Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.1 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LỆ

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM
PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.HÀ THỊ THƯ
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 27 tháng 06 năm 2016
Học viên

Đỗ Thị Lệ



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT ............................................ 13
1.1 Trẻ em vi phạm pháp luật: khái niệm và đặc điểm................................................. 13
1.2 Lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật .................. 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm
pháp luật ................................................................................................................................... 25
1.4 Cơ sở pháp lý về Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật ..... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ
EM VI PHẠM PHÁP LUẬT TẠI TỈNH QUẢNG NINH ..................................... 34
2.1.Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu...................... 34
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp
luật ............................................................................................................................................. 40
2.3 Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ em
vi phạm pháp luật ................................................................................................................... 56
Chương 3: BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT ............................................ 65
3.1. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách pháp luật phát
triển nghề Công tác xã hội ................................................................................................... 65
3.2. Truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng ................................................. 66
3.3. Nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn Công tác xã hội cho đội ngũ
cán bộ làm việc với trẻ vi phạm pháp luật ....................................................................... 67
3.4. Mở rộng mạng lưới trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp luật ....................................... 69
3.5. Chủ động bố trí kinh phí địa phương hằng năm để đảm bảo thực hiện tốt
các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật ............................... 70
3.6. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ trong việc trợ giúp cho trẻ vi phạm
pháp luật ................................................................................................................................... 71
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 75
PHỤ LỤC................................................................................................................................ 79


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các hành động sai lệch mà trẻ đã từng thực hiện ........................... 38
Bảng 2.2: Các hoạt động giải trí nhóm mà trẻ nói rằng đã được tham gia ..... 46
Bảng 2.3: Hoạt động hỗ trợ kết nối dạy nghề và tạo việc làm cho trẻ vi phạm
pháp luật .......................................................................................................... 53
Bảng 2.4: Những việc các em thường làm trong thời gian rảnh rỗi ............... 60
Bảng 2.5: Hành động khi bị người khác gây gổ, bắt nạt (%).......................... 61


DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu đồ 2.1: Khu vực sinh sống của trẻ em vi phạm pháp luật ...................... 37
Biểu đồ 2.2: Nội dung giáo dục nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật ...... 41
Biểu đồ 2.3: Hình thức truyền thông ............................................................... 43
Biểu đồ 2.4: Các kỹ năng xã hội trang bị cho trẻ vi phạm pháp luật .............. 48
Biểu đồ 2.5: Các nghề mà trẻ được hỗ trợ kết nối dạy và tạo việc làm .......... 54
Biểu đồ 2.6: Trình độ chuyên môn của Nhân viên công tác xã hội ................ 56
Biểu đồ 2.7: Đánh giá năng lực làm việc của nhân viên công tác xã hội ....... 57
Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ kinh phí hoạt động............................................................. 59
Biểu đồ 2.9: Nhận thức về hậu quả trẻ em vi phạm pháp luật ........................ 62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là những con người chưa trưởng thành về mặt thể chất, tâm lý
và xã hội, dễ bị tổn thương do những tác động của môi trường sống, cần được
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng công tác

chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Để thúc đẩy việc thực hiện quyền trẻ
em, rất nhiều Chỉ thị đã được ban hành về việc tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
trong đó khẳng định trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân
tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần được ưu
tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Trong phạm vi khả năng, cần tạo điều kiện
tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát triển toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ. Đồng thời nhấn mạnh công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ
trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc
chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình trạng vi phạm pháp luật ở trẻ
em có chiều hướng gia tăng, tính chất phạm tội ngày càng nguy hiểm để lại
nhiều hậu quả nặng nề. Quảng Ninh là một tỉnh giáp biên giới có điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển. Cùng với sự biến đổi nhanh chóng về tình
hình kinh tế - xã hội, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật tại đây có chiều
hướng gia tăng và diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ nghiêm trọng,
đặc biệt ở trẻ vị thành niên. Tính một cách tổng thể từ năm 2000 đến nay, theo
số liệu thống kê của Công an tỉnh Quảng Ninh, toàn tỉnh đã xảy ra 1.966 vụ
với 2.834 đối tượng trong lứa tuổi vị thành niên vi phạm pháp luật [52, tr.3].
Số người chưa thành niên vi phạm pháp luật và bị khởi tố hình sự chiếm tỷ lệ
cao so với toàn quốc (đứng thứ 5 sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nghệ
An và Hải Phòng) [74, tr.2]. Tội danh mà người chưa thành niên phạm phải

1


chủ yếu là các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội; xâm phạm sở hữu tài sản
như: trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản; gây rối trật tự công cộng, chống
người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, hiếp dâm.Những năm gần đây,

tỉnh Quảng Ninh nổi lên tình trạng một bộ phận thanh thiếu niên bỏ nhà sống
lang thang, tụ tập và sử dụng hung khí nguy hiểm thực hiện những hành vi vi
phạm pháp luật nghiêm trọng. Một số loại tội phạm trước đây không có hoặc
ít thấy trong độ tuổi chưa thành niên thì nay có xu hướng gia tăng như: buôn
bán, tàng trữ, sử dụng ma túy; xâm phạm sức khỏe và tính mạng con người.
Công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề mới ở Việt Nam mặc
dù nó có nguồn gốc và lịch sử phát triển hơn một thế kỷ qua trên thế giới. Với
bản chất là hướng đến sự trợ giúp con người trong cuộc sống, nhất là những
đối tượng thuộc nhóm bất lợi hoặc dễ bị tổn thương bằng các hình thức can
thiệp dựa trên góc độ tâm lý hay các mô hình can thiệp từ cá nhân, đến nhóm
và cộng đồng, công tác xã hội thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội, nhất là trong xã hội hiện đại, xã hội công nghiệp, cũng như trong xã
hội lấy vấn đề phúc lợi, công bằng làm định hướng phát triển. Tuy nhiên, hiện
nay những nghiên cứu về hoạt động công tác xã hội còn khá mới mẻ, đặc biệt
chưa có nhiều công trình nghiên cứu đến hoạt động công tác xã hội nhóm đối
với trẻ em vi phạm pháp luật. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác
xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ninh” làm nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1.Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Tình trạng vi phạm pháp luật là một dạng đặc biệt của các hiện tượng sai
trái trong xã hội, có tính nguy hiểm cho xã hội cao nhất. Nó không chỉ đơn thuần
là hiện tượng xã hội mà còn là hiện tượng pháp luật hình sự. Vì vậy, các vấn đề
về tình trạng vi phạm pháp luật được coi là đối tượng nghiên cứu của ngành tội
phạm học ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

2


Hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là một thực tế tồn tại trong tất cả

các quốc gia. Nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề người chưa
thành niên vi phạm pháp luật và giáo dục lại đối tượng này. Từ những năm
đầu thế kỷ XX, nhà giáo dục vĩ đại Nga A.X.Macarenco đã có những cống
hiến rất lớn về vấn đề giáo dục trẻ em hư, phạm pháp trên cả phương diện lý
luận lẫn thực tiễn. Trong quá trình làm việc với những trẻ em vi phạm pháp
luật, trẻ em vô gia cư, vô thừa nhận..., tác giả đã xây dựng hệ thống lý luận giáo
dục và cải tạo trẻ em vi phạm pháp luật với những quan điểm nhân đạo và tiến
bộ. Với nguyên tăc “vàng” là “tôn trọng và yêu cầu cao đối với trẻ”. Lý luận đó
của ông đã được đúc kết thành công trong việc cải tạo, giáo dục hàng nghìn trẻ
em hư hỏng, lưu manh, vi phạm pháp luật..., biến chúng từ những “cặn bã” của
xã hội trở thành những công dân tích cực và có ích cho xã hội.
Tác giả A.I.Cochetop trong công trình nghiên cứu “Những vấn đề lý
luận giáo dục” đã nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề giáo dục lại. Theo
ông, công tác giáo dục lại bao gồm việc giáo dục những trẻ em vô kỷ luật,
tăng cường chăm sóc những trẻ em lêu lổng và việc cải tạo những trẻ em
phạm pháp. Ông đã chỉ ra những nguyên nhân của trẻ có biểu hiện tính chất
khó dạy, đó là nguyên nhân xã hội, nguyên nhân tâm lý, nguyên nhân giáo
dục. Đặc biệt trong đó là nguyên nhân giáo dục. Từ đó, tác giả đi sâu phân
tích khái niệm, nội dung và những yêu cầu của hệ thống các phương pháp
giáo giục lại [3].
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, có nhiều công trình nghiên cứu
của các tác giả ở nhiều nước đề cập đến vấn đề trẻ em, đặc biệt ở lứa tuổi vị
thành niên phạm tội. Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như sau:
(1) Trong cuốn sách “Tư pháp vị thành niên - Chính sách, thực tiễn và
Pháp luật” tác giả H.Ted Rubin đã nghiên cứu về vấn để tư pháp vị thành niên
ở Mỹ. Tác giả đã đề cập đến những vấn đề chính như: tội phạm nghiêm trọng
và tái phạm đối với trẻ vị thành niên, vai trò của cơ quan cảnh sát đối với đối

3



tượng này, quá trình giáo dưỡng và phi xét xử, cơ quan công tố trong tư pháp
vị thành niên, tổ chức tòa án vị thành niên, cơ cấu lại hệ thống tư pháp vị
thành niên [25].
(2) Tác giả A.I.Dongova đã nghiên cứu về khía cạnh tâm lý - xã hội về
tình trạng phạm tội của người chưa thành niên ở Liên xô cũ [9].
(3) Zhang Wenbang, Chen Banglins, Zhou Zuyong đã nghiên cứu thực
trạng tình hình tội phạm thanh thiếu niên Trung Quốc trong những năm 90 và
đưa ra các biện pháp ngăn ngừa tệ nạn này [30].
(4) Trong cuốn “Phạm nhân vị thành niên: luật, chính sách và thực
hành”, các tác giả đã đề cập đến vấn đề phạm nhân và cảnh sát, chuyển đổi từ
quá trình phạm tội, tòa án vị thành niên và quá trình kết án ở Anh [21].
(5) LA.Dvojmennyj, V.A.Lelekov đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của gia
đình đến tình trạng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên ở Nga [10].
(6) Tác giả Rita Reddy đã nghiên cứu về chiến lược và kinh nghiệm
phòng ngừa trẻ em lang thang, phạm pháp trong khu vực Đông Nam Á. Tác
giả tập trung đề cập về vấn đề luật pháp, giới thiệu các kinh nghiệm can thiệp
của cộng đồng một số nước khu vực Đông Nam Á như: Thái Lan, Philippine,
Malaysia [24].
(7) Trong bài viết “Những nguyên nhân xã hội của tội phạm vị thành
niên ở Hồng Koong” tác giả đã trình bày nghiên cứu của mình về những
nguyên nhân xã hội dẫn đến tình trạng phạm tội của vị thành niên [20]...
Như vậy, ở rất nhiều nước trên thế giới vấn đề trẻ em vi phạm pháp
luật, đặc biệt là trẻ vị thành niên được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau. Hệ thống hóa các công trình nghiên cứu kể trên, tôi thấy các hướng
nghiên cứu tập trung vào các vấn đề như: Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp
luật nói chung và tình hình trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật nói riêng;
Nghiên cứu nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình vi phạm pháp
luật; Nghiên cứu đến các chính sách pháp luật, hệ thống thi hành pháp luật xử


4


lý vị thành niên phạm tội và nghiên cứu hệ thống các biện pháp phòng ngừa,
hạn chế tình trạng phạm tội của trẻ em, đặc biệt là trẻ vị thành niên.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, từ sau khi nước ta dành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặt vấn đề: “phải giáo dục lại nhân dân chúng ta...”. Đảng và
Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục lại trẻ em hư, người chưa thành
niên vi phạm luật trong toàn bộ công tác giáo dục trẻ. Từ đó, các Bộ, Ngành,
Cơ quan chức năng luôn đặc biệt quan tâm và chú trọng về vấn đề này. Qua
đó, một số công trình và dự án nghiên cứu tình hình, nguyên nhân và các giải
pháp ngăn chặn, giáo dục lại trẻ em phạm pháp của các Viện nghiên cứu,
Tổng cục Cảnh sát, Công an các tỉnh, thành... thực hiện. Bên cạnh đó, ở các
địa phương một số đề tài nghiên cứu về vấn đề trẻ em hư và vi phạm pháp
luật cũng được thực hiện. Có thể điểm qua một số công trình, nghiên cứu cụ
thể như sau:
Năm 1991, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thực hiện đề tài “Tình
hình, nguyên nhân và các giải pháp đấu tranh phòng ngừa người chưa thành
niên phạm tội”. Đề tài đã nghiên cứu tình hình người chưa thành niên vi phạm
pháp luật trong thời gian từ năm 1987-1990, nêu lên những nguyên nhân cơ
bản, trực tiếp làm phát sinh, phát triển tình hình người chưa thành niên phạm
tội ở các tầm vĩ mô, vi mô và dự báo xu hướng trong những năm tới.
Năm 1991, Viện khoa học hình sự cũng nghiên cứu đề tài “Tình hình
thanh thiếu niên phạm pháp ở Việt Nam và xu hướng đến năm 2000”. Đề tài
tập trung phân tích, đánh giá và phác thảo bức tranh khái quát vê thực trạng
phạm tội của thanh thiếu niên Việt Nam trong 10 năm (1978-1988); Dự báo
xu hướng phát triển của tội phạm thanh thiếu niên đến năm 2000; Nêu ra và
phân tích các yếu tố tác động đến tình hình và xu hướng phạm tội trong thanh
thiếu niên, từ đó kiến nghị hệ thống các biện pháp phòng chống tội phạm

trong thanh niên.

5


Năm 1994, Tổng cục Cảnh sát nhân dân thực hiện đề tài “Tội phạm ở
Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”. Trên cơ sở đánh giá khái
quát thực trạng tội phạm và nguyên nhân dẫn đến tội phạm, đề tài cũng dự
bào tình hình tội phạm đến năm 2000 và đưa ra phương hướng phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Năm 1996, Viện nghiên cứu thanh niên trong “Tổng luận về tình hình
vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên hiện nay” đã đưa ra một bức
tranh khái quát về tình hình thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, nguyên nhân
dẫn đến tình trạng phạm tội của thanh thiếu niên và đề xuất những biện pháp
phòng ngừa hiện tượng này.
Năm 1985, Phân viện Khoa học giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh
đã thực hiện “Dự án ngăn chặn và giáo dục lại trẻ chưa ngoan và trẻ phạm
pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh” [19]. Các tác giả đã khái quát về thực trạng
trẻ phạm pháp và trẻ chưa ngoan ở Thành phố từ năm 1977-1985, nêu lên
những nguyên nhân của thực trạng và các biện pháp ngăn chặn và giáo dục lại
chưa ngoan, phạm pháp.
Năm 2000, Tổng cục Cảnh sát tiếp tục “Nghiên cứu các giải pháp
phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật” nhằm đề ra các giải pháp đồng bộ, có
tính khả thi trong việc giảm tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật, góp phần
thực hiện chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thời kỳ 2000-2010.
Năm 2010, ông Đàm Hữu Đắc - Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội cũng chủ trì một đề tài nghiên cứu về “Thực trạng vấn đề tệ
nạn xã hội và công tác phòng chống tệ nạn xã hội trong thời kỳ đổi mới”. Mặc
dù đề tài chỉ tập trung vào hai dạng tệ nạn xã hội là ma túy và mại dâm,
nhưng nhóm nghiên cứu đã phác họa được những nét khái quát về nguyên

nhân và thực trạng vấn đề thanh niên và trẻ vị thành niên tham gia vào các tệ
nạn. Bức tranh chung có phần ảm đạm về tình hình tệ nạn xã hội được đưa ra

6


trong đề tài là những lời cảnh tỉnh thiết thực với các nhà quản lý, giáo dục,
phòng chống và ngăn chặn tình hình trẻ vi phạm pháp luật.
Năm 2012, tác giả Đặng Lệ Thu và một nhóm nghiên cứu thuộc Học
viện cảnh sát đã tiến hành một đề tài nghiên cứu can thiệp “Định hướng nghề
nghiệp cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 - Yên Mô - Ninh Bình - Thực
trạng và giải pháp”. Nhằm tìm hiểu về thực trạng công tác định hướng nghề
nghiệp và đào tạo nghề cho học sinh trong các trường giáo dưỡng thuộc Bộ
Công an hiện nay. Tác giả đã tiến hành khảo sát với phương pháp phỏng vấn
bằng bảng hỏi đối với 196 học sinh (trên 15 tuổi) đang học tập, tu dưỡng tại
trường và tham gia trực tiếp vào hoạt động tham vấn nghề nghiệp cho các học
sinh, giúp các em chủ động lựa chọn nghề nghiệp, căn cứ vào khả năng, sở
trường, sở thích của các em. Qua đó, tác giả cho rằng, vai trò định hướng của
các đơn vị, cá nhân có liên quan đến hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh
giáo dưỡng còn chưa được phát huy.
Ngoài ra, một số công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề này được thể
hiện trong các tác phẩm, bài báo khoa học: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
quá trình giáo dục lại học sinh hư, học sinh phạm pháp” [12]; “Bước đầu tìm
hiểu quá trình biến đổi tâm lý của trẻ bình thường đến vị thành niên phạm
pháp [22]; Tìm hiểu nguyên nhân trẻ em phạm pháp và việc nghiên cứu nhân
cách” [15]; Vấn đề gia đình và trẻ em phạm pháp [16]; Một số vấn đề tâm lý
học về thiếu niên phạm pháp” [23]...
Nhìn chung, các công trình, đề tài nghiên cứu đều chú trọng đến tình
hình vi phạm pháp luật của trẻ em đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên, nguyên
nhân của tình trạng này và những biện pháp ngăn chặn, giáo dục lại. Qua đó,

các nhà nghiên cứu đã góp phần làm nên hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn
sâu sắc về quá trình giáo dục lại trẻ em hư, phạm pháp. Từ đó, cũng cho thấy
vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật đang ngày trở nên nóng bỏng và phức tạp ở

7


tất cả các địa phương trong cả nước, trong đó có tỉnh Quảng Ninh, đòi hỏi có
sự quan tâm của các cấp, ban, ngành đoàn thể và cộng đồng.
Như đã đề cập ở trên, tình hình trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh có những diễn biến phức tạp. Hiện nay, chưa có công trình
nào tập trung nghiên cứu sâu về thực trạng, các giải pháp, biện pháp can thiệp
hỗ trợ cho nhóm trẻ em vi phạm pháp luật với những diễn biến phức tạp đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em
vi phạm pháp luật tại Quảng Ninh; các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội
nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó đưa ra các biện pháp thúc đẩy
hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa các khái niệm, lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu, từ đó
xây dựng cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm trong việc trợ giúp cho trẻ em
vi phạm pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này.
Khảo sát và đánh giá thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật tại tỉnh
Quảng Ninh hiện nay; Các hoạt động của công tác xã hội tới nhóm trẻ này và
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này.
Đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với trẻ
em vi phạm pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm đối
với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

8


4.2 Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu khách thể chính đó là trẻ em. Ngoài ra, còn có các
cán bộ làm công tác Lao động - Thương binh và Xã hội, cộng tác viên công
tác xã hội.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác xã hội
nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh qua 4
hoạt động: Hoạt động giải trí nhóm; Hoạt động giáo dục nhóm; Hoạt động
phát triển kỹ năng xã hội cho nhóm; Hoạt động hỗ trợ dạy nghề và kết nối
việc làm.
Phạm vi về khách thể: Nghiên cứu trên 100 trẻ em, có độ tuổi từ 14 - 18
tuổi; 30 cán bộ có liên quan tới trẻ đang làm việc tại các phường, xã.
Phạm vi về thời gian, địa bàn: Từ tháng 02/2016 - 6/2016 tại Thành
phố Hạ Long và Thị xã Đông Triều.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, trong đó:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng: Đề tài xem xét hoạt động công
tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật trong mối quan hệ với các yếu tố
môi trường gia đình và xã hội, đặt vấn đề trong một tổng thể. Những vấn đề
liên quan đến trẻ vi phạm pháp luật và các phương pháp thực hiện công tác xã
hội chuyên nghiệp được phân tích theo các tương quan để đưa ra một kết luận
khách quan, toàn diện.

- Phương pháp luận duy vật lịch sử: Đối tượng nghiên cứu được đánh
giá, phân tích theo một trục thời gian, mang tính lịch sử rõ nét. Qua đó, các
vấn đề và yếu tố liên quan trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh, đối chiếu

9


theo các thời kỳ lịch sử, đảm bảo tính xác thực và toàn vẹn trong trình bày kết
quả nghiên cứu.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và các
tài liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này được áp
dụng phân tích các tài liệu như: Báo cáo về tình hình văn hóa, kinh tế, xã hội
của tỉnh Quảng Ninh, mẫu thu thập thông tin có sẵn của huyện và thành phố
cùng với các báo cáo chuyên ngành của Công an, Tư pháp, Văn hóa Thông
tin, các văn bản quy định…nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
5.2.2 Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin thực
nghiệm mà thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập thông tin về các
quá trình, các hiện tượng xã hội trên cơ sở nghiên cứu của đề tài và mục đích của
cuộc nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ tin cậy của thông tin đã thu thập. Do đó,
trong quá trình thực hiện đề tài, tôi chú trọng quan sát thái độ và cách ứng xử của
trẻ để có cái nhìn khách quan, sinh động về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: Là phương pháp điều tra xã
hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một bảng hỏi cho nhóm đối
tượng trong một khu vực nhất định ở một không gian, thời gian nhất định. Sử
dụng phương pháp này, có thể thu thập được một lượng thông tin lớn mang
tính đại chúng trong quá trình điều tra và thu thập thông tin.
Trong khuôn khổ luận văn và thực hiện đề tài, tôi có xây dựng một

bảng hỏi là tổ hợp các câu hỏi với các chỉ báo, con số định lượng để thu thập
thông tin từ trẻ về hành vi và mức độ vi phạm pháp luật; Thực trạng các hoạt
động xã hội liên quan đến việc trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp luật về giáo dục
nhân cách, pháp lý hoặc tham gia các mô hình hỗ trợ như học văn hóa, học
nghề và tạo việc làm…tại huyện Đông Triều và thành phố Hạ Long. Dữ liệu

10


từ phương pháp này sẽ đem lại kết quả chính cho nghiên cứu.Cơ cấu bảng hỏi
gồm 4 phần:
+ Phần 1: Phần thông tin cá nhân
+ Phần 2: Thông tin về nhu cầu
+ Phần 3: Thông tin về gia đình, bạn bè
+ Phần 4: Phần trả lời câu hỏi (Trong đó, số lượng câu hỏi là 28 câu)
Số lượng phiếu phát ra: 130 phiếu; Số lượng phiếu thu về: 130 phiếu
(Tất cả các phiếu đều hợp lệ).
Phương pháp phỏng vấn sâu: Là phương pháp thu thập thông tin cụ thể
của xã hội học, thông qua những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà
nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh
nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ
của người ấy.
Phỏng vấn sâu được tiến hành với cán bộ huyện/thành phố bao gồm:
Cán bộ lãnh đạo chính quyền, các ban ngành đoàn thể như: Chủ tịch/phó Ủy
ban nhân dân, Tư pháp, Công an,… nhằm tìm hiểu sâu những vấn đề mà nội
dung nghiên cứu mong muốn thực hiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận của luận văn
Đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan tới vấn đề
nghiên cứu như: Vi phạm pháp luật là gì? Trẻ em vi phạm pháp luật là gì?

Các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật và các yếu tố
ảnh hưởng. Bên cạnh đó, đề tài thể hiện được vai trò của công tác xã hội trong
việc trợ giúp trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó mọi người nhận rõ được tầm
quan trọng của nhân viên công tác xã hội hiện nay.

11


6.2 Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đề tài xây dựng nhằm nghiên cứu thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật
từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh và Công tác xã hội nhóm đối với vấn đề này tại
địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó, phát hiện các vấn đề trong thực trạng
nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của hoạt động công
tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh. Đồng thời,
đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người làm công tác xã hội;
Tiếp tục bổ sung hệ thống lý thuyết, thực hành chuyên biệt cho hoạt động
công tác xã hội với trẻ em nói chung và trẻ em vi phạm pháp luật nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu; Kết Luận; Danh mục tài liệu; Phụ lục kèm theo,
luận văn còn có 3 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm với trẻ em vi
phạm pháp luật.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm
pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với
trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

12



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1 Trẻ em vi phạm pháp luật: khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm trẻ em
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 của
Việt Nam “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi”. Theo Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016 quy định: “Trẻ
em là những người dưới 16 tuổi”. Nhưng theo Điều 1 trong Công ước của
Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18
tuổi, trừ trường hợp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn” [2].
- Khái niệm trẻ em vi phạm pháp luật
Từ điển xã hội họ - G.Endruweit và G. Trommsdorff - Nhà xuất bản thế
giới: Trẻ em vi phạm pháp luật là những hành động, hành vi làm trái với
chuẩn mực đạo đức của xã hội. Những hành vi hành động này có tác động có
hại cho xã hội và con người [5].
Một khái niệm khác: Trẻ em vi phạm pháp luật là những người có hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật ở các mức độ khác nhau.
Trẻ vi phạm pháp luật có thể bị xử lý theo Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính hoặc theo Bộ luật Hình sự phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự.
Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: Trẻ em trong độ tuổi từ 14 18 (gọi là người chưa thành niên) sẽ bị xử phạt hành chính về các vi phạm
hành chính có chủ ý và người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên sẽ bị xử phạt
hành chính về các vì bất cứ các vi phạm hành chính nào mà họ gây ra (Pháp

13


lệnh xử lý vi phạm hành chính, số 44/2002/PL-UBTVQH10, ngày 02/7/2002

của Ủy ban thường vụ Quốc hội) [3].
Theo Bộ luật Hình sự: Người chưa thành niên từ 14-16 chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự cho các tội hình sự rất nặng gây ra có chủ ý hoặc các tội
đặc biệt nghiêm trọng. Người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm với mọi vụ án mà họ gây ra. Mục đích chính của việc xử phạt
hình sự người chưa thành niên vi phạm pháp luật là để giáo dục và giúp đỡ
những người này sửa chữa lỗi lầm và phát triển lành mạnh, trở thành những
người công dân có ích (Bộ luật Hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2009, số
37/2009/QH12, ngày 19/6/2009 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam [3].
Tóm lại, trẻ em vi phạm pháp luật là những trẻ có độ tuổi từ 0 đến dưới
18 tuổi có các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của trẻ em vi phạm pháp luật
* Đặc điểm tâm lý của trẻ em vi phạm pháp luật
Trẻ em, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi vị thành niên, đây là giai đoạn hình
thành và phát triển nhân cách, trí tuệ, thể lực nên tâm lý khá phức tạp, thiếu
ổn định. Lứa tuổi này các em luôn có xu hướng muốn vươn lên để trở thành
người lớn. Đặc điểm này luôn thôi thúc các em có khuynh hướng tự lập, bứt
phá sự ràng buộc, sự kiểm tra, áp đặt của những người lớn trong gia đình, của
thầy cô giáo. Sự bức phá này có nguy cơ dễ bị sa ngã, bị dụ dỗ, lôi kéo rủ rê
của kẻ xấu nếu như khuynh hướng tự lập không theo chiều hướng tốt.
Tính hiếu động, hiếu thắng, nông nổi và liều lĩnh. Đặc điểm này hình
thành trong các em thường có những hành động bộc phát, thiếu suy nghĩ,
không phân biệt được đúng, sai, do đó trong hành động thường liều lĩnh,
không sợ nguy hiểm, không sợ vi phạm pháp luật, hoạt động không theo
khuôn mẫu, không có quy luật nhất định mà thường bộc phát khi bị kích
động. Luôn có tính tò mò, bắt chước (cả những cái sai). Dễ hăng say sôi nổi,

14



dễ bị kích động nhưng cũng dễ chán nản.Nhu cầu giao tiếp bạn bè phát triển
nên hình thành nhóm bạn để chơi bời, học tập.
Ngoài các đặc điểm chung nói trên, trẻ em vi phạm pháp luật còn có
thêm một số đặc điểm tâm lý như: Tính ích kỷ, tính thiếu kiên định, tính phủ
định, tính dối trá, tính ưa tâng bốc, tính thô lỗ, tính vô kỷ luật.
* Nhu cầu của trẻ em vi phạm pháp luật.
Trước hết là nhu cầu về mặt vật chất phục vụ cho việc ăn uống, vệ sinh,
đảm bảo cho sự phát triển về mặt thể chất của trẻ;
Thứ hai, nhu cầu về mái ấm gia đình, là chỗ dựa về mặt thể chất và tinh
thần của trẻ;
Nhu cầu được giải trí vui chơi (nhu cầu phát triển), học tập, thông qua
những hoạt động này đưa trẻ được hòa mình vào xã hội tự khẳng định mình;
Nhu cầu được tôn trọng, trẻ luôn đòi hỏi nhu cầu này từ người lớn, ở
bạn bè và ở cha mẹ. Sự tôn trọng này sẽ làm tăng sự tự tin, nghị lực của trẻ;
Nhu cầu cao nhất của trẻ là tự khẳng định mình, chứng minh rằng mình
có năng lực, mình có thể làm được mọi việc.
Tuy nhiên, đối với trẻ vi phạm pháp luật thì cần thêm một số nhu cầu
như sau:
Nhu cầu được tham vấn, tư vấn: Thực tế khi tiếp xúc với nhóm trẻ em
vi phạm pháp luật cho thấy, phần lớn các em bị tổn thương về nhiều mặt. Các
em thiếu tình yêu thương và sự chăm sóc của cha mẹ, gia đình, dẫn tới sự lệch
lạc trong cấu trúc nhân cách, rối nhiễu tâm trí, rối loạn hành vi… Hầu hết các
em đều có nhu cầu được chia sẻ tâm tư nguyện vọng và vượt qua những trở
ngại tâm lý. Do đó, hoạt động tư vấn, tham vấn kịp thời có thể giúp các em
vượt qua khủng hoảng tâm lý, giúp các em nhìn nhận rõ hơn về vấn đề của
mình và tự giải quyết vấn đề theo hướng tích cực hơn. Qua đó, giảm bớt nhiều
hậu quả xấu và đưa lại những kết quả về mặt kinh tế, giáo dục, thậm chí còn

15



ngăn chặn, phòng ngừa những rối loạn hành vi trong các em như: giận dữ,
đánh nhau, bỏ ăn hay tự sát…
Nhu cầu được trang bị kiến thức về Pháp luật: Một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ là sự hạn chế trong nhận
thức pháp luật. Nhiều em không biết những hành vi mà các em định làm là vi
phạm pháp luật, không biết rằng các em phải chịu trách nhiệm đối với hành vi
của mình như thế nào. Vì vậy, việc trang bị các kiến thức về pháp luật cho các
em là hoạt động rất cần thiết. Từ đó trẻ có thể nhận thức được hành vi nào
đúng, hành vi nào sai nhằm kịp thời ngăn chặn các hành vi sai lệch của trẻ.
Nhu cầu được trang bị kỹ năng sống: Trẻ vi phạm pháp luật rất cần
được trang bị các kỹ năng sống. Vì phần lớn kinh nghiệm sống của các em
còn non nớt, tư duy bồng bột, chưa sâu sắc, thiếu bao quát… các em rất dễ
chịu ảnh hưởng từ bạn bè. Đặc biệt, khi các em chơi với bạn xấu thì ảnh
hưởng tiêu cực là khó tránh khỏi. Chính vì vậy, các em rất cần được cung cấp
các kỹ năng sống cho bản thân để có thể làm chủ được bản thân, sống tích cực
và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như cho xã hội.
Nhu cầu được tiếp tục học văn hóa: Đa số trẻ vi phạm pháp luật đều
chưa học xong văn hóa, trước khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật các
em đã có thời gian dài thường xuyên bỏ học, vi phạm nội quy, quy chế của
nhà trường. Có em chủ động bỏ học, có những em bị nhà trường đuổi học.
Tuy nhiên, sau khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc sau một thời
gian lang thang, tụ tập, trẻ rất muốn được quay lại tiếp tục học văn hóa. Do
đó, để trẻ có thể tái hòa nhập cộng đồng tốt, cần kết nối để có thể đáp ứng
được nhu cầu này của trẻ.
Nhu cầu được học nghề gắn với tạo việc làm: Từ những đặc điểm đã
phân tích ở trên cho thấy, nhóm trẻ vi phạm pháp luật thường lông bông,
không nghề nghiệp ổn định, bên cạnh đó các em bị hàng xóm, láng giềng kỳ
thị. Hơn nữa, xuất phát điểm của các em thường từ những gia đình có hoàn


16


cảnh khó khăn. Do vậy, vấn đề tìm việc làm với các em là rất khó khăn. Vì
thế các em rất cần được hỗ trợ kết nối dạy nghề và tạo việc làm cho bản thân.
1.1.3. Nguyên nhân và hậu quả của trẻ em vi phạm pháp luật
* Nguyên nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật: Có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật, tuy nhiên ở đây tác giả chỉ nêu ra ba
nhóm nguyên nhân chính như sau:
- Nguyên nhân từ phía gia đình
Theo khảo sát cho thấy, những tác động từ gia đình khiến trẻ em hư, vi
phạm pháp luật là rất lớn. Có thể là do bố mẹ không thực sự gương mẫu,
thường xuyên vi phạm pháp luật, sống trái với những chuẩn mực xã hội; hoặc
một số khác thì quá mải mê làm ăn, quá đề cao lợi ích kinh tế nên hướng trẻ
em tới lối sống thực dụng, vì tiền v.v... Chưa thành công trong việc giáo dục
con cái là nỗi khổ tâm lớn nhất của các bậc cha mẹ. Thực tế thì những trẻ lang
thang và vi phạm pháp luật xuất phát nhiều từ các gia đình quá chiều chuộng
con cái. Trong các nguyên nhân của yếu tố gia đình tác động khiến cho trẻ vi
phạm pháp luật được biểu hiện ở các mặt như: Cha mẹ không quan tâm đến
việc giáo dục con cái; Cha mẹ, gia đình là những gương xấu cho con cái noi
theo; Không khí đạo đức trong gia đình không thuận lợi; Cha mẹ không thống
nhất được phương pháp giáo dục con cái; Cha mẹ chưa nắm được phương
pháp giáo dục con cái; Cha mẹ chưa hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ…
Như vậy, gia đình là nơi gần gũi nhất với trẻ. Tuy nhiên, đây cũng là
nơi phát sinh ra các yếu tố tạo cho trẻ cơ hội tham gia vào các tệ nạn xã hội.
Vì vậy, các bậc cha mẹ cần phải có thái độ ứng xử hợp lý trong gia đình để trẻ
noi theo.
- Nguyên nhân từ phía nhà trường
Nhà trường là nơi góp phần quan trọng trong việc giáo dục và rèn luyện

con người. Tuy nhiên, giáo dục trong nhà trường hiện nay còn đặt ra nhiều bất
cập: Chỉ chú trọng tới việc dạy chữ, chạy theo thành tích với những kết quả ảo

17


mà chưa thật sự chú ý đến việc giáo dục pháp luật, đạo đức nhân cách cho học
sinh, đặc biệt là việc trang bị những kiến thức, kỹ năng sống cho học sinh
chưa được đầy đủ. Đặc biệt, trong giáo dục thì còn nhiều vấn đề tác động vào
trẻ làm chúng không thống nhất được về tư duy như: Sự tác động không
thống nhất giữa những người giáo dục; Một số giáo viên chưa quan tâm nhiều
đến việc giáo dục học sinh cá biệt; Một số giáo viên không hiểu rõ đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ; Thiếu nghiêm túc trong học hành, thi cử…
Ngoài vòng tay gia đình thì nhà trường là nơi dạy dỗ con người thành
người, là môi trường có tác dụng to lớn đến sự hình thành nhân cách của các
em. Đây là một tổ chức có tính chất chiến lược nhất trong việc phòng ngừa
các em vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nhà trường cũng có những yếu kém, sai
lầm có thể tạo ra cho trẻ hư hỏng, đặc biệt là nếu nhà trường không quản lý
tốt thì trẻ sẽ rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội.
- Nguyên nhân từ phía xã hội
Trẻ sống trong môi trường xã hội có rất nhiều biến đổi như hiện nay thì
việc ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với con trẻ là rất lớn. Điển hình
như: Thiếu sót về tổ chức Đoàn, Đội ở địa phương, không tạo cho trẻ được
những sân chơi lành mạnh, bổ ích; Thiếu sót trong việc sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng. Việc đưa lên phim ảnh, báo những chuyện bạo lực
chém giết tàn nhẫn, thủ đoạn lừa gạt tinh vi, những thủ thuật trộm xe… Chính
những bài học ấy đã vận dụng vào thực tế và đã thành công làm cho tính chất
tội phạm trẻ em ngày càng trầm trọng, việc trốn tránh pháp luật ngày càng
khéo léo, bởi trẻ chưa được trang bị kỹ năng tiếp thu có chọn lọc, thiếu khả
năng khái quát, đánh giá; Ảnh hưởng của các luồng văn hóa phẩm đồi trụy;

Ảnh hưởng của môi trường sống không lành mạnh, trẻ bị rủ rê, lôi kéo và
những ảnh hưởng tiêu cực của nên kinh tế thị trường cũng tác động mạnh mẽ
đến việc đưa trẻ đến con đường phạm pháp.
- Nguyên nhân từ chính bản thân trẻ

18


Các nghiên cứu cho thấy, trẻ có những thay đổi mạnh mẽ về tâm lý
hàng ngày, với sự đa dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm tư, có em khép
mình vào thế giới nội tâm, có em lại muốn tự khẳng định mình, không muốn
phụ thuộc và rất dễ dàng bị tác động, rủ rê, lôi kéo của các đối tượng xấu. Các
em thường dễ dàng hành động mà không có sự cân nhắc, tính toán. Chính sự
vận động tâm lý đó đã chiếm một phần lớn các yếu tố khác nhau dẫn đến con
đường vi phạm pháp luật.
* Hậu quả của trẻ em vi phạm pháp luật
Việc trẻ vi phạm pháp luật để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho
bản thân các em mà còn cho cả gia đình, nhà trường và xã hội. Trước hết, đối
với bản thân trẻ phạm tội, sau khi có hành vi vi phạm sẽ phải chịu nhiều
hình thức xử phạt và ảnh hưởng lớn đến đạo đức, nhân cách của trẻ, kìm
hãm sự phát triển của trẻ, gây cho trẻ bị khủng hoảng tâm lý, tự ti, xa lánh
bạn bè và xã hội. Mặt khác, khi đã vi phạm pháp luật thì tương lai của trẻ
sau này cũng bị ảnh hưởng do những tiền án và tiền sự mà trẻ đã có. Còn
đối với gia đình của trẻ có hành vi vi phạm pháp luật cũng bị ảnh hưởng
đến đời sống kinh tế và chịu nhiều tác động của dư luận xã hội… Đối với
xã hội, trẻ em là tương lai của đất nước nhưng nếu trẻ vi phạm pháp luật thì
đồng nghĩa với đất nước sẽ mất đi một phần nguồn lực, ảnh hưởng đến trật
tự xã hội, nếp sống văn minh.
1.2. Lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật
1.2.1. Một số khái niệm

* Khái niệm công tác xã hội nhóm
Theo các tác giả Toseland và Rivas (1998) có nhiều cách tiếp cận với
Công tác xã hội nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và những
ứng dụng thực hành cụ thể. Vì vậy, các tác giả này đưa ra một định nghĩa bao
quát được bản chất của Công tác xã hội nhóm và tổng hợp những điểm riêng
biệt của các cách tiếp cận với Công tác xã hội nhóm như sau: “Công tác xã

19


hội nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và trị liệu nhỏ
nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt động
này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và tới toàn thể
nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ” [25, tr.12]. Hoạt động có mục
đích được các tác giả này nhấn mạnh là hoạt động có kế hoạch đúng trật tự,
hướng tới nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như để hỗ trợ hay giáo dục nhóm
giúp các thành viên trong nhóm giao tiếp và phát triển cá nhân. Định nghĩa
này cũng nhấn mạnh hoạt động có định hướng không chỉ với cá nhân thành
viên trong nhóm mà với cả toàn thể nhóm.
Trong từ điển CTXH của Barker (1995), CTXH nhóm được định nghĩa
là: “Một định hướng và phương pháp can thiệp CTXH, trong đó các thành
viên chia sẻ những mối quan tâm và những vấn đề chung họp mặt thường
xuyên và tham gia vào các hoạt động đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu
cụ thể. Đối lập với trị liệu tâm lý nhóm, mục tiêu CTXH nhóm không chỉ là
trị liệu những vấn đề về tâm lý, tình cảm mà còn là trao đổi thông tin, phát
triển kỹ năng xã hội và lao động, thay đổi các định hướng giá trị và làm
chuyển biến các hành vi chống lại xã hội thành các nguồn lực hiệu quả. Các
kỹ thuật can thiệp đều được đưa vào quá trình CTXH nhóm nhưng không hạn
chế kiểm soát những trao đổi về trị liệu” [25, tr.85].
Tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998) đưa ra khái niệm trị liệu nhóm mô tả

rõ nét hơn thân chủ và yêu cầu của cán bộ chuyên môn trong trị liệu nhóm.
Theo tác giả, trị liệu nhóm nhằm trị liệu cá nhân các bệnh tâm thần, những
người bị rối loạn, ức chế tâm lý khá sâu. Mối tương tác giữa bệnh nhân được
dùng để hỗ trợ quá trình trị liệu, nhưng công tác này đòi hỏi kiến thức chuyên
sâu về tâm lý, tâm lý trị liệu và tâm thần học.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2008), Công tác xã hội nhóm tập
trung vào một nhóm thân chủ không chỉ là cá nhân thân chủ. Phương thức và
cách tiếp cận của công tác xã hội nhóm là làm việc với thân chủ khác với làm

20


×