Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Xây dựng mô hình thư viện trường học phát huy văn hóa đọc và giáo dục ở trường THPT.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 49 trang )

BCH ĐOÀN TỈNH BẮC GIANG

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH

Bắc Giang, ngày 28 tháng 9 năm 2016

HỒ SƠ XÉT CHỌN CHƯƠNG TRÌNH
" TRI THỨC TRẺ VÌ GIÁO DỤC" GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
Kính gửi : Ban tổ chức chương trình "Tri thức trẻ vì giáo dục"
giai đoạn 2016 - 2020
Thực hiện kế hoạch số 475 KH/TW ĐTN - TNTH ngày 28 tháng 4 năm 2016 của BCH
Trung ương Đoàn về việc "Tổ chức chương trình Tri thức trẻ với giáo dục 2016 - 2020" ban
thường vụ Tỉnh đoàn Bắc Giang triển khai kế hoạch tổ chức chương trình "Tri thức trẻ với
giáo dục" giai đoạn 2016 - 2020 cụ thể như sau
A. LÍ LỊCH TRÍCH NGANG
STT

TÊN TÁC GIẢ

NĂM SINH

SĐT

CHỨC VỤ

1

Trần Thị Thanh Huyền

05.9.1983


Bí thư ĐTN

0982558076

2

Lê Thị Thu Thủy

02.6.1986

Giáo viên

0982036988

B. NỘI DUNG CÔNG TRÌNH
1. Tên công trình sáng kiến:
XÂY DỰNG MÔ HÌNH THƯ VIỆN TRƯỜNG HỌC PHÁT HUY VĂN HÓA
ĐỌC VÀ GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THPT
2. Lĩnh vực dự thi: Công trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học giáo dục

-1-


I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay với sự bùng nổ mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã tác động không
nhỏ tới giới trẻ. Tích cực cũng nhiều mà tiêu cực cũng không ít. Một trong những vấn
đề đó nổi lên là văn hóa đọc sách của giới trẻ hiện nay- Vấn đề đáng để chúng ta cùng
suy nghĩ.
Đã từ lâu, sách luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta. Sách luôn là kho tàng huyền bí làm kích thích sự tò mò của

biết bao người. Sách càng bí ẩn bao nhiêu thì càng gợi sự say mê của con người bấy
nhiêu. Nếu chúng ta không thể sống thiếu bạn thì ta cũng không thể sống thiếu sách
được. Sách là chiếc chìa khóa vạn năng mở mang sự hiểu biết và làm đẹp cuộc đời.
Nhà văn Maxim Gorki nói “Sách mở rộng ra trước mắt tôi những chân trời mới”.
Vâng, sách có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đọc sách là việc từ xa xưa
được xem là một việc hết sức thanh tao, người đọc là người có phẩm chất cao quý.
Một thực tế của xã hội hiện nay đó là sự bùng nổ khoa học công nghệ, con người
trở nên “lười” hơn bởi những công cụ hiện đại. Việc đọc sách cũng vậy, đọc sách
online, sách điện tử (e-book), báo điện tử (e-journal), chính phủ điện tử (egovernment), học trực tuyến (e-learning), v.v… đang trở nên phổ biến hơn, mua sách
lậu, giá rẻ, nhanh chóng,
dễ dàng hơn so với việc đến thư viện và tìm kiếm thủ công, mất thời gian và công sức,
có nhiều lúc không thỏa mãn yêu cầu của mình. Do vậy, người ta lo ngại nhiều vấn đề
sẽ dẫn đến văn hóa đọc bị “xuống cấp”, bị “lấn át” và đang dần bị mai một hay “đọc”
sẽ vẫn thắng “xem”, văn hóa đọc không bao giờ triệt tiêu?
Thời gian gần đây báo chí hay đề cập đến thuật ngữ “văn hóa đọc” và thống kê
những con số đáng buồn: người Việt Nam đọc chưa đến 1 cuốn sách/năm; trẻ em nông
thôn đọc được rất ít sách so với trẻ em thành phố; hệ thống thư viện trong các nhà
trường gần như không thu hút được học sinh; trong khi thuật ngữ “văn hóa đọc” không
phải ai cũng hiểu được nó, ngay từ việc chọn lọc, đọc sách thế nào?
Thực tiễn cũng đã nêu rõ, học sinh đọc càng ít thì càng ít vốn sống, thiếu kĩ năng
sống, sống thiếu lí tưởng, ước mơ, đạo đức từ đó mà bị ảnh hưởng theo.

-2-


Nói đến sách chúng ta phải nói đến thư viện, thư viện trường học là nơi lưu giữ
sách, tài liệu, là nơi bạn đọc đến để mượn sách, tìm kiếm thông tin, đáp ứng moị nhu
cầu đọc của bạn đọc.
Tuy nhiên tại các trường THPT hiện nay, có thể nhận thấy tỉ lệ các em học sinh
vào thư viện đọc sách hay mượn sách đề rất ít.

Chính bởi những lý do đó, trên vai trò trong BCH đoàn trường tôi đã rất trăn trở
để làm thế nào cho các đoàn viên thanh niên hiểu được tầm quan trọng của văn hóa đọc
đối với mỗi bản thân các em và sự phát triển của cộng đồng để khuyến khích các em
tiếp cận với nguồn tri thức vô giá này, để các em thấy được vai trò và tầm quan trọng
của văn hóa đọc, làm thế nào để thư viện thực sự là địa điểm hấp dẫn và có sức hút đến
các em; vì vậy chúng tôi đã đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường phát triển mô hình
thư viện sách Nguyễn Tất Thành và lựa chọn đề tài "Xây dựng mô hình thư viện
trường học phát huy văn hóa đọc và giáo dục ở trường THPT" làm sáng kiến kinh
nghiệm của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Xây dựng hệ thống lý luận về văn hóa đọc và vai trò của thư viện trường học
trong đổi mới giáo dục ở trường THPT.
- Đánh giá được thực trạng văn hóa đọc và hoạt động của thư viện trong trường
Trung học phổ thông hiện nay.
- Từ đó, góp phần hình thành văn hóa đọc trong học sinh, xây dựng thư viện thân
thiện, học sinh tích cực.
Đề tài có thể nhân rộng trong các nhà trường kể cả các trường trên địa bàn các
huyện vùng sâu, vùng xa.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Xây dựng hệ thống lý luận về văn hóa đọc và vai trò của thư viện trường học
trong đổi mới giáo dục ở trường THPT.
- Phân tích thực trạng văn hóa đọc và hoạt động của thư viện trường học trong
trường THPT.
- Đưa ra được một số biện pháp để xây dựng mô hình thư viện phát huy văn hóa
đọc và giáo dục ở trường THPT.
-3-


IV. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Do điều kiện thời gian có hạn nên tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài

như sau:
1. Phạm vi nghiên cứu: Tại trường THPT Ngô Sĩ Liên (bước đầu tiến hành khảo
sát tại một số các trường trên địa bàn thành phố và miền núi).
2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5/2016 đến tháng 9/2016.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Đây là nhóm phương pháp nhằm mục đích thu thập thông tin liên quan đến đề tài
bằng cách đọc tài liệu, phân tích và tổng hợp các thông tin.
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn dựa vào vấn đề văn hóa đọc đang diễn ra trong
đời sống thực tiễn đưa ra những phương pháp liên quan đến thực tế cho học sinh giải
quyết và thu kết quả.
3. Phương pháp trắc nghiệm
Phương pháp này người nghiên cứu sử dụng phiếu trắc nghiệm phát cho học sinh
và thu về phân tích kết quả.
4. Phương pháp phỏng vấn
Giáo viên đặt câu hỏi trực tiếp cho học sinh về những vấn đề liên quan đến đề tài
và ghi lại ý kiến.
5. Phương pháp thống kê phân loại
Đây là phương pháp người nghiên cứu thu thập số liệu và thống kê phân tích để
phân loại được kết quả của các đối tượng học sinh tiếp thu bài học khi vận dụng
phương pháp nêu trên.
VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đã đánh giá được thực trạng văn hóa đọc và hoạt động của thư viện trong
trường Trung học phổ thông hiện nay.
Từ đó, góp phần hình thành văn hóa đọc trong học sinh, xây dựng thư viện thân
thiện, học sinh tích cực.

-4-



Đề tài có thể nhân rộng trong các nhà trường kể cả các trường trên địa bàn các
huyện vùng sâu, vùng xa.
VII. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Chương I: Cơ sở lý luận về văn hóa đọc và vai trò của thư viện trường học trong
đổi mới giáo dục ở trường THPT.
Chương II: Thực trạng văn hóa đọc và hoạt động của thư viện trường học trong
trường THPT.
Chương III: Một số biện pháp để xây dựng mô hình thư viện phát huy văn hóa
đọc và giáo dục ở trường THPT Ngô Sĩ Liên (Bắc Giang)

-5-


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA ĐỌC VÀ VAI TRÒ CỦA THƯ
VIỆN TRƯỜNG HỌC TRONG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Những vấn đề lý luận chung về văn hóa đọc
1.1.1. Khái niệm văn hóa đọc

Văn hóa đọc - một bộ phận của Văn hóa - là một trong những động lực thúc đẩy
sự hình thành nên con người mới, những công dân có hiểu biết, có trí tuệ để có thể
thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại - xã hội dựa trên nền tảng của nền kinh
tế tri thức..
Như vậy, để hiểu về văn hóa đọc trước hết cần làm rõ khái niệm về văn hóa. Đây
là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi
mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Theo Wikipedia định nghĩa “Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con
người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội
như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các
phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của

văn hóa”.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa:
“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử -văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.” Hay nói tổng quát: Văn hóa
là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần. Văn hóa
là tri thức, kiến thức khoa học. Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện
của văn minh. Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử
cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống
nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn.
Theo PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động

-6-


thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình [43, tr.2].
Như vậy, có thể định nghĩa Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo
ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại
tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa
được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các
kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị
vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Văn hóa được thể hiện hàng ngày, rất gần gũi với mọi người chúng ta như: văn
hóa dân tộc, văn hóa lễ hội, văn hóa đô thị, văn hóa lối sống, văn hóa giáo dục...

Nhưng nhìn chung tất cả các hiện tượng văn hóa đều thuộc về một trong bốn thành tố
sau: Văn hóa nhận thức, Văn hóa tổ chức cộng đồng, Văn hóa ứng xử với môi trường
tự nhiên và Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Do vậy, Văn hóa là yếu tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Từ khi chữ viết ra đời, con người bắt đầu có nhu cầu đọc chữ và sách, báo chính
là sản phẩm của công nghệ in ấn phát triển. Sách được đánh giá là nguồn lưu trữ tri
thức, văn hóa của một quốc gia, dân tộc với số lượng lớn, chính xác và dễ khai thác
nhất. Đồng thời, sách còn là cơ sở cho giao lưu văn hóa giữa các nền văn hóa. Vì vậy,
hoạt động đọc của con người ngày càng trở nên phổ biến hơn trong xã hội. Đọc không
còn chỉ là "để biết", để thừa nhận và tiếp nhận tri thức nhân loại mà là đọc để phát hiện,
để chứng minh chân lý. Khi đó, con người định hướng đến sách, đến các bộ sách, đến
các công trình lớn, đến các lý luận và học thuyết. Sự đọc này ngầm định sự giao tiếp và
tranh luận.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, con người được tiếp thu mọi
lĩnh vực tri thức thông tin qua truyền thanh, truyền hình và các phương tiện truyền
thông khác nhưng sách vẫn giữ vai trò vô cũng quan trọng đối với cuộc sống. Đọc sách
là một hoạt động có tính chất văn hóa của người đọc. Tuy nhiên, đọc sách gì và đọc
như thế nào cũng là một phương diện của văn hóa mà chúng ta vẫn gọi là Văn hóa đọc.
-7-


"Văn hóa đọc" là một khái niệm mới, chưa có định nghĩa cũng như khái niệm nào
nói văn hóa đọc là gì và nó như thế nào? Mặc dù vậy, theo thời gian cũng như sự phát
triển của xã hội, thuật ngữ “văn hóa đọc” ngày càng được nói nhiều hơn trên các
phương tiện thông tin đại chúng và trở thành đề tài khoa học.
Có nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa đọc:
Văn hoá đọc là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp:
+ Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân,
của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy,
văn hoá đọc ở nghĩa rộng là sự hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác hơn là ba lớp

như ba vòng tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau.
+ Ở nghĩa hẹp, đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử,
giá trị và chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ
năng đọc [33, tr. 1-2].
Theo ThS. Chu Vân Khánh, văn hóa đọc là một loại hình hoạt động văn hóa, bởi
lẽ: Đọc sách là tiêu thụ, quảng bá những giá trị văn hóa và các giá trị từ sách báo mà
người đọc tiếp nhận, đã được thực thao và làm nền tảng để tiếp tục sáng tạo nên những
giá trị mới. Vì vậy, có thể xem văn hóa đọc là một chỉ số văn hóa của một cộng đồng,
một xã hội.
ThS. Bùi Văn Vượng lại coi thuật ngữ văn hóa đọc là đọc sách có văn hóa, hay
xây dựng một xã hội đọc sách.
Theo TS. Lê Văn Viết, quan niệm đọc đến một mức độ, trình độ nhất định nào đó
thì mới được coi là văn hóa đọc [37, tr. 2].
Như vậy, Văn hóa đọc có thể hiểu một cách khái quát là cách thức ứng xử và
đánh giá đọc của mỗi cá nhân thông qua thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc
của bản thân.
Ngày nay với sự bùng nổ công nghệ thông tin, con người ngày càng tiếp xúc với
các phương tiện truyền thông hiện đại, nhiều ý kiến lo ngại rằng văn hoá nghe nhìn sẽ
ngày càng lấn lướt văn hoá đọc. Thậm chí nhiều người đổ lỗi cho sự phát triển của
công nghệ đã khiến cho văn hóa đọc ngày càng bị lãng quên. Tuy nhiên xu hướng thế
giới cho thấy, việc ra đời sách điện tử không hề làm mất đi văn hóa đọc mà thậm chí
-8-


bởi sự tiện dụng, sách điện tử còn làm cho số người đọc sách tăng lên. Chúng ta không
nên gạt bỏ một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc đẩy sự phát
triển văn hóa đọc. Bởi lẽ các loại hình văn hóa khác như văn hóa nghe nhìn, không thể
lấn át văn hóa đọc mà chúng chỉ bổ sung cho nhau, mỗi loại hình có một thế mạnh
riêng. Văn hóa đọc bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá và tiếp thu
kiến thức một cách hệ thống và sâu sắc mà văn hóa nghe nhìn không thể làm được như

vậy. Trong khi văn hóa nghe nhìn lấy đi sự sáng tạo, trí tưởng tượng thì văn hóa đọc lại
làm giàu thêm những thứ đó. Đọc sách vẫn luôn được coi là một cách thưởng thức văn
hóa sang trọng và có chiều sâu. Vì thế chúng ta không cần quá lo lắng việc trong Xã
hội phát triển văn hóa đọc sẽ mất đi, cái cần làm là chúng ta hãy mở rộng hơn những
cách tiếp cận việc đọc.
1.1.2. Nội dung của văn hóa đọc

Từ định nghĩa trên, Văn hóa đọc được biểu hiện qua các đặc điểm của người đọc
đó là nhu cầu đọc, thói quen đọc và sở thích đọc, kỹ năng đọc và văn hóa ứng xử với
tài liệu.
a. Nhu cầu đọc
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý trong cấu trúc tâm lý chung của con người.
Nhu cầu đọc là đòi hỏi khách quan của chủ thể (cá nhân, nhóm, xã hội) đối với việc
tiếp nhận và sử dụng tài liệu nhằm duy trì và phát triển các hoạt động sống của con
người. Nói cách khác, nhu cầu đọc là thái độ của chủ thể với việc đọc như một hoạt
động sống không thể thiếu được.
Yêu cầu đọc là biểu hiện cụ thể của nhu cầu đọc. Khi người đọc đã xác định được
đối tượng tài liệu cụ thể thỏa mãn được nhu cầu của mình thì họ đưa ra yêu cầu tương
ứng. Yêu cầu tương tự sễ lặp đi lặp lại nhiều lần ở những đối tượng cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên cũng có trường hợp đặc biệt, yêu cầu đọc không phản ánh nhu cầu mà xuất
phát từ những yêu cầu công việc đột xuất. Ví dụ để thực hiện bài tập của một môn học
ở một thời điểm cụ thể nào đó [20, tr. 69].
Nhu cầu đọc bắt nguồn từ yêu cầu tiếp nhận thông tin khi con người tham gia các
hoạt động sống khác nhau, nhưng nó chỉ thực sự hình thành với điều kiện chủ thể có

-9-


khả năng giải mã thông tin được mã hóa trong tài liệu. Khi đòi hỏi đối với việc đọc trở
nên cấp bách, thường xuyên, nhu cầu đọc xuất hiện.

Nhu cầu đọc bao giờ cũng gắn liền với số lượng và chất lượng tài liệu được lưu
hành trong một xã hội cụ thể. Thư viện là nơi lưu trữ và truyền tải tri thức thông qua
vốn tài liệu và công tác phục vụ bạn đọc. Vì vậy, nhu cầu đọc là nguồn gốc của hoạt
động thư viện. Hoạt động thư viện không thể tồn tại và phát triển ở những nơi không
có nhu cầu đọc.
b. Thói quen đọc và sở thích đọc
Thói quen là một chuỗi phản xạ có điều kiện do rèn luyện mà có. Phản xạ có điều
kiện là những hành vi (nếp sống, phương pháp làm việc) được lặp đi lại nhiều lần trong
cuộc sống và rèn luyện (học tập, làm việc), đó là những hành vi định hình trong cuộc
sống và được coi là bản chất thứ hai của con người nhưng nó không sẵn có mà là kết
quả của việc sinh hoạt, học tập, rèn luyện, tu dưỡng của mỗi cá nhân trong cuộc sống
hằng ngày, tuy vậy thói quen cũng có thể bắt nguồn từ một nguyên nhân đôi khi rất
tình cờ hay do bị lôi kéo từ một cá thể khác.
Sở thích hay còn gọi là thú vui, thú tiêu khiển là những hoạt động thường xuyên
hoặc theo thói quen để đem lại cho con người niềm vui, sự phấn khởi trong khoảng
thời gian thư giãn, sở thích cũng chỉ về sự hứng thú, thái độ ham thích đối với một đối
tượng nhất định.
Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối tượng nào đó, do ý nghĩa
của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về tình cảm của nó (Theo định nghĩa của Tâm
lý học). Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung
hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành
động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Như vậy, hứng
thú đọc là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động đọc sách, vì sự
cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân.
Mỗi người đều có lối sống, thói quen và sở thích riêng rất khác nhau và việc thay
đổi những thói quen của một con người rất khó khăn. Có những thói quen được hình
thành từ hứng thú về một hoạt động nào đó hay từ những sở thích của bản thân. Vì vậy,

- 10 -



trên khía cạnh lợi ích và tác hại của hành động mang lại mà có thể chia thói quen thành
hai loại là thói quen tốt và thói quen xấu.
Thói quen đọc hay sở thích đọc là một hoạt động hay mối quan tâm của con
người liên quan đến việc đọc sách, báo, tài liệu có tính chất lặp lại nhiều lần trong thời
gian rảnh rỗi nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của bản thân.
Có những thói quen đọc sách bắt nguồn từ việc đọc sách thường xuyên trong thời
gian dài ví dụ như một ngày luôn giành từ 2 đến 3 giờ đề đọc sách hay từ hứng thú đọc
một loại sách nhất định như truyện tranh, tiểu thuyết, sách văn học, sách về khoa học
viễn tưởng, ... Vì vậy, nhu cầu đọc và hứng thú đọc là nhân tố kích thích hoạt động đọc
làm cho hoạt động đọc đạt hiệu quả cao (tăng cường sức chú ý, cường độ đọc cao, có
sự tham gia đến mức tối ưu của các quá trình tư duy, tưởng tượng, trí nhớ) dẫn tới việc
thụ cảm tài liệu ở mức độ cao.
Ngày nay, giới trẻ nói chung, học sinh nói riêng ngày càng tiếp cận nhiều hơn với
các loại hình truyền thông đa phương tiện, trở nên “lười” đọc sách, thư viện cũng vì
vậy ngày càng vắng bóng học sinh. Bạn đọc có xu hướng tìm kiếm một cách nhanh
chóng, ngắn gọn, dễ hiểu thay vì ngồi đọc, nghiền ngẫm suy nghĩ, ghi chép thông tin.
Như vây, việc hình thành thói quen đọc sách và tạo hứng thú đọc cần được rèn luyện
không chỉ trong môi trường giáo dục gia đình, Nhà trường mà cả sự quan tâm của Thư
viện.
c. Kỹ năng đọc
Việc đọc được miêu tả như một phương tiện giao tiếp và mục tiêu chính của đọc
là hiểu được ý nghĩa của các tài liệu in ấn hoặc các tài liệu viết. Đọc có nghĩa là “đọc
và hiểu”, nhưng để hiểu được các vấn đề đã đọc thì bản thân mỗi người đọc cần có kỹ
năng.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng và thường được nhắc đến trong
đời sống hàng ngày như kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chuyên môn, kỹ
năng mềm, .... Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành
khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp
lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó một cách có ý thức. Kỹ năng luôn

có chủ đích và định hướng rõ ràng.
- 11 -


Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay
một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết
quả mong đợi.
Kỹ năng đọc là một loại kỹ năng mềm, phương thức giúp người đọc có thể tiếp
nhận thông tin một cách nhanh nhất. Cùng với nhu cầu đọc, hứng thú đọc thì kỹ năng
đọc là yếu tố quan trọng cấu thành văn hóa đọc.
Nếu xét theo tổng quan thì kỹ năng phân ra làm 3 loại: Kỹ năng chuyên môn, kỹ
năng sống và kỹ năng làm việc. Nếu xét theo liên đới chuyên môn kỹ năng bao gồm:
kỹ năng cứng, kỹ năng mềm và kỹ năng hỗn hợp.
Kỹ năng đọc là thành tố quan trọng nhất trong cấu trúc văn hóa đọc, là khả năng
hiểu, lĩnh hội và cảm thụ tác phẩm, biến tri thức, kinh nghiệm trong sách thành tri thức,
kinh nghiệm của bản thân để có thể vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo trong
khi tiến hành các hoạt động sống khác nhau.
Kỹ năng đọc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tri thức, kinh nghiệm, năng lực và
mục đích đọc của mỗi cá nhân. Trong đó, mục đích đọc là yếu tố quan trọng trong việc
lựa chọn phương pháp đọc phù hợp với yêu cầu đọc. Từ đó sẽ giúp các bạn tránh được
đọc tràn lan, tốn công sức và quản lý thời gian đọc sách hợp lý.
Để văn hóa đọc trở thành trở thành một chuẩn mực phải có kỹ năng đọc. Kỹ năng
đọc là sự thể hiện tổ hợp những thao tác tư duy được xác lập thành thói quen ứng xử
đọc. Các thao tác tư duy đó là:
- Lựa chọn có ý thức đề tài hoặc những vấn đề cần đọc cho bản thân, biết vận

dụng thành thạo các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc (tài liệu nghiên
cứu, tài liệu phổ thông, tài liệu giải trí...).
- Biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân, trước hết trong các thư


mục và mục lục thư viện, các nguồn tra cứu như: bách khoa thư, từ điển giải nghĩa, các
loại sổ tay, cẩm nang... và biết định hướng nguồn tài liệu cần thiết cho bản thân trong
môi trường số (trong các cơ sở dữ liệu, trên Internet).
- Thể hiện được tính hệ thống, tính liên tục trong quá trình lựa chọn tài liệu đọc

(đọc từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ các vấn đề đơn giản tới phức tạp).

- 12 -


- Biết cách tiếp nhận tối đa và sâu sắc nội dung tài liệu đọc, kể cả cách ngồi,

khoảng cách giữa mắt và tài liệu đọc,v. ..v...
- Biết vận dụng các biện pháp kỹ thuật để củng cố và đào sâu những nội dung đã

đọc như ghi chép, lập hộp phiếu thư mục, soạn tóm tắt, viết chú giải, trao đổi với bạn
bè, đồng nghiệp...
- Biết vận dụng vào thực tiễn những nội dung đã đọc.

Trong kỹ năng đọc yếu tố nào cũng quan trọng, không được coi nhẹ một yếu tố
nào. Nếu không biết vận dụng các cách đọc khác nhau đối với từng loại tài liệu đọc,
đọc tài liệu nghiên cứu cũng như đọc tài liệu giải trí, không thể tiếp nhận được nội
dung sâu sắc của tài liệu nghiên cứu. Vì mục đích cuối cùng của kỹ năng đọc là đọc có
hiệu quả cao nhất, nắm chắc nội dung cốt lõi và biết vận dụng những điều đã đọc được
vào cuộc sống của chính người đọc.
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đại học đã bắt đầu chuyển qua đào tạo theo
học chế tín chỉ đòi hỏi học sinh hình thành thói quen tích cực tự học. Tức là học sinh
cần phải “Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh” nhằm hình
thành phẩm chất cần cù, nghiêm túc, không ỷ lại, trông chờ, chủ động, tích cực và sáng
tạo. Như vậy, bản thân mỗi học sinh cần tự rèn luyện cho mình kỹ năng đọc để có thể

đáp ứng được các yêu cầu trong học tập.
d. Văn hóa ứng xử với tài liệu
Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác trong
những tính huống xác định. Ứng xử không thể hiện sự chủ động trong giao tiếp mà chủ
động trong phản ứng có sự lựa chọn, tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ,
cách nói năng - tuỳ thuộc vào tri thức, nhân cách nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất.
Vậy, kết hợp với định nghĩa văn hóa ở trên, văn hóa ứng xử là cách mà con người
thể hiện thái độ của mình đối với người khác và với môi trường xung quanh, được biểu
hiện qua hình thái của văn hóa nói và văn hóa hành động.
Khi nói đến văn hóa ứng xử với tài liệu tức là nói tới việc bạn thu nhận các thông
tin trong tài liệu bằng cách nào ? Bạn đối xử với tài liệu đó ra sao ? Hay nói một cách
khác là bạn thể hiện sự tôn trọng đối với cuốn sách bạn đang sử dụng như thế nào ?

- 13 -


Văn hóa ứng xử với tài liệu chính là thái độ và hành động của người đọc đối với
tài liệu trong quá trình đọc. Nhũng biểu hiện này phục thuộc vào tính cách và nhận
thức của mỗi cá nhân bao gồm các thái độ : giữ gìn, khai thác/ sử dụng đúng mục đích,
không có hành vi làm hư tổn tài liệu. Ngoài ra, văn hóa ứng xử với tài liệu còn thể hiện
qua tư thế đọc, nơi lưu giữ tài liệu.
Đối với học sinh, là người tiếp xúc với tài liệu thường xuyên trong quá trình học
tập, nghiên cứu, thói quen đọc ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa ứng xử với tài liệu của
mỗi người.Vì vậy, ngoài việc hình thành thói quen đọc sách hàng ngày, bản thân mỗi
người cần tạo cho mình một thái độ trân trọng tài liệu - sản phẩm trí tuệ của nhân loại.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa đọc

Văn hóa đọc chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như Môi trường xã hội, Lứa tuổi,
Trình độ văn hóa, Sự phát triển của khoa học công nghệ, Hoạt động của Thư viện,
Phương pháp đào tạo đại học hiện nay, ...

a. Môi trường xã hội
Văn hóa đọc với ý nghĩa là một bộ phận của văn hóa, do đó nó chịu ảnh hưởng
khá sâu sắc của các điều kiện môi trường xã hội.
Khi nền văn hóa phát triển sẽ sản sinh ra thông tin đa dạng, sẽ được lưu giữ và
chuyển tải bằng nhiều phương tiện khác nhau để có thể bảo quản và lưu truyền cho các
thế hệ sau. Nếu như trước kia sách là con đường lớn nhất để con người tiếp cận thông
tin và tiếp cận văn hóa, tri thức thì nay với sự phát triển của cuộc sống hiện đại, ngoài
sách, con người còn tiếp nhận thông tin của các phương tiện đại chúng như: Truyền
hình, phim ảnh, internet...đặc biệt kể từ khi xuất hiện Internet, chỉ với một chiếc máy
tính, con người ta có thể ngồi một chỗ và tìm hiểu văn hóa, lịch sử, thông tin của cả thế
giới. Văn hóa đọc vì thế thay đổi để bắt kịp cuộc sống hiện đại.
Nhiều ý kiến cho rằng sự phát triển này sẽ khiến cho văn hóa đọc ngày càng bị
lãng quên, con người sẽ “chạy” theo các thiết bị hiện đại làm cho con người nhàn hơn,
ít phải suy nghĩ hơn. Tuy nhiên, nếu nhìn lại sự thay đổi với sự phát triển nhanh của Xã
hội, để bắt nhịp với cuộc sống hiện đại chúng ta cũng nên có một cái nhìn khách quan
hơn với các phương tiện điện tử nói riêng và văn hóa đọc nói chung. Chúng ta không

- 14 -


nên gạt bỏ một công nghệ hiện đại khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc đẩy sự phát
triển văn hóa đọc.
b. Lứa tuôi
Mỗi giai đoạn lứa tuổi của con người có những đặc điểm tâm lý riêng do hoạt
động chủ đạo chi phối. Tâm lý học phân chia 4 giai đoạn lứa tuổi tương ứng với những
hoạt động chủ đạo có tính chất khác nhau: trước tuổi học; học tập; tham gia lao động
sản xuất; nghỉ lao động.
Các đặc điểm tâm lý lứa tuổi ảnh hưởng khá rõ rệt tới nội dung và phương thức
thỏa mãn nhu cầu đọc.
c. Trình độ văn hóa

Trình độ văn hóa có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần của con người
(nhu cầu hiểu biết và nhu cầu thẩm mỹ phát triển).
Là một nhu cầu tinh thần, nhu cầu tin và nhu cầu đọc cũng bị chi phối bởi trình
độ văn hóa của con người (nội dung và phương thức thỏa mãn)
d. Sự phát triên của khoa học công nghệ
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các phương
tiện truyền thông điện tử, tin học đã đem đến rất nhiều tiện ích cho con người. Sự phát
triển của công nghệ thông tin và viễn thông, các hoạt động sản xuất kinh doanh, giao
lưu, trao đổi văn hóa,... đã có sự thay đổi mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực. Bên
cạnh đó, nó cũng mang tới một số ảnh hưởng tiêu cực đặc biệt là giới trẻ mà đối tượng
chính là học sinh, học sinh. Nhiều học sinh thường chỉ có thói quen tìm kiếm những
thông tin giải trí, mà không tận dụng được hết những tiện ích, những mặt tích cực của
Internet đem lại để phục phụ học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Ví như sự ra đời của sách điện tử (e-book) đã thu hút số lượng lớn bạn đọc. Một
cuộc cách mạng về cách thức đọc được mở ra khi mà các thiết bị đọc sách với kiểu
dáng gọn nhẹ, chỉ tương đương thậm chí bé và nhẹ hơn một cuốn sách thông thường
nhưng lại có thế chứa hàng nghìn quyển sách. Song thời gian đã chứng minh điều
ngược lại, báo in vẫn sống khỏe bên cạnh báo điện tử và dù muốn hay không muốn thì
sách điện tử cũng đã có mặt và đang góp phần thay đổi văn hóa đọc.

- 15 -


Như vậy, dù xã hội có phát triển hay cuộc sống có thay đổi thì văn hóa đọc vẫn là
yếu tố không thể thiếu, không thể thay thế. Bởi lẽ các loại hình văn hóa khác như văn
hóa nghe nhìn, không thể lấn át văn hóa đọc mà chúng chỉ bổ sung cho nhau, mỗi loại
hình có một thế mạnh riêng. Văn hóa đọc bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc
truyền bá và tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và sâu sắc mà văn hóa nghe nhìn
không thể làm được như vậy. Trong khi văn hóa nghe nhìn lấy đi sự sáng tạo, trí tưởng
tượng thì văn hóa đọc lại làm giàu thêm những thứ đó. Đọc sách vẫn luôn được coi là

một cách thưởng thức văn hóa sang trọng và có chiều sâu. Vì thế chúng ta không cần
quá lo lắng việc trong xã hội phát triển văn hóa đọc sẽ mất đi, cái cần làm là chúng ta
hãy mở rộng hơn những cách tiếp cận việc đọc. Hãy để công nghệ hiện đại có cơ hội
bổ trợ cho cách thức đọc truyền thống, để văn hóa đọc nói chung có thêm cơ hội phát
triển.
e. Hoạt động của thư viện
Thư viện là kho tàng chứa tất cả của cải tinh thần của loài người (G.V.Leibniz), là
nơi thông tin được tổ chức, nơi dễ dàng tìm thấy thông tin mà tất cả mọi người cần
hoặc muốn. Thư viện bổ sung và cập nhật những kiến thức mới, những phương pháp
giảng dạy tiên tiến làm cho việc học tập và giảng dạy thêm sinh động và hấp dẫn.. Thư
viện chỉ có giá trị khi nó có thông tin và có người biến thông tin trở nên hữu ích hay
nói cách khác thư viện là cầu nối giữa thông tin và người sử dụng.
Hoạt động của thư viện bao gồm việc tổ chức, quản lý và phát triển tất cả các sản
phẩm và dịch vụ của thư viện như : bổ sung tài liệu, cung cấp tài liệu, khai thác thông
tin, hoạt động tuyên truyền, giới thiệu tài liệu, hội nghị, hội thảo bạn đọc, ...
Mỗi loại hình thư viện phục vụ chuyên sâu cho một loại người đọc xác định trong
xã hội và có mục đích, yêu cầu, nội dung hoạt động không giống nhau. Tuy nhiên, mục
tiêu cuối cùng của hoạt động thư viện là nhằm thu hút số lượng lớn bạn đọc thuộc mọi
trình độ khác nhau, mọi thành phần xã hội, mọi lứa tuổi và giúp họ thỏa mãn nhu cầu
tin của bản thân. Như vậy, để đáp ứng mục tiêu đó, trước hết thư viện cần nghiên cứu
nhu cầu tin và đặc điểm của các nhóm người dùng tin khác nhau của một thư viện cụ
thể. Từ đó thư viện cần đa dạng hóa, hiện đại hóa các loại hình sản phẩm và dịch vụ
thông tin - thư viện, tăng cường hướng dẫn sử dụng thư viện, quảng bá nguồn lực
- 16 -


thông tin, vốn tài liệu và dịch vụ thư viện. Việc phát triển dịch vụ thư viện phải được
xem là một trong những giải pháp mang ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng và
phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng trong bối cảnh của nước ta hiện nay.
Ví dụ như hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn việc đọc sách, hướng dẫn sử dụng

thư viện trong học tập đã gây dựng, nuôi dưỡng và định hình thói quen đọc, giúp hình
thành sở thích đọc tích cực, lành mạnh, uốn nắn những sở thích đọc lệch lạc và góp
phần từng bước giáo dục kỹ năng đọc cho người đọc. Quan trọng hơn là tạo ra thói
quen sử dụng thư viện trong học tập.
Hiện nay, thời đại bùng nổ thông tin, việc đánh giá văn hóa đọc trong cộng đồng
còn có những ý kiến khác nhau về vai trò của thư viện và tài liệu truyền thống. Một vấn
đề mới được đặt ra là: Thư viện cần làm gì để phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng
trong khi công nghệ thông tin đang phát triển mạnh. Vì vậy, các thư viện đang có xu
hướng hiện đại hóa hoạt động thư viện bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin vào
các khâu công tác nghiệp vụ như: tra cứu, khai thác vốn tài liệu trên thiết bị điện tử, số
hóa tài liệu, mượn liên thư viện trong nước và ngoài nước, mượn trả tài liệu tự động, ...
Xuất hiện thuật ngữ Thư viện số, Thư viện điện tử. Vì vậy, nhiều ý kiến lo ngại rằng tài
liệu in sẽ bị lãng quên. Tuy nhiên, Chúng ta không nên gạt bỏ một công nghệ hiện đại
khi mà nó hoàn toàn có khả năng thúc đẩy sự phát triển văn hóa đọc bởi vì vấn đề cốt
lõi là cá nhân người đọc cần phải biết đọc gì và biết khai thác ở đâu.
Ngoài ra, không thể quên một yếu tố quyết định trong việc đảm bảo hiệu quả hoạt
động của thư viện, cầu nối giữa nguồn tài nguyên thông tin và bạn đọc, đó là cán bộ
thư viện. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, người cán bộ thư viện hôm
nay không chỉ là người hỗ trợ người dùng tin mà còn là người đào tạo người dùng tin,
người nghiên cứu, người quản lý tri thức. Đặc biệt những kỹ năng thiết yếu cần có của
một cán bộ thư viện là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, trình độ ngoại ngữ
và tin học. Chính vì vậy, cán bộ thư viện cần được đào tạo và tự đào tạo thường xuyên
để nâng cao trình độ và năng lực nghiệp vụ của mình.
f. Phương pháp giảng dạy hiện nay
Chất lượng giảng dạy ở nước ta trước đây đang có những bước thay đổi, chuyển
mình so với giai đoạn trước đây. Phương pháp dạy và học mới đòi hỏi một số điều kiện
- 17 -


tiên quyết cho phép người học “phát huy nội lực” và người dạy “dạy cách phát huy nội

lực”. Phương pháp này sẽ rút ngắn thời gian giảng dạy lý thuyết trên cơ sở học sinh
được cung cấp nguồn thông tin dồi dào trước khi lên lớp, tăng thời gian tự học của học
sinh.
Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập theo hệ thống tín chỉ
của học sinh ở các trường đại học hiện nay. Tự học nhằm phát huy tính tự giác học và
nghiên cứu. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ xác định rõ trọng tâm của người học là bắt
buộc nhận thức việc tự học của mình là chính.
Muốn thực hiện tốt vấn đề liên quan đến học tập, học sinh phải tự đến thư viện
tìm tài liệu liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, thảo luận. Thư viện có đầy đủ sách
báo, tài liệu điện tử, vv... về mọi lĩnh vực tri thức trong chương trình đào tạo của nhà
trường. Những điều học sinh phát kiến, tìm tòi được sẽ khắc sâu vào tâm trí của học
sinh, vì đó là những điều họ tự tìm ra chứ không phải là những điều mà họ phải cố nhớ.
Từ đó học sinh sẽ tự hình thành cho mình thói quen đọc sách và văn hóa đọc tốt đẹp.
1.2. Thư viện trường học
1.2.1. Nhiệm vụ của Thư viện trường học (TVTH)
TVTH cung cấp các dịch vụ học tập, sách và các nguồn tư liệu khác tạo điều kiện
cho các thành viên của trường học trở thành những người biết suy nghĩ quyết đoán và
biết sử dụng các dạng thông tin khác nhau một cách hiệu quả. TVTH kết nối với mạng
thư viện và thông tin rộng lớn, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc trong tuyên ngôn
của UNESCO về thư viện công cộng.
Các cán bộ thư viện sẽ hướng dẫn người đọc sách sử dụng sách và khai thác các
nguồn thông tin khác, từ tiểu thuyết đến sách tư liệu, từ các xuất bản phẩm đến tài liệu
điện tử, cả tại chỗ lẫn truy cập từ xa. Ngoài ra, còn có các tài liệu bổ trợ, sách giáo
khoa, sách giáo viên và sách về phương pháp luận.
Thực tế đã cho thấy khi cán bộ thư viện và giáo viên cùng hợp tác thì học sinh sẽ
đạt được trình độ cao hơn về khả năng đọc, viết, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, các kỹ
năng khai thác thông tin và sử dụng công nghệ thông tin giao tiếp.
1.2.2. Các mục tiêu của Thư viện trường học

- 18 -



TVTH là một phần không thể thiếu của quá trình giáo dục. Những dịch vụ dưới
đây cần thiết cho việc phát triển học vấn, kiến thức thông tin, văn hóa, việc dạy và học,
và là những dịch vụ cơ bản của TVTH:
- Hỗ trợ và tăng cường các mục tiêu giáo dục như đã được phác thảo trong nhiệm
vụ của trường học và chương trình giảng dạy.
- Phát triển và duy trì ở trẻ em thói quen và hứng thú trong việc đọc, nghiên cứu
và thói quen đến thư viện trong suốt cuộc đời của trẻ.
- Tạo cơ hội để người đọc có kinh nghiệm trong việc tạo ra và sử dụng thông tin
để có kiến thức, hiểu bài, làm giàu trí tưởng tượng và thư giãn.
- Hỗ trợ cho học sinh kỹ năng nghiên cứu và thực hành trong đánh giá và xử lý
thông tin, không phụ thuộc vào hình thức, khuôn khổ hay môi trường truyền thông
hoặc hình thức giao tiếp trong cộng đồng.
- Giúp học sinh tiếp cận với các nguồn thông tin địa phương, khu vực, quốc gia,
toàn cầu và tạo cơ hội để học sinh tiếp cận với các ý tưởng, kinh nghiệm và quan điểm
đa dạng.
- Tổ chức các hoạt động nhằm khuyến khích khả năng nắm bắt thông tin nhạy bén
và hiểu biết về văn hóa, xã hội.
- Cộng tác chặt chẽ với học sinh, giáo viên, các nhà quản lý và phụ huynh nhằm
thực hiện nhiệm vụ của trường học.
- Đề cao quan điểm cho rằng tự do trí tuệ và sự tiếp cận thông tin là cần thiết đối
với quyền công dân và cuộc sống trong xã hội bình đẳng.
- Khuyến khích việc đọc, khai thác các nguồn lực và dịch vụ của TVTH đối với
tất cả các thành viên trong cũng như ngoài trường học.
TVTH thực hiện các chức năng này qua việc phát triển các chính sách và dịch vụ,
chọn lọc và bổ sung các nguồn, tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin, cung cấp cơ
sở vật chất giáo dục và TVTH tiếp nhận những cán bộ đã qua đào tạo.
1.2.3. Sự thay đổi vai trò của thư viện trường học trong môi trường học tập
kiểu mới


- 19 -


Trong các lớp học kiểu truyền thống hiện đang rất phổ biến tại Việt Nam, giáo
viên được xem là người cung cấp thông tin, kiến thức chỉ được truyền theo 1 chiều từ
giáo viên tới học sinh. Trái lại, phương pháp giảng dạy mới mang tính hợp tác chú
trọng vào việc chia sẻ tri thức và chia sẻ cả việc ra quyết định.
Giáo viên có tri thức, kỹ năng và phương pháp truyền đạt nhưng họ cũng đánh giá
cao những đóng góp của học sinh. Các kinh nghiệm cá nhân, kiến thức có sẵn, và nền
tảng văn hoá đa dạng mà học sinh mang tới lớp học sẽ được sử dụng như là một nền
tảng cho việc truyền thụ, hướng dẫn. Phương pháp giảng dạy mang tính hợp tác này
yêu cầu giáo viên phải chia sẻ quyền với học sinh, cho phép học sinh có tiếng nói trong
việc xác định mục tiêu và quyết định các hoạt động trong giờ học. Giáo viên sẽ đưa ra
các gợi ý để khuyến khích học sinh tự tìm hiểu vấn đề, ra các bài tập mở để học sinh tự
tìm kiếm thông tin về các chủ đề đó và làm bài tập, đưa ra ý kiến / đáp án / phương
pháp giải quyết vấn đề riêng của bản thân.
Học sinh không chỉ ghi nhớ thông tin mà họ còn được phép tự làm việc và sử
dụng thông tin một mình hoặc với bạn học. Cách nhìn nhận, tiếp cận phong phú, đa
dạng là đẩu vào cẩn thiết của mọi lớp học. Học sinh được phép có những lựa chọn và
ra quyết định trong giờ học. Trọng tâm của những lớp học kiểu này là các lựa chọn, các
câu trả lời khác nhau thay vì một đáp án duy nhất. Về cơ bản, học sinh phải là người
đồng sáng tạo trong quá trình học tập, mỗi cá nhân với những vấn đề và ý tưởng khác
nhau sẽ làm phong phú sự quan tâm cũng như giải pháp cho các vấn đề đặt ra.
Để có thể thích ứng và cung cấp các nguồn tư liệu và dịch vụ thư viện phù hợp
với phương pháp dạy và học lấy học sinh làm trung tâm kể trên, hiện nay trên thế giới,
thư viện trường học đang có xu hướng thay đổi trong cách thức đào tạo người sử dụng
thư viện - học sinh và giáo viên, trong đó chuyển từ kỹ năng nghe nhìn, kỹ năng thư
viện nói chung, việc lựa chọn tài liệu, các kỹ năng độc lập, các tài liệu đẩu vào sang xu
hướng chú trọng vào các loại tài liệu đa phương tiện, và truyền thông, kiến thức thông

tin và các đặt câu hỏi, phân tích nhu cẩu người học, hợp tác và lồng ghép các nội dung
giảng dạy kiến thức thông tin vào chương trình học, sự đa dạng hoá các khả năng của
người học để đáp ứng các nhu cẩu cụ thể, độc đáo của từng học sinh. Các chương trình

- 20 -


đào tạo người dùng tin đang chuyển sang chú trọng hơn vào học sinh và nhu cẩu của
họ thay vì chú trọng vào các nguồn tài liệu thư viện và các cách làm đặc thù của nó.
Những công việc mà cán bộ thư viện trường học phải làm hiện nay tại các nước
phát triển vẫn bao gồm những việc mà họ đã từng làm trong hàng thế kỷ qua, và còn
bao gồm thêm nhiều việc khác nữa, chủ yếu liên quan đến công nghệ thông tin như
quản lý và cung cấp các thiết bị công nghệ thông tin, quản trị trang web, kỹ thuật viên
máy tính, tổ chức việc phát triển nghề nghiệp cho giáo viên trong trường mà không
được bố trí thêm thời gian và nhân viên. Sự thay đổi này phản ánh nhu cầu ngày càng
lớn của cộng đồng trường học đối với thời gian, kỹ năng và nhiệt huyết của cán bộ thư
viện.
1.2.4. Quan hệ của giáo viên thư viện với giáo viên và dịch vụ dành cho giáo
viên
Để có thể thay đổi cách dạy và học trong giáo viên và học sinh, cán bộ thư viện
cần phải tác động vào giáo viên vì đó chính là nhân tố thúc đẩy sự thay đổi của học
sinh. Làm được điều này cần phải có sự phối hợp giữa giáo viên thư viện và giáo viên
giảng dạy. Việc này sẽ giúp cải thiện quá trình học tập của học sinh và chất lượng đầu
ra.
Điểm đầu tiên là cần xác định kết quả của chương trình giảng dạy, trình độ và
kiến thức hiện có của học sinh, xác định khi nào và cần can thiệp vào nội dung gì về
mặt thư viện trong chương trình học. Đối với từng môn học hoặc bài học cụ thể, giáo
viên thư viện có thể tìm hiểu về nội dung bài học/môn học và cung cấp các danh mục
tài liệu phù hợp cho môn học đó. Danh mục này có thể bao gồm cả tài liệu in có tại thư
viện và các tài liệu miễn phí trên mạng.

Giáo viên thư viện cũng có thể phối hợp với giáo viên để thiết kế bài giảng có
lồng ghép nội dung về kiến thức thông tin (kỹ năng phân tích nhu cầu thông tin, tìm
kiếm, đánh giá, sử dụng thông tin hợp lý) vào từng môn học, bài học cụ thể. Ví dụ: nếu
học sinh được giao làm một bài luận về sao Hỏa, cùng với nội dung giảng dạy kỹ năng
viết bài luận, giáo viên thư viện có thể yêu cầu phối hợp lồng ghép nội dung tìm kiếm
thông tin về hành tinh này trong các nguồn tin khác nhau, ví dụ trong từ điển bách
khoa, các sách tham khảo về vật lý, các trang web. Các buổi học sẽ được giảng dạy
- 21 -


phối hợp giữa giáo viên và giáo viên thư viện, trong đó giáo viên có thể giảng dạy về
kỹ năng viết bài luận, kỹ năng phân tích chủ đề còn giáo viên thư viện có thể giảng dạy
về kỹ năng phân tích nhu cầu tin, kỹ năng tìm kiếm thông tin trên nhiều nguồn khác
nhau, đánh giá thông tin và sử dụng thông tin phù hợp. Qua đó, giáo viên sẽ có thêm
hiểu biết về các nguồn thông tin trong thư viện, cách tra cứu cơ sở dữ liệu, trong khi
đó, giáo viên thư viện cũng học hỏi được về kỹ năng viết bài luận từ giáo viên. Như
vậy, cả giáo viên và giáo viên thư viện cùng hưởng lợi từ sự hợp tác này so với việc chỉ
giảng dạy một cách riêng rẽ các nội dung về kỹ năng viết bài luận và kỹ năng tìm kiếm
và đánh giá thông tin.
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy nếu giáo viên đã từng sử dụng thư viện và
các dịch vụ thư viện thì họ sẽ có xu hướng sử dụng thư viện nhiều hơn để phục vụ cho
công tác

giảng dạy của mình.

Trường hợp giáo viên ít sử dụng thư viện có thể là do họ còn chưa nhận thức
được vai trò mà thư viện có thể đóng góp cho việc giảng dạy của giáo viên. Và một
trong các cách giải quyết vấn đề này là giáo viên cần phải được giới thiệu về thư viện
và các nguồn tài liệu, dịch vụ mà nó có thể cung cấp cho giáo viên để phục vụ công tác
giảng dạy của mình, qua đó làm cho chất lượng đầu ra của học sinh được nâng cao.

Cán bộ thư viện có thể tổ chức một chương trình giảng dạy về kiến thức thông tin
cho giáo sinh và giáo viên để cung cấp cho họ những kỹ năng về xác định, truy cập,
đánh giá và sử dụng thông tin. Giáo viên cần được đào tạo về cách sử dụng thư viện và
lồng ghép các buổi học về kiến thức thông tin và cách sử dụng thư viện vào giờ giảng,
vào các bài tập của học sinh, các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động khác. Các đề
cương giảng dạy mẫu trong đó lồng ghép các hoạt động sử dụng thông tin thư viện có
thể được phối hợp với giáo viên để xây dựng và chia sẻ với các giáo viên khác. Qua đó
cán bộ thư viện có thể chia sẻ về những đóng góp của thư viện trường học trong việc
nâng cao chất lượng và sự hiệu quả của bài giảng và các hoạt động khác của trường.
Mặt khác, lợi ích của việc phối hợp với thư viện cũng sẽ được đề cao.
Một điều nữa có thể làm để cải thiện chất lượng sử dụng thư viện đó là đảm bảo
rằng tất cả các trường học phải được bố trí một cán bộ thư viện chuyên trách và được
đào tạo bài bản về thư viện. Hiện tại, tuyệt đại đa số các trường học tại Việt Nam
- 22 -


không có vị trí cán bộ thư viện chuyên trách mà thường vị trí này được giao cho các
giáo viên kiêm nhiệm, không có chuyên môn thư viện đảm trách. Một cán bộ thư viện
chuyên trách sẽ có đủ thời gian để đóng góp vai trò tích cực chủ động hơn trong việc
quảng bá việc sử dụng thư viện trong việc giảng dạy, các hoạt động ngoại khóa, các bài
tập của học sinh cũng như để giáo viên và học sinh giải trí. Một cán bộ thư viện chuyên
trách cũng sẽ giúp cải thiện kiến thức thông tin của giáo viên và học sinh.
Để làm được việc này, thư viện cũng cẩn được bổ sung tài liệu một cách đẩy đủ,
phù hợp với nhu cẩu giảng dạy, học tập và giải trí của giáo viên và học sinh. Thêm vào
đó, cán bộ thư viện cũng phải tìm cách để giáo viên tham gia vào việc đánh giá kho tư
liệu của thư viện xem có phù hợp hay không cũng như tìm cách để giáo viên giúp đỡ
trong việc lựa chọn tài liệu mới cho phù hợp với trường.
Những cách hợp tác này có thể giúp giảm thiểu những nhận thức chưa phù hợp về
kho tài liệu thư viện, dịch vụ thư viện cũng như các trang thiết bị thư viện.
1.2.5. Quan hệ của giáo viên thư viện với học sinh và dịch vụ dành cho học

sinh
Có lẽ yếu tố quan trọng nhất tác động đến vai trò của thư viện trường học và cán
bộ thư viện trường học trong việc nâng cao chất lượng đẩu ra của học sinh là sự bùng
nổ thông tin, đặc biệt là các nguồn thông tin điện tử đã diễn ra trong những năm gẩn
đây. Với lượng thông tin khổng lồ hiện hữu trên Internet, với sự lạc hậu nhanh chóng
của thông tin, và chất lượng còn chưa được kiểm định của thông tin, vai trò của cán bộ
thư viện trường học ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thư viện không chỉ
đơn thuẩn là nơi cung cấp các nguồn tài liệu cho học sinh mà ngày nay thư viện, cùng
với các cơ quan khác, quan tâm đến việc tạo ra cộng đồng những người có kỹ năng học
tập suốt đời, trong đó, các kỹ năng xác định, sử dụng và đánh giá thông tin là một phẩn
quan trọng. Và kỹ năng thông tin chính là một phẩn then chốt trong các dịch vụ thư
viện. Theo Bản ghi nhớ về vấn đề Học tập suốt đời của Uỷ ban châu Âu thì “mọi người
cẩn phải được trang bị các kỹ năng học hỏi, thích ứng với sự thay đổi và hiểu được quá
trình luân chuyển của dòng thông tin”. ở Việt Nam, điều này càng quan trọng hơn bởi
lẽ giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc cho tất cả trẻ em trong độ tuổi đến
trường, và nhiều em sau khi hoàn thành bậc tiểu học hoặc trung học cơ sở không theo
- 23 -


học ở cấp cao hơn nữa, vì vậy điều cẩn thiết là phải trang bị cho các em những kỹ năng
cẩn thiết này để các em có thể áp dụng chúng trong cuộc sống sau này. Trong một xã
hội cẩn những người lao động có nhiều kỹ năng để có thể hoà nhập tốt vào môi trường
thay đổi nhanh chóng, bao gồm cả thế giới kỹ thuật số, trọng tâm của việc dạy học phải
là cung cấp cho học sinh những kỹ năng cho phép mỗi cá nhân có thể sử dụng vào việc
học tập suốt đời chứ không chỉ là trong những năm ngồi trên ghế nhà trường.
Ngoài vai trò đào tạo kiến thức thông tin cho học sinh, thư viện còn có thể đóng
góp tích cực vào việc học tập của học sinh thông qua các hoạt động và dịch vụ như tổ
chức các hoạt động như các giờ kể chuyện, mời các diễn giả đển nói chuyện về các chủ
đề liên quan đển chủ đề học tập của học sinh, mời các tác giả văn học đến giao lưu.
Cán bộ thư viện trường học cũng có thể cung cấp dịch vụ tham khảo cho học sinh

để hỗ trợ cho học sinh làm bài tập, ví dụ như hướng dẫn cách tìm kiếm

các tài liệu

tham khảo cho một bài tập cụ thể của học sinh, hay cung cấp danh mục các tài liệu
tham khảo cho một môn học.
Thư viện trường học cũng có thể vận động cha mẹ, gia đình của học sinh tham gia
vào các hoạt động của mình. Ví dụ: hội những người bạn của thư viện, trong đó sẽ có
những người tình nguyện tham gia vào việc sửa chữa, bổ sung tài liệu, tổ chức các giờ
kể chuyện, làm các thiết bị hỗ trợ giảng dạy, vv. Tất cả những hoạt động này sẽ giúp
cho thư viện trường học cải thiện hình ảnh và vai trò của mình trong con mắt của học
sinh, giáo viên và những nhóm liên quan.
CHƯƠNG

2:

THỰC

TRẠNG

VĂN

HÓA

ĐỌC

CỦA

HỌC


SINH

VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THƯ VIỆN TRƯỜNG HỌC Ở TRƯỜNG THPT
A. THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA HỌC SINH THPT
Để đánh giá khách quan thực trạng văn hóa đọc của học sinh ở trường THPT, tác giả đã
tiến hành khảo sát bằng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Trong đó, tổng số phiếu phát ra
là 100 phiếu, tổng số phiếu thu về là 95 phiếu, đạt 95% trên tổng số phiếu phát ra.
Tác giả thực hiện khảo sát học sinh đang khai thác thông tin tại trường THPT Ngô Sĩ
Liên, THPT Thái Thuận và trường THPT Lục Ngạn số 1.
2.1. Nhu cầu đọc tài liệu của học sinh

- 24 -


2.1.1. Nhu cầu về nội dung tài liệu
Học tập là hoạt động chủ yếu của học sinh, học tập trong môi trường đại học khác với
các cấp bậc khác. Đối với các cấp học như tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, học
sinh tiếp xúc phần lớn với tài liệu, mọi kiến thức liên quan đến môn học nào đều được trình
bày đầy đủ trong sách giáo khoa của môn học đó, học sinh chỉ tiếp thu kiến thức trong sách vở
mà giáo viên hướng dẫn. Ngược lại, môi trường học tập đại học đòi hỏi học sinh mở rộng vốn
tri thức, tích cực tìm kiếm các thông tin không chỉ về vấn đề đang học tập, nghiên cứu mà còn
là các nguồn tin khác liên quan. Khảo sát cho thấy học sinh có nhu cầu nội dung tài liệu liên
quan đến tất cả mọi lĩnh vực trong cuộc sống

Theo số lượng thống kê cho thấy, học sinh có mức độ thường xuyên đọc các tài liệu liên
quan đến môn học nhiều hơn các hoạt động khác tỷ lệ này chiếm 94%. Các tài liệu về tin tức
thời sự, chính trị, an ninh, giáo dục, thể thao, kinh tế, ... cũng được học sinh quan tâm nhưng ở
phần lớn ở mức độ thỉnh thoảng đọc. Việc thường xuyên đọc các tài liệu liên quan đến môn
học và liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của học sinh nhằm mục đích phục vụ học tập.
Đặc biệt với phương pháp đào tạo mới, học sinh phải dành nhiều thời gian cho việc tự học, tự

đọc tài liệu. Nhiều môn học yêu cầu học sinh phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, nếu không
đọc thì sẽ không nắm được các nội dung của bài học. Từ đó ảnh hưởng đến kết quả học tập
của học sinh.
Để thỏa mãn nhu cầu đọc của bản thân, thư viện chính là nơi quen thuộc và đảm bảo đáp
ứng những nhu cầu quan tâm.

- 25 -


×