Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.95 KB, 88 trang )

THÔNG TIN CÁ NHÂN

CÔNG TRÌNH “BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
THPT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY”
Họ và tên:

NGUYỄN THẾ HỆ

Giới tính: Nam

Ngày sinh: 13 – 10 – 1983
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: Không
Quê quán: xã Chí Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
Đơn vị công tác: Trường THPT Nam Duyên Hà, tỉnh Thái Bình
Chức vụ: Giáo viên, Bí thư Đoàn trường
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: ĐHSP, ngành Giáo dục chính trị
Học hàm, học vị, danh hiệu, giải thưởng: Thạc sĩ

-1-


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại ngày nay là thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, là thời đại của kinh tế tri thức. Các quốc gia trên thế giới ngày càng dành
nhiều sự quan tâm cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Có chăm lo tới sự nghiệp
này, chúng ta mới đào tạo được đội ngũ lao động có chất lượng cao, mới khai
thác được tiềm năng thế mạnh của đất nước, mới giành được những thắng lợi
trong cạnh tranh quốc tế. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.


Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then
chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi
mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào
tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt
chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”1 [tr.130-131]. Bởi lẽ, con người vừa
là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển, đầu tư cho con người chính là tạo
cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là bảo đảm vững bền cho sự phồn thịnh của
mỗi quốc gia. Việc phát triển nguồn nhân lực là “chìa khóa” quyết định thành
công của giai đoạn cách mạng mới trên đất nước ta.
Sau gần 30 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức
to lớn và toàn diện. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cơ chế thị trường
đang dần phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc
đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Song kinh tế thị trường cũng làm cho
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội,
1

-2-


môi trường văn hóa, xã hội có nhiều thay đổi, thậm chí làm cho nhiều thang giá
trị đảo lộn, lấy giá trị vật chất làm thước đo; toàn cầu hóa và hội nhập, mặt trái
của khoa học, kĩ thuật, công nghệ thông tin, kéo theo sự xâm lấn của văn hóa
ngoại lai, đặc biệt văn hóa đồi trụy, bạo lực, của chủ nghĩa thực dụng; sự yếu
kém của nền kinh tế làm cho không gian vật chất của học đường hạn chế… Vì
vậy việc định hướng những giá trị đạo đức, những lối sống lành mạnh, tốt đẹp
cho học sinh ngày càng trở nên cấp bách và cần thiết.

Trước thực trạng trên, cả xã hội lo lắng, ngành giáo dục cũng trăn trở tìm
giải pháp, Đảng và Nhà nước đang chỉ đạo quyết liệt nhằm đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục nước nhà. Trong đó giáo dục phổ thông có tầm quan
trọng đặc biệt. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở bậc học THPT đã có nhiều
đổi mới từ gần 10 năm nay. Nội dung, chương trình được biên soạn lại cho phù
hợp hơn, hình thức, phương pháp tổ chức dạy học từng bước được cải tiến. Tuy
nhiên, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú trọng
một cách đúng mức, chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh chưa
cao. Thực trạng đó đòi hỏi công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cần phải
được quan tâm nhiều hơn nữa, nhất là học sinh THPT - giai đoạn của sự chuyển
tiếp giữa thiếu niên và thanh niên, là giai đoạn tạo dựng nền móng nhân cách để
trở thành người lao động trong tương lai.
Qua khảo sát tình hình, đặc điểm học sinh THPT bên cạnh những mặt
tích cực thì vẫn còn tồn tại những lo lắng về đạo đức, nhân cách của một bộ
phận học sinh như: Một số giá trị tốt đẹp về phẩm chất, đạo đức của TTN Việt
Nam bị mai một, có biểu hiện suy thoái, lệch lạc, như: Bất hiếu với cha mẹ, vô
lễ với thầy cô giáo, thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm với gia đình, cộng đồng,
quan hệ nam - nữ thiếu lành mạnh. Thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của người
khác, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai trái, tiêu cực không dám đấu tranh.
Đặc biệt là lứa tuổi HS phổ thông có thay đổi lớn về tâm sinh lý, muốn khẳng
-3-


định mình nhưng chưa đủ độ chín chắn và kinh nghiệm để nhận biết đúng sai,
dễ bị lôi kéo, thần tượng hóa hiện tượng bề nổi, ít có chiều sâu văn hóa, lười lao
động, thích hưởng thụ, thiếu ước mơ và hoài bão, lập thân, lập nghiệp, coi giá
trị vật chất là thước đo giá trị xã hội. Trong khuôn viên nhà trường HSSV tỏ ra
ngoan ngoãn, nhưng khi sinh hoạt trong cộng đồng, ngoài trường học thì rất khó
đánh giá và kiểm soát. Một số TTN tiếp thu không chọn lọc, đua đòi theo văn
hóa phương Tây, có lối sống không phù hợp với thuần phong mĩ tục Việt Nam.

Một số ít TTN sa vào tình trạng lô đề, cờ bạc, rượu bia, nghiện chơi games,
đam mê với cuộc sống ảo trên Internet, có hành vi bạo lực giống như trên phim
ảnh. Điều đáng lo lắng là tỷ lệ TTN vi phạm pháp luật, phạm tội nghiêm trọng,
đang có xu hướng gia tăng và ngày càng trẻ về độ tuổi2.
Tình hình HSSV vi phạm pháp luật tiếp tục gia tăng cả về tính chất và
mức độ. Từ những nguyên nhân rất đơn giản như thiếu tiền chơi điện tử, ăn
chơi, đua đòi... dẫn đến phạm tội giết người cướp tài sản. Theo thống kê chưa
đầy đủ từ năm 2009 đến nay, tổng số HSSV liên quan đến pháp luật hình sự là
trên 8.000 vụ việc, trong đó các hành vi gây rối trật tự công cộng (935 vụ), tội
phạm ma túy (357 vụ), giết người (37 vụ), cướp, trộm cắp tài sản (6.000 vụ)3.
Bạo lực học đường vẫn xảy ra tại nhiều địa phương; tình trạng bỏ học, bỏ
nhà sống lang thang, tụ tập thành băng nhóm sử dụng dao, lê, mã tấu, kiếm,…
đâm chém nhau, gây rối trật tự công cộng, phạm tội nghiêm trọng như giết
người, cướp tài sản đang diễn biến phức tạp hơn. Theo báo cáo sơ bộ của cơ
Năm 2012, trong số 122.277 bị can bị khởi tố có 9.904 bị can dưới 18 tuổi, chiếm 8,1%, tăng 7,4% so với năm
2011; số người chưa thành niên bị tòa án đưa ra xét xử là 6.425 bị cáo, tăng 1.853 bị cáo so với năm 2011. Đặc
biệt, 65% vụ phạm pháp của người chưa thành niên có sử dụng vũ khí nóng hoặc hung khí. Tính đến hết tháng
6/2012, trong số 171.400 người nghiện trong cả nước thì người nghiện từ 16-20 tuổi chiếm 50%. Theo khảo sát
của một số tỉnh, thành thì số người bán dâm ngày càng trẻ hóa. Số dưới 18 tuổi chiếm 14%, từ 18-25 chiếm
42%, từ 26-35 chiếm 35%...
3
Báo cáo Hội nghị sơ kết 05 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 34/2009/TTLT – BGDĐT-BCA về công tác
phối hợp đảm bảo an ninh, trật tự trường học của Bộ Công an, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2

-4-


quan công an 63 tỉnh/ thành phố trên cả nước, từ năm 2010 đến nay có 7.735
HSSV tham gia đánh nhau, bị xử lý kỷ luật.

Một bộ phận TTN chưa hiểu biết đầy đủ truyền thống cách mạng của
Đảng và lịch sử của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thờ ơ, bàng
quan chính trị, thậm chí giảm sút niềm tin, phai nhạt LTCM, bản lĩnh non kém
bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật, đi ngược với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi ích của dân tộc.
Một số vụ việc xảy ra trong thời gian gần đây cũng cảnh báo tình trạng
HSSV phạm tội sử dụng công nghệ cao như tấn công các trang web của cơ
quan, tổ chức với mục đích xấu, hỗ trợ kỹ thuật cho các trang mạng có nội dung
xấu chống Đảng, Nhà nước.Vậy tại sao lại có sự sa sút về phẩm chất đạo đức
như vậy trong một bộ phận học sinh THPT? Làm thế nào để khắc phục được
tình trạng trên? Làm thế nào để có được những con người phát triển toàn diện
làm động lực cho sự phát triển chung của đất nước? Đây là những vấn đề lớn,
hết sức bức thiết đã và đang đặt ra đòi hỏi thực tiễn công tác giáo dục nước ta
phải giải quyết. Với những lí do trên tác giả chọn “Biện pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề giáo dục đạo đức đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu, Komenxky
nhà giáo dục vĩ đại của Tiệp Khắc trong tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại” đã đề
cập đến nhiều biện pháp cụ thể trong việc giáo dục nói chung và giáo dục đạo
đức nói riêng làm cơ sở cho nền giáo dục sau này. Ông nhấn mạnh việc tôn
trọng con người phải bắt đầu từ ý thức tôn trọng đến trẻ em bởi theo ông trẻ em
như những cây non trong vườn ươm: “Để cây đó lớn lên một cách lành mạnh,
nhất thiết phải được quan tâm, chăm sóc, tưới bón…”. Ông có một quan niệm
-5-


về sự hòa nhập giữa con người và thế giới tự nhiên, ông cực lực phản đối việc
dùng bạo lực đối với trẻ em. Theo ông, các bậc cha mẹ, các nhà giáo cà tất cả
mọi người làm nghề nuôi dạy trẻ: “Hãy mãi mãi là một tấm gương trong đời

sống, trong mọi sinh hoạt để trẻ em noi theo và bắt chước mà vào đời một cách
chân chính”. Ông coi trẻ em yếu kém về học tập và hạnh kiểm như là những trái
chín muộn, nếu ta biết cách giáo dục và kiên trì giáo dục thì cũng sẽ đem lại kết
quả tốt đẹp. Giáo viên bằng thái độ trân trọng, kiên nhẫn , hoàn toàn có thể xóa
bỏ ở học sinh những thói xấu, những mặc cảm và khơi dậy những tiềm năng ở
các em.
Macarenco trong “Bài ca sư phạm” đã khái quát các vấn đề giáo dục
người công dân, ông đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục đạo đức và
các biện pháp giáo dục đúng đắn như sự nêu gương, nguyên tắc giáo dục bằng
tập thể…
Xukhomlinxky nhà giáo dục vĩ đại người Nga rất quan tâm đến những
biện pháp giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức. Trong quá trình giáo
dục, hình thành nhân cách cho học sinh ông quan tâm đặc biệt tới sự cân đối hài
hòa giữa sự phát triển cảm xúc, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ với sự
phát triển trí tuệ, thể chất… Những tác phẩm về giáo dục đạo đức như: “Giáo
dục con người chân chính như thế nào”, “Giáo dục cộng sản đối với lao động”
có giá trị rất lớn đối với công tác giáo dục thế hệ trẻ.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến đạo
đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ và học sinh. Người cho rằng đạo đức cách
mạng là gốc của người cách mạng. Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo đến
việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Theo Bác, Đảng ta phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, học sinh thành người thừa kế
xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”.

-6-


Năm 1979, Bộ chính trị ra nghị quyết về cải cách giáo dục và Ủy ban cải
cách giáo dục trung ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường
giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học, theo quyết định này thì: ”Nội

dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh từ mẫu giáo đến đại học, nội
dung chủ yếu dựa vào năm điều Bác Hồ dạy”.
Trong những năm 60, 70 của thế kỉ trước nhiều công trình nghiên cứu về
giáo dục đạo đức của nhiều tác giả trong nước đã được công bố từ góc độ tâm lí
học, giáo dục học.
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và trường Đại học sư phạm I Hà nội
đã có những đóng góp rất quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu này với các tác
giả Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong và nhiều
tác giả khác. Để đi đến các quan niệm và các giải pháp về giáo dục đạo đức, các
tác giả đã lực chọn cho mình những cách tiếp cận khác nhau, tạo ra sự đa dạng,
phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu.
- Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức
thông qua giảng dạy các môn khoa học xã hội nhân văn, rèn luyện phương pháp
tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi
dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh.
- Nguyễn Đức Minh nghiên cứu và trình bày cơ sở tâm lý – giáo dục học
của giáo dục đạo đức.
- Phạm Minh Hạc xuất phát từ đặc trưng tâm lý học để khảo sát hành vi
và hoạt động, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc của nhân cách, thực hiện giáo
dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu quan
trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.
- Phạm Tất Dong, trong đề tài mang mã số NN7 “Cải tiến công tác giáo
dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong hệ
thống giáo dục quốc dân”. Đề tài đã nghiên cứu về nhân cách nói chung và về
-7-


giáo dục đạo đức, chính trị tư tưởng ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Các đề tài mang mã số KX.07.01. “Phương pháp luận nghiên cứu con

người” (1991-1995); KHXH-04 “Phát triển toàn diện con người Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996-2000); “Xây dựng con người Việt
Nam theo định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường”
(2001-2005) do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm nhằm nghiên cứu các đề tài về
con người với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội;
nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách, thực hiện giáo dục đạo đức trong
quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu quan trọng nhất của việc
thực hiện chất lượng giáo dục.
Phạm Khắc Chương (1995), “Một số vấn đề về giáo dục đạo đức và
giảng dạy đạo đức ở trung học phổ thông”, Vụ giáo viên.
Huỳnh Khải Vinh (2001), “Một số vấn đề về lối sống đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội” đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức với phát
triển văn hóa và con người, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (2003), “Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”. Đã phân tích những biến
động trong lĩnh vực đạo đức, đánh giá đi đến lý giải vai trò của đạo đức và
khẳng định yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng nền đạo đức mới ở
nước ta hiện nay.
Ngoài ra còn có một số luận án tiến sỹ, đề tài thạc sỹ nghiên cứu vấn đề
đạo đức, nhân cách học sinh sinh viên như:
Luận án tiến Sỹ triết học của Trần Sỹ Phán (1999), “Giáo dục đạo đức
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”.
-8-


Đỗ Tuyết Bảo (2008), ” Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học
cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay”.
Nguyễn Sĩ Quyết Tâm (2008), “ Giáo dục tinh thần yêu nước xã hội chủ

nghĩa cho học sinh THPT ở miền Đông Nam Bộ hiện nay”.
Trong một số tạp chí, có một số bài viết xung quanh vấn đề đạo đức như:
“thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông” của Phạm Khắc Chương (tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2 – 1997);
Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị
trường” của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học, số 5 – 1996.
Gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số 2516/BGD&ĐT
ngày 18/5/2007 về việc thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành giáo dục. Ngày 29/8/2007 Bộ giáo
dục ban hành Số: 50/2007/QĐ-BGDĐT về “Quy định về công tác giáo dục
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên”. Ngày 18 và
19/7/2008 tại Đồng Nai, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội thảo toàn quốc
với chủ đề “ Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên ở nước ta: thực trạng và giải
pháp”, đã thu hút được đông đảo các nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục tham
gia thảo luận. Gần đây nhất, ngày 11/4/2014 tại Hà Nội Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã tổ chức “Hội thảo toàn quốc về công tác giáo dục đạo đức lối sống cho học
sinh, sinh viên” đã thu hút được đông đảo các nhà khoa học, nhà quản lý giáo
dục tham gia thảo luận.
Như vậy, có thể nói những vấn đề về đạo đức, giáo dục đạo đức cho học
sinh, sinh viên đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu. Các công trình trên
đã phân tích vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, rất phong phú, đa dạng và có
chiều sâu. Song, qua các tài liệu tìm được chúng tôi thấy chưa có công trình nào
trực tiếp nghiên cứu giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay.
Song những tư liệu trên là hết sức quý giá để tác giả tham khảo trong quá trình
-9-


nghiên cứu và đề xuất biện pháp giải quyết. Tác giả đã kế thừa trực tiếp những
nghiên cứu trên đây, dựa vào sự gợi mở của tác giả đi trước về lý luận và
phương pháp để triển khai nghiên cứu của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của đề tài là làm rõ vai trò và nội dung của của giáo dục đạo
đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay trên cơ sở đó đánh giá tình
hình giáo dục đạo đức trong các trường THPT ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Phân tích vai trò và ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT,
những nhân tố tác động tới quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hiện
nay.
- Đánh giá hiện trạng giáo dục đạo đức trong các trường THPT ở nước ta
hiện nay.
- Đề xuất những định hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT phù hợp với hoàn
cảnh và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong
trường THPT .
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- 10 -


Để giải quyết những vấn đề nêu trên, đề tài giới hạn vào các trường
THPT trong khoảng 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp từ các tri thức lý luận chuyên
ngành và liên ngành, tổng kết thực tiễn giáo dục trong các trường THPT. Phân
tích kinh nghiệm giáo dục đạo đức là một trong những phương pháp quan trọng
được tác giả chú ý vận dụng.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài làm sáng tỏ bản chất, nội dung và vai trò của giáo dục đạo đức
cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở khái quát tình hình
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay , đề tài nêu lên những
giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT. Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
giáo dục đạo đức học sinh THPT hiện nay.

- 11 -


Chương 1
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Giáo dục đạo đức
Theo nghĩa rộng, giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân
cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các
quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm
lĩnh những kinh nghiệm của xã hội loài người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu như là hoạt động chuyên biệt nhằm
hình thành những phẩm chất, quan điểm, niềm tin cho con người về các phương
diện đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, lao động.
Như vậy theo nghĩa chung nhất, giáo dục là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng

nào đó, làm cho đối tượng đấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra.
Theo từ điển tiếng Việt, giáo dục là: “Đào tạo và phát triển con người về
các mặt trí tuệ và tình cảm, trau dồi cho con người ý thức trọng sự thật, yêu cái
đẹp, làm điều hay. Phát triển ở con người, và có hệ thống, một khả năng hay
một tình cảm”.4 [tr.330]
Dưới góc độ triết học, có thể hiểu rằng giáo dục là một quá trình hai mặt,
một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục (sự tác động của
tri thức, văn hóa nhân loại thông qua nhà sư phạm đến đời sống của học sinh
Nguyễn Văn Đạm (2004), Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng, NXB Văn hóa thông
tin
4

- 12 -


sinh viên); mặt khác, thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi
bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục.5 [tr.38]
Giáo dục, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, là một hình thái ý
thức xã hội, giáo dục tồn tại và vận động, phát triển theo sự tồn tại, vận động và
phát triển của xã hội. Giáo dục là một hiện tượng xã hội chịu sự chi phối và quy
định bởi nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Mặt khác, sự phát triển
của giáo dục và sự hoàn thiện về chất lượng giáo dục là yếu tố then chốt tạo ra
sự phát triển của xã hội, của nền văn minh nhân loại.
Về bản chất, giáo dục là quá trình tổ chức hoạt động sống, hoạt động và
giao lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo lập tình
cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh trong cuộc
sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội6 [tr.137]
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở của đạo đức xét đến

cùng là lợi ích xã hội và quy luật phát triển của lịch sử. Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh quy luật phát triển của xã hội dưới hình thức giá trị giá trị đạo đức. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc từ lao
động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội, phản ánh và chịu sự chi phối của
tồn tại xã hội. “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội lúc bấy giờ”7 [tr.137].Trong xã
hội có giai cấp bên cạnh những chuẩn mực giá trị đạo đức chung của con người,
còn có chuẩn mực đạo đức phản ánh lợi ích, vị trí vai trò của mỗi giai cấp. Từ
cơ sở trên quan niệm macxit khẳng định: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành nhân cách sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
6
Phạm Viết Vượng (1996), Giáo dục học đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7
Mác – Ăngghen (1995), toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.137
5

- 13 -


phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang
bản chất giai cấp đồng thời mang tình nhân loại.
Như vậy, có thể nói bàn về vấn đề đạo đức có rất nhiều quan niệm khác
nhau, song tựu chung lại chúng ta có thể hiểu đạo đức như sau: “Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.8[tr.8]
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là sự thống nhất trong tư tưởng
và phong cách. Người có đạo đức là người biết kính yêu nhân dân, khiêm tốn,
thật thà, thẳng thắn, có thái độ cầu thị, làm việc chí công vô tư, không kiêu

ngạo, không giấu dốt. Ở Người, đạo đức đóng vai trò như lẽ sống thẩm thấu sâu
vào tư tưởng và chỉ đạo hành động, lối sống
Theo tác giả Trần Hậu Kiêm: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con
người và sự tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người,
giữa cá nhân với xã hội”
Theo hai tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt thì đạo đức là một lĩnh vực
của ý thức xã hội, là một mặt hoạt động xã hội của con người và là một hình
thái chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng xã hội hết sức quan
trọng là điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của xã hội điều hòa và thống nhất các mâu
thuẫn giữa lợi ích chung (của tập thể, của xã hội) và lợi ích riêng (của cá nhân)
Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (2008), Giáo trình đạo đức học, NXB Đại học sư phạm
Hà Nội.
8

- 14 -


nhằm bảo đảm trật tự xã hội và khả năng phát triển xã hội của cá nhân. Để giải
quyết các mâu thuẫn đó, một trong những phương thức của xã hội là đề ra các
yêu cầu dưới dạng những chuẩn mực giá trị, được mọi người công nhận và
được củng cố bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận, lương tâm…
Như vậy, đạo đức không phải được nảy sinh từ bên ngoài xã hội, sự xuất
hiện của đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời
sống xã hội, mà trước hết do nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản
xuất, trong đời sống cộng đồng xã hội. Chúng ta có thể hiểu khái quát các khái
niệm đạo đức trên ở hai góc độ:

- Góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được phản ánh
dưới những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, quy tắc điều chỉnh hành vi của
con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội, lao động
và với con người.
- Góc độ cá nhân: Đạo đức chính là những phẩm chất nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của
họ trong các mối quan hệ giữa con người với xã hội, giữa bản thân với người
khác và với chính bản thân mình.
Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của con người là quá trình tác
động qua lại giữa cá nhân và xã hội, để chuyển hóa những nguyên tắc, yêu cầu,
chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm
cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức, công dân và đáp ứng yêu cầu xã
hội.
Đạo đức có các chức năng cơ bản là:
- Chức năng nhận thức;
- Chức năng giáo dục;
- Chức năng điều chỉnh hành vi.

- 15 -


Ba chức năng này có mối quan hệ khăng khít với nhau, chỉ có nhận thức
đúng về những hành vi, những chuẩn mực đạo đức, những quan hệ xã hội thì
mới giúp cho con người định hướng được thái độ ứng xử với cộng đồng và môi
trường, hình thành được những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Từ
đó, con người mới có được khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội
một cách đúng đắn để điều chỉnh hành vi của mình theo đúng chuẩn mực đạo
đức.
Như vậy, đạo đức tồn tại trong mọi dạng ý thức, hoạt động và giao lưu,
trong toàn bộ hoạt động sống của con người suốt thời gian tồn tại và phát triển

của cá nhân họ, dù diễn ra trong bất kỳ điều kiện và hoàn cảnh nào, mọi hình
thái ý thức hoạt động nếu được ý thức đầy đủ và định hướng rõ rệt về tính chất
và về nội dung của quan hệ đạo đức đều có khả năng ảnh hưởng đến sự hình
thành mặt đạo đức của nhân cách.
Là một hình thái ý thức xã hội đạo đức một mặt được hình thành một
cách tự phát, từ chính cuộc sống hành ngày của con người để đáp ứng đòi hỏi
khách quan của sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, đạo đức phải là kết quả của sự
giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân theo các chuẩn mực giá
trị đạo đức của xã hội.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng là một quá trình bao gồm
hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt
khác thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự
hoàn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục.
Giáo dục đạo đức trong nhà trường là một quá trình giáo dục bộ phận của
quá trình sư phạm tổng thể. Nó có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo
dục bộ phận khác như: giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất,
giáo dục lao động, giáo dục hướng nghiệp…

- 16 -


Giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình hình thành và phát triển các
phẩm chất đạo đức của nhân cách học sinh dưới những tác động và ảnh hưởng
có mục đích được tổ chức có kế hoạch, có sự lựa chọn về nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi và với vai trò chủ đạo của nhà
giáo dục. từ đó giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối
quan hệ với cá nhân, cộng đồng, với lao động, với tự nhiên… Nội dung phẩm
chất đạo đức, tư tưởng của con người bao gồm lập trường chính trị, thế giới
quan và phẩm chất đạo đức. Do đó giáo dục đạo đức mà ta nói đến bao gồm
giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, giáo dục tư tưởng chính trị và giáo dục

các phẩm chất đạo đức cao đẹp của con người mới cho học sinh. Như vậy, giáo
dục đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo
dục pháp luật. Đó là một quá trình lâu dài, liên tục về thời gian, rộng khắp về
không gian, từ mọi lực lượng xã hội; trong đó nhà trường giữ vai trò rất quan
trọng.
Bản chất của giáo dục đạo đức là chuỗi tác động có tính định hướng của
chủ thể giáo dục và yếu tố tự giáo dục của học sinh, giúp học sinh chuyển
những chuẩn mực, quy tắc, nguyên tắc đạo đức… từ bên ngoài xã hội vào bên
trong thành cái của riêng mình, mà mục tiêu cuối cùng là hành vi đạo đức phù
hợp với những yêu cầu của các chuẩn mực xã hội. Giáo dục đạo đức không chỉ
dừng lại ở việc truyền thụ những khái niệm, những tri thức đạo đức mà quan
trọng hơn thế là kết quả giáo dục phải được thể hiện qua tình cảm, niềm tin, và
đặc biệt là hành động thực tế của học sinh.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục truyền thống tốt đẹp của cha
ông ta, giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc và sự kế thừa, tiếp thu những tinh hoa
văn hóa của nhân loại; giúp học sinh thấy được và biết giữ gìn những thành quả
của cha ông để lại. Vì thế, giáo dục đạo đức trong nhà trường chỉ có được kết
quả khi nhà giáo dục biết tổ chức phù hợp, hình thức đa dạng phong phú, khơi
- 17 -


dậy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh biết chuyển
hóa những cái tốt đẹp đó thành phẩm chất, nhân cách của mình, phục vụ cho
cuộc sống xã hội.
Trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước do Đảng ta lãnh đạo
nhằm mục đích xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng trở nên giàu đẹp cần đến
rất nhiều yếu tố nhưng yếu tố cơ bản, tiên quyết và then chốt đó là nguồn lực
con người. Đó phải là những con người mới, những con người phát triển toàn
diện về mọi mặt trong đó đức là gốc, là nền tảng để sử dụng hữu ích tài năng
giúp mình, giúp đất nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: có đức mà không

có tài thì không đủ năng lực điều hành công việc. Có tài mà không có đức dẫn
tới hỏng việc, có hại cho cách mạng. Với chiến lược phát triển con người toàn
diện phục vụ cho cách mạng, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc thế hệ trẻ Việt Nam đang đứng trước những thử thách và cơ hội to lớn. thế
hệ trẻ Việt Nam là đối tượng được chú ý đầu tiên, chú ý nhiều nhất bởi họ ”là
người chủ tương lai của nước nhà” và “muốn hồi sinh dân tộc, trước hết phải
hồi sinh thanh niên”. Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia có nền công nghiệp
phát triển, sánh vai với các nước trên thế giới. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào sự
phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ có lòng tự cường, tự trọng, tự lập có đủ trí
tuệ và năng lực tham gia thực hiện sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển giáo dục sao cho có chất lượng, hiệu quả, đào tạo thế hệ trẻ
đảm bảo về chất lượng và đủ số lượng để gánh vác trọng trách yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đó là một thách thức và yêu cầu to lớn của công
cuộc thay đổi căn bản toàn diện GD&ĐT đang tiến hành hiện nay, nhằm thực
hiện yêu cầu của xã hội về con người đối với sự phát triển bền vững. Qua đó
khai thác, phát triển toàn diện, toàn bộ tiềm năng của mỗi cá nhân và cả cộng
đồng để tạo ra nội lực cho sự phát triển.

- 18 -


Chính vì vậy, việc xây dựng và giáo dục đạo đức cho thanh niên, học
sinh có vai trò vô cùng quan trọng.
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X, Đảng ta xác định: “Thanh niên là lực
lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai,
vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm công
việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo”9[tr.35], và học sinh THPT
cũng nằm trong lực lượng đó.
Điều 2 Luật Giáo dục (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 đã ghi rõ: “Mục tiêu giáo

dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp,…; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”10[tr.3].
Giáo dục đạo đức là một trong những yếu tố góp phần cho sự phát triển
tâm lực của học sinh phổ thông. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giáo dục và
đào tạo ra những con người phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa.
Giáo dục đạo đức là hình thành cho con người những quan điểm, những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản của xã hội. Nhờ đó, con người có khả
năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự
đánh giá suy nghĩ và hành vi của bản thân mình. Công tác giáo dục đạo đức góp
phần vào việc hình thành, phát triển nhân cách phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của con người. Giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hóa đạo đức xã
hội thành văn hóa đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, kinh
9

Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương 7 khóa X
Luật Giáo dục (2005), NXB Chính trị quốc gia.

10

- 19 -


nghiệm, chuẩn mực và lý tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức
cá nhân, làm phát triển ý thức, năng lực đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức,
năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội.
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là giúp cho mỗi cá nhân nhận thức đúng

đắn các giá trị đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, công bằng và nhân đạo, biết
sống vì mọi người, vì gia đình, vì tiến bộ xã hội và sự phồn vinh của đất nước.
Trong đó mục đích quan trọng nhất của giáo dục đạo đức là tạo lập những thói
quen, hành vi đạo đức.
Như vậy, giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục
đích, có hệ thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục (học
sinh) để bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vi đạo
đức) phù hợp với yêu cầu của xã hội.
1.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở
nước ta hiện nay
1.2.1 Một số đặc điểm kinh tế xã hội và học sinh THPT ở nước ta
hiện nay
1.2.1.1 Một số đặc điểm về kinh tế, xã hội và giáo dục ở nước ta hiện
nay
Sau 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện thực hoá đường lối đó, chúng
ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ
XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định
trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự
thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

- 20 -


thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của
đổi mới đất nước. Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng
vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày
càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân. Nền

ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần
Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không ngừng mở rộng các quan
hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã phát
huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh vác
được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao phó. Những thành tựu đó đã làm cho
sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao.
Đó là những yếu tố quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện
sự nghiệp đổi mới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào
năm 2010 và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020.
Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi
mới, vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt những mâu thuẫn của
quá trình phát triển. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh thấp. Khó khăn này sẽ tăng lên rất lớn, đặc biệt là đối với
doanh nghiệp, khi AFTA có hiệu lực đầy đủ đối với nước ta và nước ta chính
thức gia nhập WTO. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển
kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt. Thất thoát, lãng phí trong quản lý
kinh tế, đặc biệt trong quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý doanh
nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
- 21 -


Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề
ra. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện luật
pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa
giải quyết tốt.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả
năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm
được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động
tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm
cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống
của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai
căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ
tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống
mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình
hình gia tăng hơn... Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có
hiệu quả tình trạng đó.
1.2.1.2. Một số đặc điểm của học sinh THPT ở nước ta hiện nay
Học sinh THPT ở nước ta hiện nay có những đặc điểm như:
- Đặc điểm về mặt sinh lý:
Về hệ thần kinh, cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh đi vào hoàn thiện
nên các chức năng như tư duy, ngôn ngữ và các phẩm chất ý chí có điều kiện
phát triển; về mặt hình thể: chiều cao cân nặng đã chậm lại, sức bền, sức mạnh

- 22 -


được tăng cường; về mặt giới tính: cơ thể các em đã có sự thay đổi rõ rệt do đa
phần các em đã trải qua tuổi dậy thì
- Đặc điểm về mặt xã hội:
Trong gia đình: các em sống có trách nhiệm hơn và ở độ tuổi này gia đình có
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tính cách của con trẻ; ở nhà trường: các em
có thái độ tự giác hơn, do đó hoạt động học tập mang ý nghĩa trực tiếp đến các

em; ở xã hội: các em chủ động trong việc tham gia giao tiếp, có ý thức trách
nhiệm trong việc lựa chọn ngành nghề tương lai và nhận thức được ý nghĩa
cũng như tích cực tham gia các hoạt động xã hội.
- Đặc điểm về mặt giao tiếp, đời sống:
Nhu cầu giao tiếp, quan hệ với bạn bè chiếm vị trí quan trọng nhất, các em
nhìn thấy bản thân qua bạn bè và được khẳng định qua nhóm. Cùng với sự thay
đổi mối quan hệ dựa dẫm cha mẹ đã dần thành quan hệ bình đẳng và tự lập. Khi
học sinh tham gia nhiều nhóm xã hội việc xác lập giá trị bản thân và bản thân
cũng xảy ra sự xung đột vai trò xã hội; nhu cầu xác định vị trí xã hội, đây chính
là nhu cầu tự khẳng định mình như được bình đẳng trước pháp luật, tham gia
các hoạt động đoàn thế xã hội, các em có nhu cầu được xã hội thừa nhận về thủ
tục hành chính và việc thực hiện quyền đó.Biểu hiện của nhu cầu này là:
- Sự phát triển nhân cách:
Sự phát triển của sự tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển của
lứa tuổi này. Các em ý thức được sự phát triển của cơ thể, hình thành hình ảnh
về bản thân. Từ sự tự ý thức phát triển thì sự tự đáng giá cũng phát triển, ở lứa
tuổi này cac em có xu hướng cường điệu khi đánh giá, hoặc đánh giá thấp cái
tích cực, tập chung phê phán cái tiêu cực hoặc đánh giá quá cao bản thân mình.
Do đó những người giáo dục cần chú trọng đền việc giúp đỡ các em hình thành
biểu tượng đúng đắn về bản thân

- 23 -


1.2.2. Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở
nước ta hiện nay
Điều lệ trường trung học ở nước ta quy định, học sinh THPT trong độ
tuổi từ 15-18 tuổi. Với độ tuổi này học sinh THPT thuộc giai đoạn đầu của lứa
tuổi thanh niên. Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Đây là độ
tuổi mà hoạt động tư duy ghi nhớ, chú ý, hứng thú, khát vọng, ý chí, tình cảm

và cảm xúc đều biến đổi rất lớn so với độ tuổi thiếu niên. Họ có sức khỏe dồi
dào, bộ máy thần kinh và hoạt động thần kinh bậc cao trung đã hoàn thiện nên
có phản xạ chính xác, nhanh nhẹn, dễ thích ứng hơn với các tác động khác nhau
của hiện thực xung quanh, hăng hái trong hoạt động, ham hiểu biết, thích đổi
mới, nhu cầu về tình bạn, tình yêu phát triển mạnh, những đặc điểm này tác
động mạnh đến sự hình thành tư tưởng chính trị và khi họ đã xác định được
niềm tin, lý tưởng, họ có thể xả thân và phấn đấu với niềm lạc quan, để đạt
được niềm tin và lý tưởng đó.
Tư duy của học sinh THPT đã có tính hệ thống, tính phê phán cao, do
vậy khi tiếp thu tri thức chính trị, nhất là tri thức lý luận họ thường đòi hỏi phải
chứng minh, luận giải chặt chẽ. Vì có sự hiểu biết, họ có khả năng tranh luận,
khả năng tìm tòi đọc thêm sách báo, các nguồn thông tin khác để bổ sung cho
tri thức của mình. Sự phát triển hoàn chỉnh về tâm sinh lý cũng cho phép họ có
khả năng tự tìm hiểu, tự nghiên cứu những vấn đề chính trị, xã hội. Học sinh
THPT thích hoạt động cộng đồng, thích giao lưu. Vì vậy họ tự nguyện và tích
cực tham gia các hoạt động đoàn thể, hoạt động lớp, hoạt động chính trị xã hội,
và chính thông qua các hoạt động đó họ được rèn luyện năng lực thực tiễn. Ở
học sinh THPT không có tính bảo thủ trì trệ như người lớn tuổi. Vì vậy, họ dễ
thích ứng với các chủ trương chính sách mới. Vì họ quan tâm đến tương lai,
luôn hướng về tương lai nên họ cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất

- 24 -


nước, của thời cuộc. Điều đó giúp họ xác định được phương hướng tiến thân,
lập nghiệp.
Khả năng cảm thụ cảm xúc, đồng cảm của học sinh THPT phát triển cao,
do vậy họ cởi mở để hòa nhập, thích những hình thức hoạt động văn hóa nghệ
thuật, dễ cảm thông với người khác. Ở họ kinh tế chưa độc lập, còn phụ thuộc
gia đình. Vì vậy họ coi trọng gia đình, coi trọng các mối quan hệ xã hội.

Nội dung giáo dục THPT có tính chất cơ bản, phổ cập, không bị gián
đoạn, ít va chạm trong thực tế, nên khi học ở THPT đảm bảo tính liên thông,
tính kế thừa và phát triển. Khi học ở bậc THPT họ đã ý thức mình thông qua
các chủ trương chính sách, quy định, quy chế hiện hành. Vì vậy họ phải có sự
tự điều chỉnh, tự rèn luyện, sự vươn lên trong môi trường THPT. Những tác
động trên đã đưa họ vào những hoạt động cụ thể một cách tích cực, chủ động.
Nghiên cứu những đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh THPT là một
trong những căn cứ giúp chúng ta xác định nội dung, phương pháp, cách thức tổ
chức giáo dục đạo đức phù hợp trong quá trình giáo dục các em.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng CNXH phải có con
người thấm nhuần đạo đức XHCN”11 [tr.264-265]. Trong số các đối tượng phải
thấm nhuần đạo đức XHCN mà Bác nói đến học sinh THPT là đối tượng quan
trọng. Đạo đức, nhất là đạo đức của học sinh THPT được hình thành chủ yếu
qua con đường giáo dục.
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói chung, học sinh THPT ở nước
ta hiện nay nói riêng trước tiên có tác dụng cung cấp tri thức cho học sinh. Giúp
cho các em hiểu rõ những chuẩn mực đạo đức của xã hội: nghĩa vụ, lương tâm,
nhân phẩm, danh dự… hay đơn giản là từ cử chỉ, điệu bộ, lời ăn tiếng nói trong
cuộc sống hàng ngày. Góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát sang
tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức

- 25 -


×