Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc VIỆT NAM TRONG tác PHẨM ĐƯỜNG KÁCH MỆNH và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.94 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM
TRONG TÁC PHẨM “ĐƯỜNG KÁCH MỆNH” VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
1. Tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong tác phẩm
Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc
1.1. Hoàn cảnh lịch sử xuất hiện tác phẩm
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thời đại mới đã mở
đường cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa trong
đó có Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc tìm mọi cách để bưng bít, xuyên tạc, bóp méo
thành quả Cách mạng Tháng Mười Nga. Ngay cả trong Quốc tế Cộng sản cũng có
những đánh giá chưa thống nhất về ý nghĩa của cuộc Cách mạng này. Lênin đã viết
sách khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga và phê phán xu hướng tả
khuynh nói trên .
Quốc tế Cộng sản ra đời (tháng 3 năm 1919) đã làm thay đổi nhận thức trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, góp phần rất tích cực làm cho cuộc đấu
tranh của công nhân quốc tế diễn ra sôi nổi; hàng loạt các đảng cộng sản ra đời ở các
nước tư bản và xuất hiện xu hướng thành lập các đảng cộng sản công nhân ở các
nước thuộc địa. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản – năm 1920 thông qua “Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, đã góp phần không nhỏ làm cho vị trí và vai tro
cách mạng ở các nước thuộc địa được khẳng định và thúc đẩy phát triển.
Sau những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7-1920, Nguyễn Ái
Quốc được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của V.I Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc
đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với


2
những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của V.I.Lênin đã có ảnh
hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Sau này người viết:


“luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn
toàn tin theo V.I Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”1.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours), Nguyễn Ái
Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của
Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, mở đường giải quyết đúng
đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Qua 10 năm sống và làm việc ở nhiều nước trên thế giới, qua nhiều lục địa, đặc
biệt là ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc không choáng ngợp trước sự
giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có nhiều khuyết tật. Người
khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước, không cứu được dân.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc
nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ. Người chỉ rõ: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” 2
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối
với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ
việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ
nghĩa Mác-Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam.
1
2

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 127.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 314.



3
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm nhiệm
vụ đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng
sản ở Việt Nam. Tại đây, Người cùng với một số nhà cách mạng lập Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức Á Đông, do ông Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội
trưởng và Người làm bí thư.
Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt nhân
là Cộng sản đoàn, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng
cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành lập Đảng, cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần
báo Thanh niên. Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại
Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khoá
học một số được chọn đi học ở Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản,
một số được cử đi học Trường Quân sự Hoàng Phố, con phần lớn trở về nước để
“truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”3.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán
bộ tại Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
xuất bản thành sách với tên gọi là Đường Kách mệnh. Tháng 4-1927, Tưởng Giới
Thạch phản bội cách mạng Trung Quốc, đàn áp đảng viên cộng sản và những người
cách mạng. Nguyễn Ái Quốc phải rời Quảng Châu sang Liên Xô. Mùa thu năm 1928,
Người về Thái Lan tiếp tục công việc chuẩn bị thành lập Đảng.
Những bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc dùng trong các lớp huấn luyện
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) vào những
năm 1925-1927, được tập hợp thành quyển sách “Đường cách mệnh” đáp ứng kịp
thời yêu cầu đó. Tác phẩm dài 61 trang (từ trang 257 đến trang 318) được trình bày
15 chương, mỗi chương là một nội dung, một chủ đề tương đối độc lập trong một bài
giảng: Tư cách người cách mệnh; Vì sao viết sách này?; Cách mệnh; Lịch sử cách
mệnh Mỹ; Cách mệnh Pháp; Lịch sử cách mệnh Nga; Quốc tế; Phụ nữ quốc tế; Công
3


Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Văn nghệ, Hà Nội, 1956. tr 71


4
nhân quốc tế; Cộng sản thanh niên quốc tế; Quốc tế giúp đỡ; Quốc tế cứu tế đỏ; Cách
tổ chức Công hội; Tổ chức dân cày; Hợp tác xã.
Tư tưởng cơ bản của tác phẩm Đường cách mệnh truyền thụ những vấn đề cốt
lõi nhất của chủ nghĩa Mác- Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam, trên cơ
sở đó, tuyên truyền về con đường cứu nước vào phong trào yêu nước, phong trào
công nhân, góp phần vào xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân, tiến tới đấu
tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự xâm lược, đô hộ của
thực dân Pháp, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh
phúc. Từ đó Đường cách mệnh trở thành “cẩm nang” cho cán bộ, đảng viên học tập,
truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào yêu nước, phong trào công
nhân Việt Nam.
1.2. Tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong tác phẩm
Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc
Trong “Đường cách mệnh” Nguyễn Ái Quốc đã luận giải nội dung cơ bản của
giai cấp, đấu tranh giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
Người đi thẳng vào bản chất “cách mệnh”. Người nói: “Văn chương và hy vọng
sách này là chỉ trong hai chữ “Cách mệnh! Cách mệnh!!Cách mệnh!!!”
Vì theo Người hiện tại con nhiều quan điểm nhận thức không đúng về cách
mệnh: “Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ nên nó cấm
chúng ta học, cấm chúng ta xem, cho nên đồng bào ta đối với hai chữ cách mệnh con
lờ mờ lắm”. Nguyễn Ái Quốc đã lập luận chặt chẽ, luận giải một cách ngắn gọn, rõ
ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của quần chúng nhân dân về “cách
mệnh”:
Theo Người “Cách mệnh” là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái
tốt. Nguyễn Ái Quốc cũng luận giải và chỉ ra các loại hình cách mạng, chỉ rõ nguyên
nhân của cách mạng tư sản, cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng vô sản, xét

đến cùng là do áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, mâu thuẫn giai cấp không thể


5
điều hoà, đoi hỏi phải giải quyết bằng cách mạng xã hội. Cách mạng không thể thực
hiện bằng con đường cải lương mà chủ yếu bằng giải pháp là cách mạng bạo lực,
Người cũng đã phê phán những quan điểm và nhận thức sai trái.
Từ những vấn đề chung đó, Người đi sâu vào những vấn đề cấp thiết của cách
mạng Việt Nam, vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Về mục tiêu của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ, chỉ có cách
mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng. Thông qua giới
thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, từ Cách mạng tư sản Mỹ (1776)
đến Cách mạng tư sản Pháp (1789), từ Công xã Pari (1871) đến Cách mạng Tháng
mười Nga (1917) và sau khi so sánh Cách mạng tư sản với Cách mạng vô sản,
Nguyễn ái Quốc khẳng định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là
cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần
rồi, mà nay công nông Pháp hẵng con phải mưu cách mệnh lần nữa mới hong thoát
khỏi vong áp bức”4.
Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp
khoe khoang bên An Nam”5. Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “làm sao cách mệnh rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”6.
Như vậy, trong tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: phương hướng cơ bản
của cách mạng Việt Nam là phải đánh đổ đế quốc xâm lược, phong kiến phản động
để giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ. Người đã đặt cách mạng Việt Nam vào phạm
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000, tr.274.

Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.280.
6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000, tr.270.
4
5


6
trù, quỹ đạo của cách mạng vô sản nghĩa là làm cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học tro, nhà buôn,
điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Ai mà bị áp bức càng nặng, thì long cách
mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc của một hai người. Lực lượng quần chúng đông đảo
nhưng phải dựa trên nền tảng liên minh công nông, lấy công - nông làm gốc: “Công
nông là gốc cách mệnh; con học tro, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp
bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh
thôi”
Bên cạnh đề cập đến vai tro của liên minh công nông trong khối đại đoàn kết
dân tộc, Người con nêu lên: Muốn đoàn kết thì phải làm gì? “Muốn phát huy được
phải giáo dục, giác ngộ cho quần chúng biết được tác hại do chính sách ngu dân của
bọn đế quốc phong kiến. Phải giảng lý luận cách mạng, làm cho phong trào cách
mạng trở nên tự giác, chứ không phải tự phát, cách mệnh phải có chiến lược, sách
lược đúng”. Phải tuyên truyền mở rộng tầm nhìn của quần chúng nhân dân, không
chỉ tình hình trong nước mà con ở cả phạm vi quốc tế, nhận thức rõ ai là bạn, ai là
thù.
Về phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách
mạng bạo lực. Người cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân
loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải “quyết tâm thì làm chắc
được”, “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”. Trong tác phẩm, Người phê phán các
trào lưu manh động, bạo động: Cách mệnh không phải là bạo động, ám sát làm liều

của một cá nhân nào đó: “ám sát là làm liều và kết quả ít, và giết thằng này con thằng
khác, giết sao cho hết? Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ
các giai cấp áp bức mình, chứ không phải nhờ năm ba người giết hai ba anh vua, chín
mười anh quan mà được”.


7
Nhưng phải “biết cách làm thì mới chóng”. “Cách mệnh trước hết phải làm cho
dân giác ngộ”. Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền
đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển thêm: “dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không thắng nổi”. “Đời này làm chưa
xong, đời sau nối theo làm thì phải xong”. Người chỉ ra những thiếu sót của những
người đi trước như “xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức”, hoặc “làm cho
dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường”. Tóm lại là phải có sách lược, mưu
chước, kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa nên làm.
Về đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ “Cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt
Nam”. “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh
trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế )” 7.
“An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế” 8. Trong
quan hệ giữa cách mạng nước ta với bầu bạn thế giới, Người nhấn mạnh: “Muốn
người ta giúp cho thì trước hết mình tự giúp lấy mình đã”. Cách mạnh vô sản ở
chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ mật thiết
với nhau và ảnh hưởng thúc đẩy nhau trong quan hệ bình đẳng. “Việt Nam dân tộc
cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp
làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
Về đảng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: muốn đưa cách mạng đến
thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Trong đảng phải có chủ
nghĩa làm cốt, ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo: “Đảng muốn vững thì phải có chủ

nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đảng
thiếu chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. “Bây giờ
học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
7
8

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. tr.281.
Hồ Chí Minh,Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000. tr. 287.


8
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 9. Sau này trong nhiều tác phẩm, Hồ Chí Minh
tiếp tục đề cập nhiều vấn đề quan trọng, cốt lõi về Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng
cầm quyền, mà cốt lõi là đảng phải là trí tuệ, đạo đức, quang vinh, để lãnh đạo giai
cấp công nhân, dân tộc Việt Nam giữ vững độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội
Những nội dung cơ bản trong tác phẩm Đường cách mệnh là tư tưởng cốt lõi
về con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm ra đời lúc bấy giờ đã góp
phần to lớn vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước một cách sáng tạo, đúng
đắn, kịp thời và có hiệu quả, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tác phẩm đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam; nâng phong trào đấu tranh cuả công
nhân và phong trào yêu nước phát triển lên một trình độ mới – đấu tranh tự giác; góp phần
tạo nên thắng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 và công cuộc xây dựng nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Những tư tưởng trong tác phẩm đã góp phần giáo dục, đào tạo một thế hệ
cán bộ cách mạng đầu tiên của Đảng-những hạt giống đỏ đầu tiên để nhân lên một đội ngũ
cán bộ Đảng, Nhà nước hùng hậu sau này.
Đây là tác phẩm lý luận, trở thành “cẩm nang” không chỉ của phong trào giải
phóng dân tộc Việt Nam xây dựng chế độ xã hội mới mà con là lý luận chỉ đạo cả
phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới.

Đến nay, những nội dung lý luận trong tác phẩm Đường cách mệnh vẫn con
giữ nguyên giá trị, nhiều vấn đề lý luận được Người đề cập cách đây 80 năm vẫn có
ý nghĩa thời sự ( như vấn đề tư các người cách mạng; vấn đề xâya dựng đảng cầm
quyền; lý luận cách mạng; Con đường cách mạng, lực lượng cách mạng).
Nghiên cứu tác phẩm giúp chúng ta kiên định với con đường đổi mới và quyết
tâm đưa sự nghiệp đổi mới nước ta đi đến thành công.
Người đã để lại một kiểu mẫu về công tác tổ chức, truyền bá lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách sáng tạo, hiệu quả, độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử
9

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000. tr 268.


9
đương thời và cả hiện nay; gắn công tác tuyên truyền với công tác tổ chức, công tác
chính sách trong đấu tranh, truyền bá lý luận hiện nay.
2. Sự vận dụng tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay
2.1. Thành tựu trong sự nghiệp đổi mới đất nước ở Việt Nam
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và con đường cách
mạng Việt Nam, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đã và đang giành được những
thắng lợi to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng
Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoa ra đời là một trong
những thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, đã
làm cho chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta bị xóa bỏ, một kỷ nguyên mới
mở ra, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đồng thời, góp phần
quan trọng vào tiến trình cách mạng thế giới, phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, thực hiện vai tro tiên phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và
tiến bộ xã hội. Cách mạng Tháng Tám kết hợp với sức mạnh của chế độ mới - chế độ
dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân

Việt Nam tạo nên hợp lực to lớn, giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954).
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trở thành
hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước. Hai mươi mốt năm kiên cường
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng mà
Đảng đã vạch ra, với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh
cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt, kết
thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thu non sông về
một mối.
Sau 30 năm kháng chiến thành công, đất nước bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ
nguyên hoa bình, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm


10
đầu, đất nước ta phải đương đầu với những thách thức, khó khăn chồng chất: hậu quả
nặng nề của chiến tranh chưa được khắc phục, thì lại vừa phải tiến hành cuộc chiến
đấu mới để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế, vừa phải chống lại sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, vừa phải tiếp tục
tìm toi, khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp đặc điểm Việt Nam
trong điều kiện mới. Cùng với những khó khăn khách quan, con có những khuyết
điểm chủ quan trong lãnh đạo, quản lý và cơ chế, chính sách, khiến cho kinh tế - xã
hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Đứng trước yêu cầu của lịch sử, nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh
tế  - xã hội, khi đổi mới đã trở thành vấn đề có tầm quan trọng sống con đối với dân
tộc, bằng bản lĩnh chính trị đã được tôi luyện trong quá trình đấu tranh cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, tự phê bình và phê bình sâu sắc, nhận thức lại con đường, bước đi xây dựng
chủ nghĩa xã hội, lắng nghe, tập hợp ý kiến, nguyện vọng và trí tuệ của nhân dân để
hoạch định đường lối đổi mới đất nước tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986).
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đáp ứng đoi hỏi cấp

bách của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và cục diện thế
giới mới. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta đã không ngừng nỗ lực, tích cực, chủ động tìm toi, khám phá và sáng tạo. Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn cả về lý luận và
thực tiễn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và 20 năm sau, từ thực tiễn
của đất nước, Đảng đã hoạch định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) - là bước phát triển nhận
thức, lý luận quan trọng trong tiến trình đổi mới đất nước.
Sau hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, với sự nỗ lực của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.


11
Hệ thống chính trị được củng cố vững chắc, trong đó việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đạt nhiều thành quả cả về lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công
tác đối ngoại được triển khai sâu rộng, có hiệu quả theo phương châm đa phương
hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế. Vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao.Năm 2008, nước ta đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Qua 10
năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, đất nước ta đã vượt
qua được những thách thức gay gắt, đặc biệt vào thời điểm khó khăn bởi tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và thế giới, tiếp tục đưa
nền kinh tế tăng trưởng nhanh, với mức tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm; thu
nhập bình quân đầu người tăng gấp 11 lần so với thời kỳ trước đổi mới. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt
được những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Đời sống của trên 86 triệu người
dân Việt Nam, trong đó hơn 70% sống ở nông thôn, đã được cải thiện đáng kể. Đặc
biệt thành quả về xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được cộng

đồng thế giới đánh giá cao. Tỷ lệ người nghèo trung bình mỗi năm giảm từ 2% - 3%
và cứ 10 năm giảm con một nửa. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62 tuổi
(năm 1990) lên 73 tuổi (năm 2010). Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm gần 3 lần; tỷ
lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm khoảng 6 lần,... Trong bộn bề khó khăn, giáo dục - đào
tạo đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận: hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu
học năm 2000, phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên toàn quốc năm 2010; số sinh
viên đại học, cao đẳng tăng gấp 9 lần trong 25 năm qua. Hệ thống chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng không ngừng được hoàn thiện. Các phong trào “Uống
nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”,... có sự tham gia tích cực của các cấp, các
ngành và toàn xã hội, công tác chăm sóc người có công với cách mạng trở thành một
phong trào rộng khắp. Tính đến nay, cả nước có trên 8,8 triệu đối tượng người có


12
công, chiếm gần 10% dân số, trong đó, có trên 1,1 triệu liệt sĩ; gần 50.000 bà mẹ
được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng; trên
780.000 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh. Tất cả những điều
đó thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước cách mạng và đạo lý truyền thống của
người Việt Nam.
Bằng sự nỗ lực của cả dân tộc để khẳng định với thế giới: Việt Nam là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hoa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hiện thực
hóa theo chủ đề lớn và xuyên suốt trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của
Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó cũng
chính là những nhiệm vụ căn cốt của toàn Đảng, toàn dân ta, được thấm sâu trong
từng quyết sách và hành động của Đảng và Nhà nước, của đội ngũ cán bộ, đảng viên
và nhân dân ta.Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là hơn 25 năm đổi
mới đất nước chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là khát

vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
2.2. Sự vận dụng tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc trong tác phẩm
“Đường cách mệnh”của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay
Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng
cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện mới. Thực tiễn cho thấy, Đảng, Nhà
nước ta đã quán triệt và vận dụng những nội dung tư tưởng chủ yếu sau:
Một là, nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào điều kiện đất nước


13
Nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào điều kiện đất nước để định ra đường lối chính trị đúng đoi hỏi luôn luôn lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Đảng. Phải nắm vững bản chất, linh hồn chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước
trong từng giai đoạn của cách mạng, chống vận dụng máy móc, giáo điều. Đồng thời,
phải ra sức bảo vệ và không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với sự phát triển của thực tiễn cách mạng.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 Đảng ta đã
đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho cách mạng nước ta.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn đề xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới đã
khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kiên định tính biện chứng,
là điều kiện cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay, đoi hỏi Đảng tiếp tục giữ vững vai tro lãnh
đạo mà vấn đề cơ bản hàng đầu là Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hoạch định, bổ sung, phát triển đường lối chính


14
trị đúng, nhằm đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tới năm
2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Hai là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và trong
tám thập kỷ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó. Trong hơn 20 năm đổi mới, tình hình thế giới
biến động rất phức tạp. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực bị lâm vào thoái trào,
phong trào cách mạng thế giới gặp những khó khăn to lớn chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động
đến cách mạng nước ta. Đứng trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng
ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn - con đường hợp quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, phù
hợp với con đường phát triển của nhân loại.

Ba là, nhận thức đúng đắn vị trí của giai cấp công nhân, của giai cấp nông
dân và vai trò của liên minh công nông trong cách mạng
Nhận thức đúng đắn vị trí của giai cấp công nhân, của giai cấp nông dân và vai
tro của liên minh công nông, mới có cơ sở để xác định mối quan hệ của các giai cấp
trong liên minh, mới phát huy khả năng cách mạng của từng giai cấp và là điều kiện
để hình thành khối liên minh công nông vững chắc trong thực tiễn. Đây con là cơ sở
để đề phong và khắc phục khuynh hướng "tả" khuynh và hữu khuynh trong liên minh

giai cấp.
Để hình thành khối liên minh công nông thì vấn đề tiên quyết là xác định vai tro
lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đây là cơ sở hết sức quan trọng để xác định đúng
đắn nội dung, chủ trương, đường lối trong liên minh. Đường lối chính trị phải thể
hiện lập trường của giai cấp công nhân, giai cấp đứng ở vị trí trung tâm lãnh đạo
cách mạng. Tăng cường vai tro lãnh đạo của giai cấp công nhân là vấn đề có tính
nguyên tắc, vì vậy phải không ngừng chăm lo hoàn chỉnh đường lối chính trị của giai
cấp công nhân, giáo dục xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân thực sự là giai cấp tiên


15
phong trong đấu tranh cách mạng, thường xuyên nâng cao lập trường tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh chống mọi biểu hiện của tư tưởng phi vô sản.
Trong thực tiễn, Đảng ta đã sớm xác định đúng vai tro của nông dân Việt Nam,
là lực lượng to lớn, cùng với công nhân là lực lượng chủ lực của cách mạng. Đó là
lực lượng đông đảo chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư, có vai tro to lớn trong sản
xuất, trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước, có truyền thống yêu nước, có ý thức
dân tộc sâu sắc. Tuy nhiên, nông dân Việt Nam không thể là lực lượng lãnh đạo cách
mạng. Giai cấp nông dân chỉ có thể đi theo giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thì mới giải quyết được nhiệm vụ giải phóng dân tộc và đem lại
ruộng đất cho nông dân. Do vậy, cần đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân,
đánh giá đúng đắn vai tro của nông dân, đấu tranh chống mọi biểu hiện "tả" khuynh
và hữu khuynh.
Từ những kinh nghiệm lịch sử về xây dựng, củng cố khối liên minh công nông
trong cách mạng dân tộc dân chủ và xuất phát từ thực tiễn của giai đoạn cách mạng
mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục chủ trương xây dựng
liên minh công - nông - trí thức thành nền tảng vững chắc để thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, Đảng ta chủ trương:

Xây dựng giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng, chất lượng và tổ chức;
nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai tro quan trọng của họ trong sự nghiệp
đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.


16
Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân
chủ, trọng dụng nhân tài, khuyến khích các tri thức, các nhà khoa học phát minh,
sáng tạo.
Bốn là, dựa vào nhân dân, phát huy vai tro chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực
tiễn.

Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về bản chất
mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của
nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân dân, của cơ sở
nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành chủ trương đổi mới
của Đảng. Đường lối đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ý Đảng
long dân nên được toàn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo đã giải phóng được
mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, khơi
dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn mà
Đảng ta phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn. Những bài học rút ra trong sự nghiệp đổi mới vừa qua sẽ góp phần thúc
đẩy sự nghiệp đổi mới đi tới thành công, nhất là phải đối phó với cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu và nhiều vấn đề cấp bách khác như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, v.v..
Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang
tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng làm cho quan hệ giữa
Đảng và nhân dân có mặt bị giảm sút. Vì vậy, phải củng cố và tăng cường mối quan hệ

gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Lợi ích chính đáng của nhân dân phải là cơ sở
để hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Có như vậy những sáng kiến, kinh
nghiệm của quần chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân mới có thể được biến
thành những quyết sách chính trị trong quá trình đổi mới.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới


17
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội lực là nhân tố quyết
định, khai thác nhân tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh
tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử dụng những thành tựu
khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới...) cùng với những thành tựu của kinh tế tri thức để phát triển kinh tế - xã hội,
tạo tiền đề để phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, tác động đến
tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Đảng ta đã đề ra chủ trương chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Vì thế, chúng ta đã xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn, đã
thiết lập ngoại giao với 167 nước, có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh
thổ, chúng ta đã gia nhập AFTA, ASEM, APEC và năm 2006 đã gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Nhờ vậy, chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư
nước ngoài FDI và ODA. Chúng ta cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ
chức tài chính - tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng vốn vay ưu đãi của Ngân hàng
thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), đồng
thời tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở rộng thị trường để phát triển đất
nước.
Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy nội lực tạo cơ
sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong việc khai thác ngoại lực, sử dụng

sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và
phát triển nền văn hóa dân tộc.


18
Năm là, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Trong suốt quá trình cách mạng, mục tiêu của Đảng bao giờ cũng thống nhất với
nguyện vọng của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, đối với chính
quyền Nhà nước là tất yếu. Đảng là người khởi xướng và lãnh đạo toàn diện công
cuộc cách mạng, trong đó có việc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn,
ngày càng hoàn thiện, vai tro lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng được tăng
cường, do đó, công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng được đông đảo nhân dân
hưởng ứng biến thành hành động sôi nổi, rộng khắp của quần chúng.
Trong quy trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng trong điều kiện mới là nhiệm vụ sống con trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa vì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi
mới. Dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi tiềm năng của con người được
phát huy, tính tích cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân
dân vào quá trình sáng tạo ra xã hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả hơn.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai tro của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích chung của đất nước, lấy việc giữ vững

độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng. Phải tạo điều kiện và cơ chế cho Mặt trận Tổ quốc


19
và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.



×