Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Phát triển công nghiệp văn hóa kinh nghiệm của nhật bản và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.82 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THU THỦY

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA:
KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THU THỦY

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA:
KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế học
Mã số
: 60.31.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN DUY DŨNG



HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng, Viện Nghiên cứu Đông
Nam Á thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Nghiên cứu này được tài trợ
bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) trong đề tài mã
số V1.2-2012.12.
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực, bảm đảm tính khách quan,
khoa học và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả Luận văn

Phạm Thu Thủy


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo đã tận tình giảng dạy, trang bị những kiến thức quý báu và tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất để em hoàn thành khóa học.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng, Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc
Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, người đã quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo
tận tình trong suốt quá trình em thực hiện và hoàn thành được đề tài nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Lãnh đạo và toàn thể cán bộ Viện
Nghiên cứu Đông Bắc Á và những người thân đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn này.
Mặc dù luận văn đã hoàn thành, nhưng chắc vẫn còn những hạn chế nhất
định. Em kính mong nhận được ý kiến đóng góp chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo

để luận văn của em được hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm
2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thu Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA ..........................9
1.1. Khái niệm về công nghiệp văn hóa ...............................................................9
1.2. Quy trình sáng tạo và phân phối các sản phẩm công nghiệp văn
hóa..............15
1.3. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa ................................................17
1.4. Những yếu tố tác động đến sự phát triển của công nghiệp văn hóa ...........20
1.5. Xu hướng phát triển công nghiệp văn hóa trên thế giới..............................23
Chƣơng 2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA Ở NHẬT
BẢN28
2.1. Chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp văn hóa của Chính phủ Nhật Bản..28
2.2. Thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản .............................32
2.3. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa đối với nền kinh tế Nhật Bản .43
2.4. Những vấn đề tiếp tục đặt ra đối với phát triển công nghiệp văn hóa
Nhật Bản ................................................................................................ 49
Chƣơng 3. PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ GỢI
Ý GIẢI PHÁP TỪ KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN .....................................52
3.1. Thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay ..............52
3.2. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa Việt

Nam ....................................................................................................................67
3.3. Gợi ý giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam từ kinh nghiệm
Nhật Bản.............................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................78


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Tiếng Anh

CNVH

Tiếng Việt
Công nghiệp văn hóa

DCAJ

Digital Content Association of Japan

Hiệp hội nội dung số Nhật Bản

DCMS

Department for Culture Media & Sport

Bộ Văn hóa, truyền thông và
thể thao


GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

IFPI

The International Federation of the

Liên đoàn Công nghiệp thu âm

Phonographic Industry

quốc tế

Ministry of Economy, Trade and

Bộ Kinh tế, Thương mại và

Industry

Công nghiệp

METI

NXB
RIAJ

Nhà xuất bản

The recording Industry Association of

Hiệp hội thu âm Nhật Bản

Japan
TCMN
UNCTA
D
UNESCO

Thủ công mỹ nghệ
United Nations Conference on Trade
and
Developmen
t
United Nations Educational Scientific

Hội nghị Liên hợp quốc
về
Thương mại và Phát
triển
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và

and Cultural Organization

Văn hóa của Liên hiệp quốc


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Cơ cấu các ngành công nghiệp văn hóa Nhật

Bản.....................................33
Biều đồ 2.1: Xu hướng doanh thu của công nghiệp nội dung số ..............................34
Biểu đồ 2.2 : Biến động doanh thu từ Manga từ năm 2004 – 2013 ..........................36
Biều đồ 2.3: Doanh thu xuất khẩu công nghiệp Anime ............................................38
sang thị trường nước ngoài........................................................................................38
Bảng 2.2: Giá trị gia tăng và số lượng nhân công.....................................................48
Biểu đồ 2.4: Trung bình giá trị đóng góp trên từng nhân công.................................49
trong các ngành công nghiệp.....................................................................................49
Bảng 3.1: Đầu tư, nguồn vốn, cơ sở hạ tầng Ngân sách cấp cho các đoàn nghệ thuật
Trung ương................................................................................................................56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày một gia tăng như
hiện nay, “công nghiệp văn hóa” đã cho thấy sức mạnh tổng hợp của sự giao thoa
giữa “kinh tế” và “văn hóa”. Thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa ở nhiều
nước trên thế giới cho thấy, tỉ trọng GDP mà các ngành công nghiệp văn hóa đem
lại cho nền kinh tế nhiều khi còn vượt trội hơn so với nhiều ngành kinh tế truyền
thống, tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp văn hóa hằng năm cao hơn
ngành công nghiệp dịch vụ, sản xuất. Công nghiệp văn hóa được nhiều nước xác
định như một lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo ra ưu thế cạnh tranh, thúc đẩy sự đổi
mới, cũng như tạo sự cân bằng, đa dạng hơn cho nền kinh tế. Thực tế cũng cho
thấy, công nghiệp văn hóa có khả năng góp phần giải phóng lực lượng sản xuất,
đồng thời khai thác tiềm năng kinh tế dồi dào trong vốn văn hóa truyền thống của
mỗi quốc gia như di sản văn hóa vật chất và tinh thần, cảnh quan thiên nhiên,
phong tục tập quán bản địa, đặc biệt là sức sáng tạo của văn nghệ sĩ cũng như
quần chúng nhân dân.
Việt Nam có 54 dân tộc anh em với kho tàng văn hóa truyền thống phong
phú, đa dạng; bởi thế chúng ta cần phải biết tận dụng những tài sản quý báu này để

phát triển đất nước, hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa. Nếu được phát huy thế mạnh
vốn có, công nghiệp văn hóa có thể sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, đề cao lòng yêu nước, góp phần chống
lại sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, xây dựng chuẩn mực văn hóa quốc dân, góp
phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Cho đến nay, công nghiệp văn hóa ở
Việt Nam phát triển khá chậm chạp. Nhận thức về bản chất và tầm quan trọng của
lĩnh vực này vẫn còn chưa đầy đủ. Hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ văn
hóa còn ở giai đoạn phát triển sơ khai chưa thích ứng tốt với cơ chế thị trường và
dễ bị tổn thương trước sự cạnh tranh ngày một khốc liệt với các sản phẩm công
nghiệp văn hóa nhập ngoại. Để tăng cường nội lực và tốc độ phát triển cho công
nghiệp văn hóa trong nước thì ngoài việc tăng cường đầu tư, cải thiện hệ thống
1


chính sách, việc học hỏi kinh nghiệm phát triển của các nước đi trước để rút ra
những bài học có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Trong khu vực Đông Á, Nhật Bản là một trong những quốc gia đã đạt được
rất nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa. Hiện nay
công nghiệp văn hóa với các lĩnh vực nổi trội như phim hoạt hình, truyện tranh,
game.. được chính phủ xếp ngang hàng cùng với những ngành công nghiệp trụ cột
là công nghiệp chế tạo ô tô và công nghiệp điện tử, thể hiện sự kỳ vọng của Chính
phủ Nhật Bản đối với những đóng góp to lớn của ngành này đối với nền kinh tế.
Ngoài những nguồn lợi đến từ các sản phẩm văn hóa, ngành công nghiệp văn hóa
còn tác động tới sự phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất, xuất khẩu và
dịch vụ khác. Bằng cách truyền tải cảm hứng, hình thành tình yêu, lòng mến mộ
đất nước con người Nhật Bản, các sản phẩm văn hóa đã gián tiếp trở thành đòn
bẩy kích cầu tiêu dùng hiệu quả các sản phẩm, hàng hóa Nhật Bản.
Việt Nam và Nhật Bản có mối quan hệ giao lưu ngày càng phát triển, là đối
tác chiến lược của nhau. Việt Nam và Nhật Bản tuy trình độ phát triển kinh tế có
khác biệt nhưng về mặt văn hóa lại có nhiều nét tương đồng. Nhiều bài học phát

triển mà Nhật Bản đã đi qua vẫn còn nguyên giá trị tham khảo với Việt Nam.
Cũng vì vậy, việc nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản trong phát triển
công nghiệp văn hóa là rất cần thiết và sẽ có giá trị rất thiết thực đối với Việt
Nam. Chính vì vậy, học viên chọn “Phát triển công nghiệp văn hóa:
Kinh nghiệm của Nhật Bản và bài học cho Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn
thạc sĩ.
2.1. Những công trình nghiên cứu về lý luận chung công nghiệp văn hóa
2. Tình
nghiên
cứu
đề tàicứu về những vấn đề lí luận công nghiệp văn
Trong
số hình
các công
trình
nghiên
hóa đã công bố không thể không kể đến một số công trình nổi bật như
Creative Industries của Jennifer Radbourne (2004) thuộc Queensland University,
Austrlia. Trong công trình này, công nghiệp văn hóa được coi là “những hoạt
động áp dụng sự sáng tạo, kỹ năng và sở hữu trí tuệ để sản xuất và phân phối các
sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa xã hội và văn hóa”. Cuốn Bound to Lead: The
Changing Nature of

2


American Power và (2005) “Soft Power: The Means To Success In
World
Politics” của tác giả Joseph Nye (1990), Nhà xuất bản PublicAffairs, Basic Books,
New York khẳng định văn hóa được coi là nguồn “sức mạnh mềm” của một quốc

gia, cùng với các ý tưởng chính trị và chính sách. Đặc biệt năm 2007, UNESCO
đã đưa ra đưa ra thống kê và những nhận định tổng quát về tình hình phát triển
công nghiệp văn hóa trên thế giới trong cuốn Statistics on Cultural
Industries: Framework for the Elaboration of National Data Capacity
Building Projects, UNESCO Asia and Pacific Regional Bureau for Education,
Bangkok. Công trình này đã đưa ra khái niệm khái niệm rất đáng chú ý về công
nghiệp văn hóa “ngành công nghiệp văn hoá là những ngành công nghiệp sản
xuất sản lượng mỹ thuật và sáng tạo hữu hình hay vô hình, và là những ngành có
tiềm năng tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác các tài sản văn hoá
và sản xuất các hàng hoá và dịch vụ dựa trên tri thức”.
Tại Nhật Bản, việc nghiên cứu các vấn đề lí luận công nghiệp văn hóa cũng
có rất nhiều công trình đáng chú ý tập trung vào những vấn đề lí luận như xác định
khái niệm công nghiệp văn hóa và những chuyển biến trong nội hàm khái niệm do
sự biến đổi của thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa. Ngoài một số ít ý kiến
đồng quan điểm với Frederic P Miller, Agnes F Vadome, John McBrewster trong
tác phẩm “Công nghiệp văn hóa” (Culture Industry) cho rằng công nghiệp văn hóa
với sự sản xuất hàng loạt các sản phẩm văn hóa đã và đang làm “đại chúng hóa” và
“méo mó” văn hóa bác học; phần đông học giả Nhật Bản trong các công trình
nghiên cứu của mình đều chia sẻ quan điểm rằng công nghiệp văn hóa với việc sản
xuất hàng loạt đã trở thành sản phẩm văn hóa đại chúng không thể thiếu trong thời
hiện đại, là một ngành kinh tế quan trọng có ý nghĩa cả về mặt văn hóa và chính trị.
Tại Việt Nam, từ những năm thập niên đầu thế kỷ XXI, lí luận về công
nghiệp văn hóa đã từng bước được chú ý nghiên cứu; đặc biệt đã xuất hiện một số
nghiên cứu về chủ đề này được xuất bản dưới dạng các giáo trình. Điển hình như
cuốn “Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn hoá” - Lê Ngọc Tòng (NXB
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004), “Các ngành công nghiệp văn hóa”- Phạm Bích
3


Huyền, Đặng Hoài Thu (NXB Lao Động, 2014) hay “Diện mạo và triển vọng của

xã hội Tri thức”- Nguyễn Văn Dân (NXB Chính Trị Quốc Gia, 2015)....
2.2. Những công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hóa Nhật Bản
Trong số các công trình nghiên cứu về chủ đề này mà học viên có điều kiện
tham khảo, phải kể đến nhà nghiên cứu Goto Kazuko. Trong công trình
“Chính sách công cộng của văn hóa nghệ thuật” xuất bản năm 1996 và “Chính
sách văn hóa” xuất bản năm 2001, ông đã phân tích vai trò của văn hóa, cũng
như những thay đổi trong chính sách văn hóa của Chính phủ Nhật Bản. Trong công
trình “Toàn cầu hóa và chính sách văn hóa” (グ ロー バ ル化 する文化政 策 )
(2009), Tsuyoshi Kusa Shobo đã dành riêng chương 8 để bàn về chính sách phát
triển ngành công nghiệp văn hóa của Nhật Bản, coi đây là ngành kinh tế trụ cột.
Nghiên cứu chính sách đối với công nghiệp văn hóa của Nhật Bản cũng là chủ đề
thường xuyên được các học giả quan tâm. Công nghiệp nội dung số là một lĩnh
vực trọng tâm giành được nhiều sự quan tâm nhất. Lĩnh vực nội dung số ra đời
dựa trên nền tảng phát triển kỹ thuật số hóa và mạng internet, sử dụng tài nguyên
thông tin nhằm phục vụ quá trinh sáng tác, phát triển, phân phối, tiêu thụ và tiêu
dùng sản phẩm văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Trong luận văn “Toward
Sustainable Grouth of Content Industry” Yutaka Shigenobu đã chỉ rõ tầm quan
trọng, ý nghĩa kinh tế, văn hóa và ngoại giao của công nghiệp nội dung số và
những thảo luận nhằm đưa ngành công nghiệp này hướng theo con đường phát
triển ổn định. Tác giả Kawashima Nobuko với tác phẩm “Lý luận về công nghiệp
nội dung số: Kinh tế, luật pháp và quản lý văn hóa sáng tạo” đã quan tâm sâu
sắc đến sự phát triển của lĩnh vực công nghiệp nội dung số trong thế kỷ XXI và
những vấn đề chính sách quản lí sự phát triển của ngành công nghiệp đặc biệt này,
ông đã phân tích những khuynh hướng phát triển của công nghiệp văn hóa, nhất
là công nghiệp nội dung số. Trên cơ sở đó chỉ ra những hướng chiến lược trong
chính sách của Chính phủ Nhật Bản đối với việc phát trỉên lĩnh vực công nghiệp
đặc biệt này. Đáng chú ý, trong những năm gần đây, hàng năm, Bộ Kinh tế
công nghiệp Nhật Bản, Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) và các
cơ quan hữu quan của Chính phủ đều có những báo cáo nghiên
4



cứu, đánh giá rất sát thực trạng phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa trong
nước cũng như của các đối thủ cạnh tranh quốc tế như công nghiệp văn hóa của Mỹ,
Anh, Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, về mảng đề tài nghiên cứu công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản,
đến những năm 2000 mới bắt đầu có những bài viết ít nhiều đề cập đến chủ đề này
tập trung ở các nhà nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đặc
biệt là của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á. Đáng chú ý là từ năm 2009, đã có một số
công trình nghiên cứu quốc tế ít nhiều liên quan đến lĩnh vực công nghiệp văn hóa
của các nước Đông Bắc Á, trong đó có Nhật Bản, nhất là chiến lược đào tạo nhân
tài cho sự phát triển của công nghiệp văn hóa của Nhật Bản; chiến lược gia tăng ảnh
hưởng tới Châu Á của Nhật Bản qua chiến lược “Cửa ngõ Châu Á” (Đề tài cấp Nhà
nước: “Sự phát triển về văn hóa và con người của một số nước Đông Á- Bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” do GS. Đỗ Tiến
Sâm Viện Nghiên cứu Trung Quốc làm chủ nhiệm), chuyên đề cấp Viện về “Chính
sách công nghiệp văn hóa của Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI – Bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam” do Ths. Hạ Thị Lan Phi (2010). Đáng chú ý là đã
có những nghiên cứu được công bố dưới dạng sách chuyên khảo hoặc các bài viết
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á như: “Sự phát triển công nghiệp văn
hóa ở Nhật Bản và Hàn Quốc”- Phạm Hồng Thái (chủ biên, 2015) NXB Khoa
Học Xã Hội; “Đối sách các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về sự gia
tăng quyền lực mềm” của tác giả Hoàng Minh Lợi; “Chính sách phát triển công
nghiệp văn hóa của Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI” của tác giả Hạ
Lan Phi, đăng rải rác trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á các năm từ 2011 đến
nay...
Ở Việt Nam, sự phát triển của công nghiệp văn hóa còn là một lĩnh vực mới
2.3. Những công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hóa của Việt Nam
mẻ. Mặc dù khoảng 10 năm trở lại đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
bắt đầu đề cập tới các chủ đề liên quan đến công nghiệp văn hóa nhưng chưa thực

sự có những công trình nghiên cứu có tính toàn diện. Trong các năm từ 2008 - 2010,
Viện Văn hóa Nghệ thuật bắt đầu có tổ chức một số cuộc hội thảo do tài trợ của tổ
5


chức nước ngoài về nhu cầu phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Từ năm
2008, đã bắt đầu thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Thành phố và cấp Bộ
đề cập tới mảng đề tài công nghiệp văn hóa tại Việt Nam như đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Thành phố: “Nghiên cứu sự phát triển ngành công nghiệp văn
hóa
của Thủ đô Hà Nội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Sở
Văn hóa Thông tin Hà Nội – 01 X-12/01-2006-3) do PGS.TS. Phạm Duy Đức làm
chủ nhiệm. Năm 2010, đã có đề tài cấp thành phố “Công nghiệp văn hóa ở
Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” do TS. Nguyễn Thị Hương thuộc Viện Văn
hóa và Phát triển - Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm.
Nhìn chung, việc nghiên cứu công nghiệp văn hóa ở nước ta qua những công
trình trên vẫn chỉ dừng lại ở việc bàn thảo bước đầu, còn nghiên cứu về ngành công
nghiệp này của Nhật Bản thì hầu như còn rất khiêm tốn, mới chỉ dừng lại ở khái
quát về tình hình phát triển một số ngành của lĩnh vực công nghiệp văn hóa của
quốc gia này.
Như vậy có thể thấy, đây vẫn là mảng nghiên cứu chưa được đề cập đến
một cách đầy đủ và có hệ thống, chưa đem lại cái nhìn đầy đủ và toàn diện về
sự phát triển của ngành công nghiệp đặc biệt này ở Nhật Bản, quốc gia đang có
mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam. Việc nghiên cứu quá trình phát triển công
nghiệp văn hóa của Nhật Bản, đánh giá những thành tựu, ý nghĩa kinh tế và
chính trị- văn hóa của nó và rút ra những bài học cũng như gợi mở xây dựng
chính sách phát triển ngành công nghiệp này ở nước ta hiện nay là vấn đề cần
thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lí luận về công nghiệp văn hóa, luận văn
làm rõ những thành tựu và hạn chế của công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản, từ đó rút ra
3.2.Nhiệm vụ nghiên
một sốcứu
kinh nghiệm cho sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
- Làm rõ một số vấn đề lí luận về công nghiệp văn hóa
6


- Phân tích quá trình phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa ở Nhật
Bản, trong đó làm rõ chính sách của chính phủ Nhật Bản đối với sự phát triển của
các ngành công nghiệp văn hóa
- Đánh giá thành tựu và hạn chế của các ngành công nghiệp văn hóa
Nhật Bản
- Làm rõ thực trạng công nghiệp văn hóa Việt Nam và kinh nghiêm của
Nhật Bản, từ đó đưa ra những gợi ý về phát triển lĩnh vực này ở nước ta.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công nghiệp văn hóa Nhật Bản và Công nghiệp văn hóa Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển của công nghiệp văn hóa Nhật
Bản chủ yếu từ khía cạnh kinh tế. Công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn,
trong khuôn khổ cho phép của một luận văn cao học, học viên tập trung phân tích
một số lĩnh vực quan trọng nhất của công nghiệp văn hóa là các ngành công
nghiệp nội dung số. Trong quá trình phân tích thực trạng phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa của Nhật Bản, Luận văn tập trung giai đoạn từ đầu thế kỷ
XXI đến nay. Để rút ra được những bài học cho Việt Nam, Luận văn nghiên cứu,
đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa của Việt Nam trong giai đoạn
- Sử dụng phương pháp phân tích so sánh để xem xét đánh giá vai trò của
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986) đến nay.

công nghiệp văn hóa đối với nền kinh tế Nhật Bản, thực trạng của công nghiệp
5. Việt
Phƣơng
văn hóa
Nam.pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê đánh giá dựa trên tư liệu từ các
nguồn sách, báo, website và hội thảo để làm rõ nội dung nghiên cứu.
Ý nghĩa
lý làm
luậnrõvàmột
thựcsốtiễn
luận
-6.Trên
cở sở
vấncủa
đề lí
luậnvăn
liên quan đến công nghiệp văn
hóa, Luận văn đã phân tích chính sách của Chính phủ Nhật Bản trong lĩnh vực
phát triển công nghiệp văn hóa; đồng thời đánh giá, làm rõ thực trạng, ý nghĩa, vai
trò của công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản chủ yếu về phương diện kinh tế trong
7


những năm từ 2000 đến nay. Trên cơ sở đó, Luận văn phân tích thực trạng phát
triển công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay và đưa ra một số gợi mở nhằm xây
dựng các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa
Việt Nam trong thời gian tới.
- Kết quả nghiên cứu luận văn là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu giảng
dạy và xây dựng chính sách phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 chương

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA
1.1. Khái niệm về công nghiệp văn hóa
1.1.1. Công nghiệp văn hóa là

Sự phát triển của các nền kinh tế tri thức và sự hiện đại hóa không ngừng của
mạng lưới công nghệ thông tin đã cho phép con người dễ dàng toàn cầu hóa việc
chia sẻ tri thức cũng như cảm xúc. Từ đây, hàng loạt sản phẩm văn hóa, nghệ thuật
đã được sản xuất với khối lượng gia tăng và chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu
thưởng thức văn hóa ngày càng lớn của công chúng vượt lên mọi rào cản về địa lý.
Sự bùng nổ của các sản phẩm văn hóa cũng như những tác động đa chiều của nó
đến sự phát triển của nhiều quốc gia khiến cho người ta buộc phải thừa nhận vị trí
trọng tâm của văn hóa trong một xã hội phát triển, coi văn hóa là mục đích, động cơ
của sự phát triển cũng như là công cụ sắc bén để điều tiết xã hội... Từ đó, khái niệm
công nghiệp văn hóa cũng trở thành một đề tài được quan tâm và bàn luận.
Trước hết, cần phải khẳng định công nghiệp văn hoá xuất hiện từ thực tế vận
động của sáng tạo văn hoá trở thành hoạt động sản xuất xã hội. Các sản phẩm văn
hóa ban đầu được tạo ra đơn thuần để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo cá nhân cũng như
thể hiện cái tôi của người nghệ sỹ. Vì thế, về bản chất, nói đến sản phẩm văn hóa là
nói đến những sáng tạo nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân, giàu tính độc đáo,
đơn nhất, nó thể hiện cái tôi và toát lên khí chất và sự kiêu hãnh của người tạo ra nó.
Khoảng nửa đầu thế kỷ XX, bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu sáng tạo cá
nhân, các sản phẩm văn hóa manh nha được sử dụng như một loại hàng hóa để trao

đổi, mua bán nhằm trang trải cuộc sống. Dần dần, lượng cung- cầu các sản phẩm
này ngày càng tăng dẫn đến quy luật cạnh tranh tất yếu; từ đó đòi hỏi sự phát triển,
thay đổi không ngừng của phương thức sản xuất cũng như sự kết hợp với khoa học
công nghệ. Để bán được nhiều hơn, các sản phẩm văn hóa buộc phải đại chúng hơn,
thích nghi được với thị hiếu của số đông người tiêu dùng. Vì thế, dần có sự chuyển
mình âm thầm về bản chất của các sản phẩm văn hóa mà ở đó tính đơn lẻ cá biệt

9


trong những tác phẩm nghệ thuật không còn được đề cao, thay vào đó là tính đại trà,
dễ thích nghi với nhiều đối tượng người tiêu dùng.
Các sản phẩm văn hóa được ra đời hàng loạt kiểu này ban đầu được xem như
một bước thụt lùi của sáng tạo văn hóa, là một biến thể méo mó, làm mất “chất”
những sản phẩm văn hóa nguyên bản lúc ban đầu. Bởi vậy, khi khái niệm công
nghiệp văn hóa lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1930 đã gây ra nhiều tranh
cãi. Bản thân Theodor Adorno, một lý luận gia người Đức, người được cho là cha
đẻ khai sáng ra thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa” ban đầu cũng quan niệm công
nghiệp văn hóa giống như một cỗ máy sản xuất hàng loạt các sản phẩm văn hóa
theo một tiêu chuẩn cố định và lôi kéo quần chúng vào một xã hội tiêu thụ và thụ
hưởng văn hóa một cách thụ động [27, tr.9]. Thậm chí nhiều nhà văn hóa cho rằng
công nghiệp văn hóa sẽ làm hạn chế tính tự do sáng tạo và cảm thụ con người.
Nhiều quan điểm cùng thời cũng cho rằng công nghiệp văn hóa là biến tướng
của dây chuyền sản xuất sản phẩm văn hóa hàng loạt nhằm “tẩy não”, lôi kéo quần
chúng nhằm phục vụ cho các mục đích riêng của chủ nghĩa tư bản. Hay có quan
điểm e ngại rằng công nghiệp văn hóa thực chất là sự “ xâm lăng văn hóa”, “áp đặt
giá trị” đến từ các cường quốc công nghệ cao, có khả năng thống lĩnh thị trường tiêu
thụ văn hóa. Một số nhà nghiên cứu thì cho rằng “ kinh tế” và ”văn hóa” là hai
đường thẳng song song không hề có điểm chung, môt bên là giá trị vật chất, một
bên là tinh hoa tâm hồn, áp đặt kinh tế và văn hóa vào cùng một phạm trù sẽ làm

tầm thường hóa, vật chất hóa các giá trị văn hóa.
Thực ra, những quan điểm nhấn mạnh vào mặt tiêu cực của công nghiệp văn
hóa như trên không phải là vô căn cứ, nhất là khi hoạt động sản xuất kinh doanh các
sản phẩm văn hóa là các hoạt động hoàn toàn vị kinh tế. C.Mác đã từng phê phán
việc biến văn hóa thành sản phẩm công nghiệp phục vụ cho lợi ích kinh tế của giai
cấp tư sản. Cho đến ngày nay, đây cũng vẫn là một mảng tối của công nghiệp văn
hóa [19, tr.28-31].
Tuy nhiên, ngoài những khía cạnh tiêu cực, không thể phủ nhận công nghiệp
hóa văn hóa đem lại rất nhiều tác động tích cực, bởi bản thân văn hóa có khả năng
10


tác động mạnh mẽ đến đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, đáp ứng nhu
cầu văn hóa đa dạng và phức tạp của xã hội. Sự phát triển của công nghiệp văn hóa
góp phần tạo nên quá trình đa dạng hóa và dân chủ hóa về tri thức cho xã hội, đồng
thời truyền bá sâu rộng những thông tin về nhiều lĩnh vực văn hóa, khuyến khích
sáng tạo và bảo tồn văn hóa. Cùng với xu hướng hội nhập quốc tế cũng như tiến bộ
của khoa học công nghệ, công nghiệp văn hóa dần dần thể hiện vai trò là “một tài
sản chiến lược trong chính sách ngoại giao”, “một công cụ hữu hiệu cho tăng
trưởng, đổi mới kinh tế” và là “yếu tố quan trọng trong thương mại và cạnh tranh
quốc tế”.
Ngày nay, “công nghiệp văn hóa” vẫn là một khái niệm mở, chưa có một
định nghĩa thống nhất nào về thuật ngữ này. Cũng thật dễ hiểu bởi khó có thể đem
một phạm trù trừu tượng như văn hóa ra để “định tính”, “định lượng”. Tuy vậy,
khái niệm “công nghiệp văn hóa” được sử dụng rộng rãi nhất cho đến nay là của
UNESCO đưa ra vào năm 2007. Đây là định nghĩa nhận được sự ủng hộ của các
nhà nghiên cứu và quản lý nói chung, lĩnh vực văn hóa nói riêng “Công nghiệp
văn hóa là các ngành sản xuất ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về nghệ
thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông
qua việc khai thác những giá trị văn hóa và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ

đưa vào tri thức (kể cả những giá trị văn hóa hiện địa và truyền thống. Điểm
chung nhất của các ngành công nghiệp văn hóa là nó sử dụng tính sáng tạo, tri
thức văn hóa và văn hóa” (UNESCO, 2007) [18, tr.16-22]; đơn giản hơn có thể
hiểu “công nghiệp văn hóa” là “ngành công nghiệp biến các thành quả sáng tạo
văn hóa thành hàng hóa thỏa mãn nhu cầu đa dạng của đại chúng…. Đặc trưng
của công nghiệp văn hóa là dựa trên quá trình sáng tạo văn hóa và ứng dụng khoa
học- công nghệ cao…. Sản phẩm công nghiệp văn hóa có sự kết hợp chặt chẽ giữa
giá trị kinh tế và giá trị văn hóa, có sức lan tỏa không bị hạn chế bởi giới hạn biên
giới, quốc gia.”
Trong những năm gần đây, khi ngành công nghiệp văn hóa ngày càng được
1.1.2.
Một sốquốc
kháigia
niệm
phát triển
ở nhiều
trênliên
thếquan
giới thì thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” cũng
được đề cập trong nhiều nghiên cứu hay các văn bản pháp quy. Song song với đó,
11


có một số thuật ngữ khác cũng xuất hiện phổ biến và đôi khi được sử dụng thay thế
cho thuật ngữ “công nghiệp văn hóa”. Đó là các thuật ngữ “công nghiệp sáng tạo”
(The Creative Industries) và “công nghiệp nội dung số” (The Content Industries).
Mặc dù các thuật ngữ này có liên quan và cùng chung một phạm trù sáng tạo nhưng
bản chất vẫn có những sắc thái khác nhau cả về mặt ngữ nghĩa và nội hàm.
- Công nghiệp sáng tạo
Thuật ngữ “Công nghiệp sáng tạo“ xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng những

năm 1990 tại Anh và Úc. Chính phủ Anh định nghĩa các ngành công nghiệp sáng
tạo là : “Những ngành công nghiệp có nguồn gốc từ sự sáng tạo, kỹ năng và tài
năng cá nhân, có khả năng tạo ra của cải và việc làm thông qua việc tạo ra và
khai thác các sở hữu trí tuệ” (Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao Vương
quốc Anh, 1997).
Năm 1997, Chính phủ Anh đã xác định danh mục các ngành công nghiệp
sáng tạo bao gồm 13 ngành là quảng cáo, kiến trúc, thịt trường nghệ thuật, đồ cổ,
thủ công, thiết kế, thiết kế thời trang, điện ảnh và video, phần mềm giải trí tương
tác, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phần mềm và các dịch vụ máy tính,
truyền hình và phát thanh. Mười năm sau, năm 2007, các ngành này được xác định
lại bao gồm 11 lĩnh vực: Quảng cáo, Kiến trúc, Thị trường nghệ thuật và đồ cổ,
Thủ công, Thiết kế, Thiết kế thời trang, Phim, video và nhiếp ảnh, Âm nhạc, nghệ
thuật thị giác và nghệ thuật biểu diễn, Xuất bản, Phần mềm, các trò chơi má tính
và xuất bản điện tử, Truyền hình và phát thanh [28, tr.34]
Tương tự, các học giả Úc cũng định nghĩa: “Các ngành công nghiệp sáng
tạo là những hoạt động áp dụng sự sáng tạo, kỹ năng và sở hữu trí tuệ để sản xuất
và phân phối các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa xã hội và văn hóa”[32, tr.71]
Như vậy, công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng tạo và tạo ra các giá trị mới.
Theo các định nghĩa ở trên thì nguyên liệu đầu vào của các ngành công nghiệp
sáng tạo là sự sáng tạo, kỹ năng, tài năng cá nhân và các sở hữu trí tuệ. Các
nguyên liệu này được khai thác, sản xuất và tạo ra các sản phẩm có ý nghĩa xã hội
và văn hóa. Các sản phẩm đầu ra là những
12 giá trị sáng tạo và sở hữu trí tuệ mới.


Từ những định nghĩa trên, có thể thấy nếu như “công nghiệp văn hóa” nhấn mạnh
đến các ngành công nghiệp đa dạng có tính sáng tạo bắt nguồn từ những di sản, tri
thức truyền thống và các yếu tố nghệ thuật sáng tạo, thì “công nghiệp sáng tạo”
nhấn mạnh vào sự sáng tạo cá nhân, sự đổi mới, cách tân, những kĩ sảo, kỹ năng
trong việc khám phá tính đa dạng của tri thức. Như vậy, nói đến “ công nghiệp văn

hóa”, đặc tính “ văn hóa” và yếu tố truyền thống thường được nhấn mạnh hơn đặc
tính” sáng tạo”. “Công nghiệp sáng tạo” có trọng tâm là các ngành công nghiệp
văn hóa nhưng không bị giới hạn bởi những ngành này; nghĩa là “ Công nghiệp
sáng tạo” hàm nghĩa rộng hơn, có thể bao gồm các ngành kinh tế ít mang nội hàm
văn hóa nhưng nặng tính sáng tạo như thiết kế công nghiệp, thiết kế phần mềm, báo
chí... nhấn mạnh hơn vào các hoạt động có tính sáng tạo và hữu ích. Nói một cách
khác, “công nghiệp văn hóa” là một bộ phận của “ công nghiệp sáng tạo”
- Công nghiệp nội dung
số
Công nghiệp nội dung số là một lĩnh vực trọng tâm trong phạm trù công
nghiệp văn hóa, ra đời dựa trên nền tảng phát triển kỹ thuật số hóa, và mạng
internet; sử dụng tài nguyên thông tin nhằm phục vụ quá trình sáng tác, phát triển,
phân phối, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Các sản
phẩm của công nghiệp nội dung số thường thuộc phạm trù văn hóa giải trí và có sức
lan tỏa vô cùng manh mẽ như điện ảnh, ca nhạc, truyện tranh, phim hoạt hình, nghệ
thuật biểu diễn, game, show truyền hình, nhân vật sự kiện...Với sự hỗ trợ đắc lực
của công nghệ thông tin, công nghiệp nội dung số luôn đi đầu bắt kịp hay thậm chí
là tạo ra các sản phẩm mang tính định hướng cho các trào lưu của giới trẻ. Theo
đánh giá của các nhà nghiên cứu, ngành công nghiệp nội dung số trong thời gian tới
sẽ ngày càng khẳng định vài trò to lớn đối với sự phát triển đời sống kinh tế- xã hội
song hành với sự phát triển của công nghệ thông tin và internet. Vì vậy, đầu tư phát
triển công nghiệp nội dung số là một việc làm cần thiết, là một sự chuẩn bị sẵn sàng
cho xây dựng nền kinh tế tri thức. Hiện nay ở Nhật Bản, khi nói đến công nghiệp
văn hóa, người ta chú trọng tới lĩnh vực công nghiệp nội dung số nhiều hơn.

13


1.1.3. Cơ cấu công nghiệp văn
hóa

Trên thế giới, tùy theo cách tiếp cận riêng của mỗi quốc gia mà cơ cấu của
ngành công nghiệp văn hóa cũng có nhiều quan nhiệm khác nhau. Ở các nước châu
Âu, khái niệm công nghiệp văn hóa thường gắn liền với tập hợp các ngành kinh tế
khai thác và sử dung hiệu quả, tính sáng tạo kỹ năng sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản
phẩm dịch vụ có ý nghĩa văn hóa xã hội; bởi vậy cơ cấu của nó bao gồm 11 ngành:
quảng cáo, kiến trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết
kế mỹ thuật, điện ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát
thanh truyền hình và phẩn mềm vi tính...[36, tr.55] Nhờ áp dụng những thành tựu
khoa học công nghệ đặc biệt là điện tử và tin học mà những ngành nghề trên tập
trung rất nhiều hàm lượng sáng tạo, đáp ứng được nhu cầu đông đảo quần chúng và
đem lại lợi nhuận khổng lồ.
Nếu như các nước châu Âu đưa ra 11 lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn
hóa như đã nêu trên thì một số nước châu Á lại chỉ đề cập đến 6 hoặc 7 lĩnh vực
như: điện ảnh, phát thanh truyền hình, báo chí, xuất bản, in và sản xuất băng đĩa,
quảng cáo và dịch vụ giải trí...
Ở góc nhìn khác, nếu phân theo các nhóm ngành thì UNCTAD (Hội nghị
Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển) phân chia công nghiệp văn hóa ra 4
nhóm ngành:
1. Di sản: Di sản văn hóa được xác định là nền tảng của tất cả các hình thức
nghệ thuật và tâm hồn của ngành công nghiệp văn hóa. Đó là di sản mà tập hợp các
khía cạnh văn hóa từ lịch sử, nhân chủng học, dân tộc, tính thẩm mỹ và xã hội, ảnh
hưởng sáng tạo và là nguồn gốc của một số hàng hóa, dịch vụ di sản cũng như các
hoạt động văn hóa. Gắn liền với di sản là khái niệm “ kiến thức truyền thống và
biểu đạt văn hóa” gắn liền với việc sáng tạo trong nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ,
cũng như trong văn học dân gian và lễ hội văn hóa truyền thống. Do đó, nhóm này
lại được phân ra làm hai nhóm nhỏ:
+ Biểu đạt văn hóa truyền thống: nghệ
14 thuật và hàng thủ công, lễ hội và
lễ kỷ niệm + Địa danh văn hóa: Văn hóa khảo cổ, bảo tàng, thư viện, triển
lãm....



2. Nghệ thuật: Nhóm này bao gồm các ngành công nghiệp sáng tạo hoàn toàn
dựa trên nghệ thuật và văn hóa. Tác phẩm nghệ thuật được lấy cảm hứng từ di sản,
giá trị
bản sắc và ý nghĩa tượng trưng. Nhóm này được chia làm hai phân nhóm
nhỏ:
+ Nghệ thuật thị giác: Hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh và đồ cổ
+Nghệ thuật biểu diễn: Nhạc sống, hát, múa, kịch, xiếc, múa rối..v..v..
3. Truyền thông: Nhóm này bao gồm hai phân nhóm tạo ra nội dung sáng tạo
nhằm mục đích giao tiếp với lượng khán giả đông đảo (phương tiện truyền thông
mới “new media” được phân loại riêng):
+ Xuất bản và báo in: Sách, báo chí và các ấn phẩm khác...
+ Nghe nhìn: Phim, truyền hình, phát thanh..v..v....
4. Sáng tạo chức năng: Nhóm này bao gồm các ngành công nghiệp dịch vụ
và theo nhu cầu sáng tạo ra hàng hóa và dịch vụ với mục đích phục vụ cho một
chức năng nào đó. Nhóm này được chia ra thành các nhóm sau đây:
+ Truyền thông mới: Phần mềm, trò chơi video và các nội dung sáng tạo
+ Thiết kế: Nội thất, đồ họa, thời trang, đồ trang sức, đồ chơi...
số hóa....
+ Dịch vụ sáng tạo: Kiến trúc, quảng cáo, dịch vụ giải trí và văn hóa, nghiên
cứu và phát triển sáng tạo (R&D), các dịch vụ sáng tạo kỹ thuật số và các dịch vụ
sáng tạo liên quan khác.
1.2. Quy trình sáng tạo và phân phối các sản phẩm công nghiệp văn hóa
1.2.1. Khái quát quy trình sáng tạo và phân phối sản phẩm công
nghiệp
Công nghiệp văn hóa có rất nhiều lĩnh vực khác nhau với những đặc thù
riêng biệt và thị trường tiêu thụ độc lập. Vì vậy, quy trình để tạo ra một sản phẩm
văn hóa
văn hóa có giá trị thương mại ở những lĩnh vực khác nhau cũng không không giống

nhau. Ví dụ như hình thức và cách thức sản xuất, phân phối của ngành mỹ thuật
không thể giống ngành âm nhạc. Tuy nhiên, với tư cách là một ngành công nghiệp
các lĩnh vực trong nền công nghiệp văn hóa đều phải trải qua những khâu cơ bản
như: Hình thành và phát triển ý tưởng; sáng tạo/ sản xuất, phát hành/ phân phối, tiêu
15


thụ/ bảo quản. Đây chính là những mắt xích quan trọng làm nên quy trình sáng tạo
và phân phối sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa. Thực chất, hai hệ thống sản
xuất cơ bản nhất của loài người là hệ thống sản xuất vật chất và hệ thống sản xuất
tinh thần. Nếu hệ thống sản xuất vật chất có nhiệm vụ sản xuất, bảo quản, phân phối
và tiêu thụ hàng hóa vật chất thông thường như máy móc, xe cộ… Chức năng chính
là đảm bảo sự trao đội vật chất giữa con người với tự nhiên, đáp ứng nhu cầu vật
chất của con người như ăn mặc, ở, đi lại… giúp con người tồn tại như 1 sinh thể; thì
hệ thống sản xuất tinh thần lại có nhiệm vụ sản xuất, duy trì, phân phối và tiêu thụ
các sản phẩm/giá trị tinh thần như tác phẩm văn học, tranh, ảnh….Chức năng của
hệ thống này là bồi dưỡng con người về mặt tri thức, đạo đức, tình cảm, đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người, giúp con người trong xã hội phát triển đồng đều và
khăng khít hơn. Các ngành công nghiệp văn hóa chính là một bộ phận trong hệ
thống sản xuất tinh thần đó.
1.2.2. Một số đặc điểm của quy trình sáng tạo và phân phối sản phẩm
công
nghiệp văn
hóa
Như đã trình bày ở trên, quá trình sáng tạo và phân phối công nghiệp văn hóa
bao gồm các công đoạn chính là sản xuất, phân phối, tiêu dùng và bảo quản, tương
tự như ở hệ thống sản xuất vật chất. Tuy nhiên, nếu trong các ngành thuộc hệ thống
sản xuất vật chất, một trong những khâu trên có thể tồn tại độc lập thì đối với công
nghiệp văn hóa, nhiều khi các công đoạn trong quy trình nói trên không có sự tách
biệt rạch ròi. Đối với các ngành công nghiệp văn hóa tạo ra sản phẩm là hoạt động

và dịch vụ thì quá trinh sản xuất, phân phối và tiêu thụ diễn ra đồng thời. Ví dụ, với
sản phẩm là vở kịch, múa hát hay chương trình ca nhạc biểu diễn trực tiếp thì quá
trình sáng tạo, biểu diễn của người nghệ sỹ diễn ra đồng thời với việc phân phối sản
phẩm này đến với công chúng, diễn ra đồng thời với việc thụ hưởng/ tiêu thụ sản
phẩm nghệ thuật của khán giả. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực khác như hội họa,
điêu khắc….thì các khâu trong quy trình sản xuất có thể tách biệt tương đương với
hệ thống sản xuất vật chất.

16


Quá trình sáng tạo và phân phối của công nghiệp văn hóa vừa dựa trên những
điều kiện vật chất như các ngành sản xuất vật chất, vừa dựa trên tài năng, tiềm năng
sáng tạo của cá nhân và xã hội. Nguyên liệu đầu vào cho sản xuất công nghiệp văn
hóa không chỉ ở dạng vật chất (máy móc, của cải, nguyên liệu thô…) mà còn ở
dạng
phi vật chất ( kiến thức, kinh nghiệm, gu thẩm mỹ, cảm xúc…) Như vậy sản phẩm
tạo ra từ một phần quan trọng là sự sáng tạo và tài năng của nhà sản xuất. Do đó,
quá trình sản xuất ra sản phẩm văn hóa gắn kết chặt chẽ với tài năng và óc sáng tạo
của người nghệ sỹ/tác giả.
Một trong những đặc điểm khác nữa của quá trình sáng tạo và phân phối các
sản phẩm công nghiệp văn hóa là tính đơn lẻ, cá biệt. Trong sản xuất vật chất, có
thể có một tổ chức lao động theo quy mô tập thể như xí nghiệp, nhà máy…hoạt
động môt cách dập khuôn hay theo quy mô lớn. Tuy nhiên, trong ngành công
nghiệp văn hóa, người sáng tác chủ yếu làm việc độc lập, đơn lẻ. Tất nhiên, cũng có
những trường hợp cần đến sự hợp tác nhất định. Ví dụ như: họa sỹ hay nhà văn
muốn sáng tạo nghệ thuật thường làm việc độc lập. Cũng có trường hợp một cuốn
sách được viết bởi nhiều tác giả. Trong trường hợp này, sẽ có sự phân công lao
động rõ rệt, mỗi người phụ trách một phần/ chương của cuốn sách. Sản phẩm tạo ra
cũng thường mang tính độc lập, đơn nhất, độc đáo. Ví dụ như: Cùng một họa sỹ

nhưng không có bức tranh nào giống như bức tranh nào.[24, tr.26-38]
1.3. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa
1.3.1. Phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển kinh
tế
Ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế
của mỗi khu vực, mỗi quốc gia hay thậm chí là trên quy mô toàn cầu. Ở các nước
phát triển, công nghiệp văn hóa đã và đang trở thành ngành mũi nhọn trong nền
kinh tế.
Đối với kinh tế đối nội, khác với các ngành công nghiệp đặc thù trọng về
khái thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, công nghiệp văn hóa lại tập
trung khai thác nguồn tài nguyên vô hạn là tài nguyên văn hóa, đem văn hóa trở
thành công cụ phục vụ phát triển kinh tế quốc gia. Với đặc trưng sáng tạo, kết hợp
17


cùng công nghệ hiện đại, công nghiệp văn hóa đóng vai trò mở ra hướng đi mới đột
phá trong phát triển kinh tế tri thức, kinh tế văn hóa nhằm phát triển toàn diện kinh
tế theo chiều sâu. Công nghiệp văn hóa khai thác các giá trị văn hóa trên nền tảng
cơ chế thị trường, tạo nguồn lực cho tái đầu tư phát triển văn hóa. Nhờ các thành
tựu khoa học công nghệ tạo ra các phương thức sản xuất mới và nhờ sự sáng tạo,
các giá trị văn hóa được tiếp biến, hiện đại hóa và phổ biến hiệu quả.
Công nghiệp văn hóa đóng vai trò là một lực lượng sản xuất văn hóa có khả
năng tạo ra các sản phẩm tinh thần cao đẹp cho xã hội đồng thời mang lại hiệu quả
kinh tế thiết thực tạo ra sự phát triển bền vững. Từ góc độ tăng trưởng kinh tế
truyền thống, bản thân lực lượng sản xuất văn hóa chính là một bộ phận ngày càng
có vị trí quan trọng.
Công nghiệp văn hóa có khả năng giải phóng lực lượng sản xuất to lớn và
khai thác những tiềm năng kinh tế dồi dào trong vốn văn hóa truyền thống của mỗi
quốc gia như di sản văn hóa vật chất và tinh thần, cảnh quan thiên nhiên, tập tục bản
địa. Công nghiệp văn hóa không chỉ cần đến những nhà sáng tạo mà còn mang đến

công ăn việc làm cho nhiều lao động ở những khâu trung gian trong quá trình đưa
sản phẩm văn hóa đến với quần chúng.
Công nghiệp văn hóa phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển những ngành
công nghiệp liên quan như công nghiệp máy móc, công nghiệp sản xuất trang thiết
bị, công nghiệp giải trí và dịch vụ... Tại nhiều nước, công nghiệp văn hóa phát triển
mạnh mẽ, đóng vai trò là ngành công nghiệp trụ cột, là điểm sáng về tăng trưởng
trong đời sống kinh tế hiện thực.
Đối với kinh tế đối ngoại, công nghiệp văn hóa không những là công cụ tăng
trưởng, đổi mới đem lại lợi nhuận cao cho một nền kinh tế mà trong thời đại toàn
cầu hóa, nó còn là ngành xuất khẩu đầy triển vọng đối với nhiều nước trên thế giới,
là thành tố quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế. Cùng với sự hỗ trợ của
quá trình toàn cầu hóa, các phương tiện truyền thông internet hay các dòng di dân,
văn hóa cũng như các sản phẩm văn hóa vượt ra khỏi mọi rào cản về biên giới để đi
tới tất cả những nơi mà con người đặt chân đến, khiến họ có cái nhìn và hiểu biết
18


×