì thế, GV cần cải thiện mối quan hệ với
người học để loại bỏ yếu tố không cần thiết này. Những giải pháp sau đây được
trích từ cuốn Những phẩm chất của người GV hiệu quả của James H. Stronge như
là một gợi ý cho những thay đổi theo chiều hướng tích cực.
















GIÁO VIÊN CŨNG LÀ MỘT CON NGƯỜI
Các phẩm chất tích cực

Thể hiện thái độ tôn trọng với HS, kể cả những
Chịu trách nhiệm về lớp học và thành công của HS
tình huống phức tạp
Dùng những kinh nghiệm cá nhân để đưa ra những ví dụ có 
Thể hiện các kì vọng vào HS một cách nhất quán
thật trong giảng dạy

Trao đổi riêng với từng HS
Hiểu được cảm xúc của HS

Đối xử với HS một cách công bằng và bình đẳng
Thừa nhận lỗi và sử ngay lập tức

Có những cuộc trao đổi thiện chí và giao lưu với
Thể hiện khiếu hài hước
HS ngoài lớp học
Ăn mặc phù hợp


Đầu tư thời gian cho các cá nhân HS hoặc những
nhóm nhỏ HS ngoài lớp học
Duy trì lòng tin và sự tôn trọng của HS

Duy trì phong thái chuyên nghiệp mọi lúc, mọi nơi
Có tổ chức nhưng vẫn linh hoạt và không gò bó

Gọi HS bằng tên
Luôn phản ứng với các tình huống và nhu cầu của HS

Nói với giọng điệu và âm lượng phù hợp
Yêu thích việc dạy và kì vọng HS cũng yêu thích việc học
Chủ động làm việc với HS
Tìm ra các giải pháp ôn hòa cho các tình huống chứa mâu 
thuẫn

Hướng dẫn thêm cho HS trước và sau giờ học
Lắng nghe các câu hỏi, câu bình luận và các mối quan tâm của
HS một cách chăm chú

Bảng 3. Giáo viên cũng là một con người – Những phẩm chất tích cực
2.4. Mô hình trường thực tập cho sinh viên sư phạm
Hiện nay, đa phần các trường sư phạm áp dụng 2 đợt thực hành nghề nghiệp, tên
gọi có thể khác nhau nhưng về cơ bản nội dung là thống nhất. Đợt 1 áp dụng cho
những SV năm thứ 3 (kiến tập, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, thực tập 1…) trọng tâm
là công tác chủ nhiệm. Đợt 2 dành cho SV năm 4 gọi chung là thực tập sư phạm, thời
gian kéo dài hơn và tập trung cho công tác giảng dạy. Ở trường Đại học Sư phạm Tp.
HCM áp dụng mô hình thực tập như sau:
Đợt/ tên gọi
1. Rèn luyện nghiệp vụ sư

phạm
2. Thực tập sư phạm

Thời gian/ thời điểm
13 tuần, kì 2 năm thứ
3
9 tuần, kì 2 năm thứ 4

Trọng tâm
Công tác chủ nhiệm
Công tác giảng dạy

Hình thức
SV vừa học vừa xuống trường phổ
thông
SV đã kết thúc các học phân và chỉ
thực tập tại các trường phổ thông

Bảng 4. Hình thức RLNVSP và TTSP của trường Đại học Sư phạm Tp HCM
Mô hình này được áp dụng trong hình thức đào tạo theo quy chế tín chỉ. Về hình
thức có nhiều nét tương đồng với mô hình trường y. Tuy nhiên đối với thực tế đào tạo
GV lại bộc lộ khá nhiều hạn chế. Nhiều năm đảm nhận công tác tổng kết rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm tại khoa Địa lí chúng tôi nhận thấy một số hạn chế sau:
- SV gặp khó khăn trong việc sắp xếp thời gian giữa việc học và việc thực tập
bởi trong thực tế trường đại học và trường phổ thông hoạt động theo những thời gian
biểu hoàn toàn khác nhau. Hệ quả, SV chịu áp lực từ cả hai phía dẫn đến kết quả học
tập và kết quả thực tập không như mong muốn.
- Chương trình học chưa ăn khớp với nội dung thực tập. Cụ thể là, các môn về
PP dạy học phổ thông thường đến năm thứ 4 SV mới được tiếp cận nhưng ngày kì rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm các em đã phải giảng dạy và đánh giá theo chuẩn của Thực

tập sư phạm. Điều này khiến rất nhiều SV gặp khó khăn.


- Tiếp cận các trường phổ thông có điều kiện dạy học không giống nhau nhất là
những trường mà có năng lực học tập của HS, đội ngũ GV, cơ sở vật chất hạn chế…SV
không những không áp dụng được những gì các em được học mà còn gây ra phản tác
dụng khi họ mất cảm hứng và động lực với nghề nghiệp. Thực tế đã có nhiều SV rất tốt
tuy nhiên sau kì rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tinh thần học tập và kết quả có phần
giảm sút.
- Đội ngũ GV hướng dẫn tại các trường phổ thông không phải là những người
thực sự được tuyển chọn. Chủ nghĩa kinh nghiệm và quan điểm cá nhân là lực cản vô
cùng lớn cho việc vận dụng PP mới của SV.
SV sư phạm cũng rất cần thiết được tiếp xúc với môi trường thực tế trong quá
trình học tập. Tuy nhiên, việc tiếp cận phải làm sao mang lại hiệu quả đó là việc mà các
trường sư phạm phải tiến hành cải cách. Có thể tham khảo mô hình trường y mà Johm
Medina đề cập trong quy luật số 12: Xây dựng hệ thống trường phổ thông chất lượng
cao làm trường vệ tinh cho các đại học sư phạm đồng thời với việc phát triển đội ngũ
GV hướng dẫn chuyên nghiệp. SV ở các khoa sư phạm sẽ làm việc trực tiếp với những
GV và những trường mà họ được giới thiệu trong suốt quá trình họ học tại đại học chứ
không chỉ là một vài đợt thực tập như bây giờ. Như vậy SV sẽ có cơ hội được tiếp cận
sớm hơn với môi trường công việc sau này và có cơ hội điều chỉnh việc học và động cơ
nghề nghiệp. Bên cạnh đó hình thức này tạo ra cơ hội để SV có thể tìm kiếm cơ hội việc
làm ngay tại trường các em tham gia thực hành.
III. Kết luận
Trên cơ sở vận dụng lí thuyết của Luật trí não và những ứng dụng trong dạy học
và giáo dục, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy, cho phép tác giả đưa ra một số kết
luận sau: 1) Kiến thức về não và vận dụng trí não cần thiết cho cả người dạy lẫn người
học để có khả năng tư duy hiệu quả. 2) GV phải được trang bị để có khả năng nắm bắt
các quy luật tư duy, nhận thức của HS bởi điều này quyết định đến việc cải tiến PP và
chất lượng dạy học. 3) Các mô hình, PP dạy học đề cao yếu tố trải nghiệm – sáng tạo,

hướng đến phát triển năng lực người học thể hiện rất rõ các quy luật này.

1)
2)
3)
4)
5)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà
Nội
Thomas Armstrong (2011), Đa trí tuệ trong lớp học, Nhà xuất bản Giáo Dục
Việt Nam
James H. Stronge (2013), Những phẩm chất của người GV hiệu quả, Nhà xuất
bản Giáo Dục Việt Nam
John Medina (2015), Luật trí não, Nhà xuất bản Thế Giới
/>

6) />7) />


×