Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH tư TƯỞNG của lê NIN về bảo vệ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG sự NGHIỆP bảo vệ tổ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.67 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

2

1.

Tư tưởng của Lênin về bảo vệ thành quả cách mạng.

3

2.

Sự vận dụng tư tưởng bảo vệ thành quả cách mạng

9

3.

của Hồ Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng bảo vệ thành quả cách mạng của

14

Lênin vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện
4.

nay.
Một số vấn đề cần quán triệt qua sự vận dụng của


19

đảng ta.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

25
26

MỞ ĐẦU
Quan điểm về bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân được
bắt nguồn từ những tư tưởng cơ bản mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra, là cơ


2
sở khoa học quan điểm về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo các ông, dưới
sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không có Tổ quốc. Cái Tổ
quốc mà giai cấp tư sản rêu rao, thực chất đó là Tổ quốc của giai cấp tư sản. Do
đó, giai cấp công nhân không phải bảo vệ cái mà họ không có là Tổ quốc của
giai cấp tư sản. Trái lại, để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội, giai cấp
công nhân phải đứng lên đấu tranh lật đổ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản,
phải giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ, trở thành giai cấp thống trị xã hội,
trở thành giai cấp dân tộc, đại biểu cho dân tộc. Trong cuộc chiến đấu đó, giai
cấp công nhân từng bước giành được những thắng lợi và phải biết bảo vệ và phát
huy những thành quả thắng lợi đó, tiến tới giành những thắng lợi to lớn hơn và
giành được thắng lợi cuối cùng. “Với tư cách là người đại diện cho dân tộc, giai
cấp công nhân có Tổ quốc của mình, họ là người đại diện cho Tổ quốc, họ có
nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng để bảo vệ những
thành quả cách mạng đã đạt được, bảo vệ Tổ quốc của mình” 1. V.I. Lê-nin là
người trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga thành công; lãnh đạo công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc can thiệp, xâm lược
và chống bọn địa chủ, tư sản chống đối, bảo vệ nước Nga Xô-viết. V.I. Lê-nin là
người đầu tiên xây dựng nên học thuyết về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần học thuyết của V.I. Lê-nin về mối quan hệ giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đặc biệt là tư tưởng “Một cuộc
cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự bảo vệ ”; đồng thời, trên cơ sở kế thừa
những kinh nghiệm của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới và
truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt điều đó vào hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối chiến lược và sách lược
phù hợp; đồng thời, tổ chức giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ
1

C.Mác& Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H1995, tr.528


3
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình thế giới, khu vực
và trong nước diễn biến phức tạp, khó lường…. Đây cũng là một trong những nhiệm
vụ tổng quát mà Đảng ta xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên
hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng” 2.
NỘI DUNG
1. Tư tưởng của Lênin về bảo vệ thành quả cách mạng.
Lịch sử càng lùi xa, càng khẳng định những giá trị to lớn của Cách mạng

Tháng Mười Nga. Cuộc cách mạng vô sản vĩ đại ấy đã để lại cho những người
cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới
nhiều bài học vô cùng quý giá, có ý nghĩa quốc tế và thời đại sâu sắc. Trong
những điều kiện lịch sử mới của những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
đồng thời với việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác về cách mạng vô sản, V.I. Lênin
đã xây dựng một học thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Dựa vào tính chất và ý nghĩa của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, V.I. Lê-nin cho rằng: thắng lợi của cách mạng vô sản sẽ làm cho bọn đế
quốc, tư sản lo sợ; vì vậy, chúng sẽ tìm mọi biện pháp để bóp chết chế độ xã hội
chủ nghĩa. Các nước xã hội chủ nghĩa khó tránh khỏi cuộc xâm lược, lật đổ của
các nước đế quốc, mà vào lúc đó thì biện pháp tiến công quân sự, được chúng
coi là hữu hiệu nhất. Cách mạng Tháng Mười thành công; nước Nga Xô-viết ra
đời, thì ngay trong tháng 11-1917, các nước đế quốc đã họp nhau lại tại Pa-ri để
bàn việc tiến công xâm lược hòng bóp chết chính quyền non trẻ. Đầu năm 1918,
2

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.78


4
các nước: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật đã đổ quân xâm lược lên nhiều vùng lãnh thổ
của Nga. Cùng lúc, bọn địa chủ, tư sản phản động trong nước Nga, được sự cổ
vũ và tiếp tay của các thế lực đế quốc bên ngoài, dấy quân nổi loạn, cướp chính
quyền ở nhiều địa phương. Vấn đề đặt ra đối với nước Nga lúc đó rất rõ ràng:
nếu để mất độc lập sẽ mất chế độ Xô-viết, nước Nga sẽ rơi vào ách thống trị của
các nước đế quốc. Trước tình thế đó, Đảng Bôn-sê-vích và Nhà nước Xô-viết do
V.I. Lê-nin đứng đầu đã thực hiện những biện pháp khẩn cấp về chính trị, quân
sự, kinh tế, xã hội để đánh bại thù trong giặc ngoài, giữ vững nền độc lập của
nước Nga Xô-viết. V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng
ta là những người chủ trương bảo vệ tổ quốc… cuộc chiến tranh giữ nước mà

chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
…”3. Từ đó đến nay, học thuyết xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa của V.I. Lê-nin là quy luật phổ biến của các nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
V.I. Lê-nin trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong những năm chính quyền Xô viết non trẻ. Thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội trước tiên ở một số nước hoặc thậm chí ở một nước riêng biệt, nhất
định sẽ gặp phải sự chống quyết liệt của giai cấp tư sản mong muốn tiêu diệt giai
cấp vô sản, vì thế tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là hợp lý và chính nghĩa.
Đó là một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng các dân
tộc khác khỏi ách áp bức của giai cấp tư sản. Sau cuộc Cách mạng Tháng Mười,
chủ nghĩa đế quốc đã tiến công xâm lược nước Nga Xôviết và nhân dân các dân
tộc Nga buộc phải cầm vũ khí để bảo vệ nền tự do độc lập của mình.
Với quan điểm: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự
bảo vệ”4, V.I.Lê-nin đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự cần thiết phải bảo vệ thành
quả cách mạng, “bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ quốc” 5 của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. V.I.Lê-nin rất chú trọng đến việc xây dựng lực
3

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 36, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va. 1978, tr. 102.
V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.37, tr. 145
5
V.I.Lê-nin: Sđd, t.36, tr. 102
4


5
lượng vũ trang, xây dựng Hồng quân vững mạnh, tăng cường khả năng quốc
phòng, coi đó là một nhiệm vụ hệ trọng của chính quyền mới. Ông chỉ rõ: “Hãy
chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo
đến con ngươi trong mắt mình, và hãy nhớ rằng chúng ta không được phép lơ là

một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nông dân của ta và bảo vệ
những thành quả của họ”6, nếu không thì “không thể tồn tại được”. Sắc lệnh
ruộng đất, Sắc lệnh hoà bình và nhiều quyết định quan trọng về xây dựng, bảo vệ
chế độ mới được ban hành. Những vấn đề, như chống chiến tranh, bảo vệ đất
nước, những nguyên tắc mới trong quan hệ quốc tế của Sắc lệnh hoà bình đã tạo
điều kiện quan trọng xây dựng quốc phòng và lực lượng vũ trang của nước Nga
non trẻ. Đảng và Nhà nước Xô-viết ra sức động viên các tầng lớp nhân dân, huy
động mọi lực lượng xây dựng xã hội mới, đồng thời nêu cao ý thức bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng quốc phòng, quân đội công nông vững mạnh, thực hiện những
biện pháp kiên quyết bảo vệ chính quyền non trẻ, vượt qua mọi sự chống
phá, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, chủ nghĩa xã hội hiện thực
luôn phải đương đầu với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Sự can
thiệp vũ trang, bao vây của các nước đế quốc chống nhà nước Xô-viết non trẻ;
cuộc tấn công của chủ nghĩa phát-xít hòng tiêu diệt Liên Xô; việc tiến hành
Chiến tranh lạnh của các thế lực đế quốc, phản động làm suy yếu, tiến tới làm
sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; những cuộc chiến
tranh chống các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hoà bình” chống chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp diễn cho đến tận hôm
nay,... đã phản ánh sâu sắc tính chất gay go, quyết liệt của thời đại lịch sử quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của
vấn đề bảo vệ chế độ xã hội mới, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa có đủ sức
mạnh và biết tự bảo vệ.
6

V.I.Lê-nin: Sđd, t. 44, tr. 368 – 369


6
V.I. Lênin không những chỉ ra xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa do quy luật của cuộc đấu tranh giai cấp chi phối
mà ông còn phân tích về mặt lý luận sự phụ thuộc của tiến trình và kết cục của
chiến tranh vào những điều kiện kinh tế và những điều kiện xã hội khác; vạch ra
những quy luật cơ bản của sự hình thành sức mạnh quân sự của các nước và sức
chiến đấu của lực lượng vũ trang. V.I. Lênin đã phát triển sáng tạo quan điểm
của C. Mác và Ph. Ăngghen về các vấn đề quân sự, đặt tiến trình và kết cục của
chiến tranh phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế và chính trị - xã hội. Ông viết:
"Chưa bao giờ mối liên hệ giữa tổ chức quân sự của một nước với toàn bộ chế độ
kinh tế và văn hoá của nước ấy lại hết sức chặt chẽ như ngày nay" 7. Chúng ta chủ
trương bảo vệ tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối
với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước
nhà. Cuộc chiến tranh này cần được chuẩn bị trước, lâu dài, nghiêm túc, bắt đầu
từ kinh tế"8. Chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trực tiếp tạo ra tiềm lực
kinh tế, tinh thần, tiềm lực quân sự cho bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại lịch sử Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết, thắng lợi
của nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941 - 1945) đã
chứng minh những quan điểm lý luận của V.I. Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ giữa hai cuộc
chiến tranh giữ nước, sự nghiệp xây dựng đất nước và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc
đã được Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô tiến hành một cách kiên quyết.
Đảng Cộng sản, Nhà nước Xôviết, nhân dân Liên Xô đã tập trung mọi nỗ lực
phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng của đất
nước, ngăn chặn và đập tan mưu toan của những lực lượng phản cách mạng
trong nước câu kết với chủ nghĩa đế quốc để gây nội chiến dọn đường cho các
cuộc can thiệp vũ trang nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Nhờ có sức mạnh kinh tế,
7

8

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, 1979, tr. 192

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 35, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, 1976, tr. 480.


7
chính trị và quân sự, Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết đã chiến
thắng, góp phần quyết định, tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít, tránh cho loài
người phải chịu thảm họa diệt chủng.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa được thực hiện không phải một cách tự phát mà là hoạt động tự
giác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, V.I. Lênin khẳng định Đảng
Cộng sản là người lãnh đạo, động viên tổ chức nhân dân vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ Đảng Cộng sản là người nắm vững lý
luận Mác - Lênin, hiểu rõ các quy luật của sự phát triển xã hội và của chiến
tranh, vận dụng sáng tạo các quy luật đó để giải quyết những vấn đề về xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản được nhân dân lao động tin
tưởng và ủng hộ, vì ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc, Đảng Cộng
sản không có lợi ích nào khác. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa thể hiện trước hết là ở chỗ Đảng đề ra đường lối xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đề ra đường lối đối nội và đối ngoại; đề ra
đường lối quân sự để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của nhân dân và quân đội; xác
định nội dung và phương hướng xây dựng các lực lượng vũ trang v.v...
V.I. Lênin còn chỉ rõ hai mặt hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa phải đan xen, xâm nhập vào nhau. Bất cứ hoạt động xây dựng nào
cũng phải nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, bảo vệ độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ chính trị
xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là chống sự xâm lược của chủ nghĩa
đế quốc mà còn là sự tự bảo vệ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để phát
triển vững chắc, ngăn chặn được các nguy cơ nội chiến. Vì vậy, ông yêu cầu tất
cả các hoạt động đối nội, đối ngoại, quân sự, chính trị, kinh tế và khoa học phải
nhằm tạo nên sức mạnh toàn diện của đất nước, đặc biệt là sức mạnh quân sự để

đẩy lùi, ngăn chặn, đập tan mọi âm mưu lật đổ và vũ trang xâm lược của chủ


8
nghĩa đế quốc, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và mọi thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi
đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội phát
triển vững chắc. Nếu coi nhẹ một trong hai mặt đó, hoặc tách rời giữa chúng thì
chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh giá trị to lớn của bài học cách mạng
phải biết tự bảo vệ. Biết tự bảo vệ đòi hỏi vừa phải không ngừng gia tăng sức
mạnh toàn diện, tăng cường nội lực, giữ gìn nội bộ trong sạch, vừa phải thường
xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, ứng phó khôn khéo, chính xác với mọi biến
động của tình hình, với mọi sự chống phá từ cả bên trong và bên ngoài. Giành
chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền còn khó hơn. Vấn đề giữ chính
quyền không chỉ thuần tuý là chống mưu toan và hành động chống phá của thù
trong, giặc ngoài, mà còn là xây dựng, củng cố và sử dụng chính quyền ấy để
kiến tạo một xã hội mới trong suốt tiến trình cách mạng, để xây dựng và bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, làm cho chính quyền ấy biết tự bảo vệ mình, ngày càng
vững mạnh.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã để lại
một bài học đau xót và thấm thía về sự không thể tự bảo vệ, về sự tự làm mất sức
đề kháng của đảng cộng sản ở các nước đó trước các đòn tiến công tinh vi, xảo
quyệt, ráo riết của các thế lực thù địch. Lịch sử tồn tại, phát triển của chủ nghĩa
xã hội hiện thực đòi hỏi các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa càng phải
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phải nhận thức sâu sắc bài học cách
mạng, biết tự bảo vệ, chăm lo quốc phòng, gia tăng sức mạnh đất nước, đủ sức
đương đầu với mọi thử thách. Đổi mới, phát triển kinh tế, mở cửa, giao lưu với
thế giới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không khi nào được lơi lỏng nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ sống còn này càng cần phải

được tuân thủ nghiêm ngặt trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.


9

2. Sự vận dụng tư tưởng bảo vệ thành quả cách mạng của Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên và cụ thể hóa tư tưởng về dựng nước
đi đôi với giữ nước. Kế thừa tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của dân
tộc, nghiên cứu Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và các quan điểm
của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về cách mạng vô sản; cùng với thực tiễn
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, cuộc
đấu tranh cho hoà bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội, công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, đã tác động lớn đến sự hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước.
Không chỉ tiếp thu sâu sắc quan điểm lý luận của C. Mác, Ph.ăngghen, V.I.
Lênin về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mà trong những điều
kiện lịch sử mới của đất nước và thời đại, Hồ Chí Minh đã phát triển và làm
phong phú thêm lý luận đó bằng những nguyên lý mới. Ngay sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã trực tiếp và chỉ đạo việc xây dựng Hiến
pháp và các bộ luật của Nhà nước ta. Người đã ra một loạt sắc lệnh về thiết lập
hệ thống chính quyền các cấp, tổ chức quân đội cách mạng, toà án nhân dân, thủ
tiêu đặc quyền đặc lợi của thực dân, phong kiến, xây dựng nền kinh tế mới, văn
hoá giáo dục mới... nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh và Đảng ta giương cao
hơn bảy thập kỷ qua đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc,
thu giang sơn về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung cốt lõi, bao
trùm nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội không những thể hiện sự nhất quán, trung thành với con


10
đường mà dân tộc ta đã lựa chọn, mà còn là sự vận dụng đúng đắn tư tưởng của
Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước trong điều kiện mới. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện tổng quát nhất, bao trùm nhất tư
tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh, đồng thời là sự phản ánh
sâu sắc tính chính trị - giai cấp trong tư tưởng của Người. Dựng nước đi đôi với
giữ nước là để cứu nước, cứu dân; là để xây dựng đất nước phồn vinh, giang sơn
bền vững, trong đó mọi người dân đều được tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nhằm đạt đến mục tiêu đó. Tuy
nhiên cần thấy rằng, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà
Đảng và nhân dân ta đang đi không phải là thẳng tắp, không phải là không có
chông gai. Đồ thị phát triển của con đường ấy có thể còn có đoạn gấp khúc,
nhưng mũi tên cơ bản của hướng đồ thị là theo chiều tiến lên. Sự nghiệp xây
dựng xã hội mới thật sự là sự nghiệp khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ ràng hơn, có
những thuận lợi căn bản và thời cơ lớn. Với thế và lực của đất nước ta hiện nay,
với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhân dân ta sẽ tận dụng được thuận lợi, tranh thủ được thời cơ,
vượt qua khó khăn, khắc phục nguy cơ, thực hiện thắng lợi những mục tiêu theo
con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội V, lần đầu tiên Đảng ta xác định hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Một là, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa”9. Đến Đại hội VI và các Đại hội sau đó, mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc, luôn coi
đó là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, cần phải thực hiện

nghiêm ngặt. Hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
9

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội 1982, tr. 4


11
quốc xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, không thể
tách rời trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược cần
phải kết hợp chặt chẽ với nhau. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế,
không có nghĩa coi quốc phòng là nhiệm vụ thứ yếu; xác định bảo vệ Tổ quốc là
nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” không có nghĩa là không tập trung cho
nhiệm vụ xây dựng đất nước, phát triển kinh tế.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng - an ninh. Trong lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân
tộc, Hồ Chí Minh luôn thấy rõ sự cần thiết phải kết hợp kháng chiến với kiến
quốc. Mối quan hệ hữu cơ tác động lẫn nhau giữa kháng chiến với kiến quốc
được Người chỉ rõ: “Phải cải cách ruộng đất để bồi dưỡng lực lượng nhân dân,
đảm bảo kháng chiến thắng lợi. Phải đẩy mạnh kháng chiến để bảo đảm cải cách
thành công”10. Phát triển kinh tế - xã hội không chỉ tạo điều kiện để tăng cường
tiềm lực quốc phòng của đất nước, mà còn phải tạo cơ sở cho việc xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Quốc phòng, an ninh gắn
kết với kinh tế - xã hội trước hết là nhằm bảo vệ sự ổn định xã hội, sự phát triển
lành mạnh, bền vững và độc lập tự chủ về kinh tế, “phục vụ cho phát triển kinh
tế - xã hội. Mở rộng kinh tế đối ngoại”. Như vậy, quốc phòng, an ninh là phải
bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Giữ vững ổn
định chính trị, bảo vệ hoà bình, ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch cả
bên trong và bên ngoài, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội... là những nội dung cụ

thể phản ánh nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ. Tư tưởng "đem sức ta mà giải
phóng cho ta", “dựa vào sức mình là chính”, “tự lực cánh sinh” của Hồ Chí Minh
10

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 192.


12
là tư tưởng cơ bản chỉ đạo và tạo ra động lực to lớn làm nên thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám vĩ đại. Tư tưởng ấy tiếp tục được thể hiện trong các cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong đó, tuy có sự giúp đỡ to lớn và có
hiệu quả của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, cũng như sự ủng hộ của nhân
dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn xác định tư tưởng cơ bản chỉ đạo của cuộc kháng chiến là: “Nâng
cao tư tưởng trường kỳ kháng chiến, tư lực cánh sinh”11.
Thứ năm, mở rộng quan hệ quốc tế. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới. Tư tưởng “Bốn phương vô sản đều là anh em” của Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ lập trường, thái độ của Đảng ta đối với việc thiết lập và mở
rộng quan hệ quốc tế. Đa dạng hoá là nói đến việc sử dụng nhiều hình thức,
nhiều “kênh” với các mức độ khác nhau trong quan hệ quốc tế để thực hiện đa
phương hoá. Đây là chính sách đối ngoại mềm dẻo, cho phép ta “thêm bạn, bớt
thù” - một phương châm ngoại giao khôn khéo mà Hồ Chí Minh đã từng thực
hiện rất thành công trong quá trình cách mạng nước ta, sẽ tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi để tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển đất nước.
Tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh là một hệ
thống hoàn chỉnh các luận điểm quan trọng của Người về mối quan hệ gắn bó
không thể tách rời giữa cách mạng giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và

giải phóng con người, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và mục tiêu chủ nghĩa xã
hội, giữa giành chính quyền và giữ chính quyền, xây dựng chính quyền đi đôi
với bảo vệ chính quyền cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh được thể hiện ở
tư tưởng kháng chiến đi đôi với kiến quốc, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Khi
hòa bình lập lại, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam còn bị tạm
chiếm, Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
11 Hồ

Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 137.


13
Bắc, vừa tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Khi đế quốc Mỹ mở
rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc bằng Không quân và Hải quân, Hồ Chí
Minh nêu lên tư tưởng vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa xây dựng và bảo vệ chủ
nghĩa xã hội, vừa tiếp tục giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà...
Tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh là một bộ
phận quan trọng trong di sản tư tưởng của Người, đã trở thành nền tảng lý luận
trực tiếp và là kim chỉ nam cho Đảng ta trong việc đề ra đường lối cách mạng
qua các thời kỳ lịch sử và nhờ đó Đảng đã lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
đã quán triệt tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước của Hồ Chí Minh và đã
giành thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước những biến động của thế giới những
năm qua, trước những thử thách và vận hội, đặc biệt là trước những âm mưu của
các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, chúng ta phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ
nước. Theo đó phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà

Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, kết
hợp xây dựng và bảo vệ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; giữ vững độc
lập tự chủ, bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế thế
giới và mở rộng quan hệ quốc tế. Thiết nghĩ nhận thức và giải quyết đúng những
vấn đề cơ bản đó là vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước đi đôi với giữ nước trong giai đoạn mới của cách mạng.


14
3. Vận dụng tư tưởng bảo vệ thành quả cách mạng của Lênin vào sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay.
Đảng ta khẳng định nhất quán rằng: “Trong bối cảnh quốc tế và khu vực
có nhiều phức tạp, chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm quốc phòng, an ninh
và trật tự, an toàn xã hội12”. Nhân loại đang sống trong một thế giới đầy biến
động với những diễn biến phức tạp, mau lẹ, bất trắc và khó lường. Những hoạt
động kinh tế, thương mại, đầu tư, trao đổi, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia,
các khu vực, các nhóm nước diễn ra ngày càng nhộn nhịp trong xu thế chung là
hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới đương đại. Tuy nhiên, cùng với xu
thế chung đó, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra rất gay gắt ở nhiều nơi trên thế
giới. Trong khi những mối đe dọa an ninh truyền thống vẫn còn hiện hữu, thì
những nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống đối với cuộc sống con người, an
ninh của các quốc gia và cộng đồng lại ngày càng gia tăng với những biểu hiện
và sắc thái phức tạp hơn, đa dạng hơn.
Chưa khi nào xu thế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh giữa các quốc gia, dân
tộc lại diễn ra gay gắt và đầy mâu thuẫn như hiện nay. Lợi ích quốc gia, dân tộc
đóng vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của các nước trong giải quyết và xử lý
các quan hệ quốc tế. Các nước có thể cùng nhau thỏa thuận, cam kết giải quyết

những vấn đề có chung lợi ích và cùng mối quan tâm, kể cả những vấn đề toàn
cầu, nhưng cũng dễ bất đồng, mâu thuẫn, thậm chí xung đột khi giải quyết những
vấn đề va chạm đến lợi ích quốc gia. Ở một số nước, việc bảo vệ chủ quyền quốc
gia ngày càng có biểu hiện “vượt ra ngoài” phạm vi biên giới lãnh thổ quốc gia
và đang được nỗ lực “bảo vệ” bằng mọi giá, kể cả bằng biện pháp vũ lực. Việc
bảo vệ, khuếch trương lợi ích dân tộc vị kỷ đó, cho đến nay, không hề suy giảm,
nếu không muốn nói là có xu hướng gia tăng. Người ta rất dễ nhận thấy những
12

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.145-146


15
cái bắt tay thể hiện sự hợp tác trên các diễn đàn song phương, đa phương, hoặc
rất nhiều hiệp ước, nghị định được ký kết, thế nhưng, ở một bối cảnh khác, sự
can thiệp “trắng trợn” vào công việc nội bộ của nước khác, thậm chí can thiệp
bằng vũ lực cũng không hiếm. Đằng sau những tuyên bố về việc phải giải quyết
các tranh chấp, mâu thuẫn bằng các biện pháp hòa bình, lại thấy bóng dáng
những hoạt động chạy đua vũ trang. Đằng sau nhiều tuyên bố về việc phải tôn
trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền của các quốc gia, dân tộc, người ta vẫn thấy
những nguy cơ đe dọa độc lập và thể chế chính trị đối với quốc gia có chủ quyền.
Trong khi thế giới đang nỗ lực tìm ra các giải pháp để vực dậy các nền kinh tế
khu vực, toàn cầu thoát khỏi tình trạng suy thoái, khủng hoảng, thì cũng là lúc
độc lập, chủ quyền quốc gia trở nên mong manh và bị đặt lên bàn cân tính toán.
Những va chạm, xung đột, tranh chấp về lợi ích ngày càng trở nên khó kiểm
soát, khó phân biệt rạch ròi đúng - sai, chính - tà, vì thế, việc xử lý những tranh
chấp đó cũng hết sức phức tạp, kéo dài.
Tính chất phức tạp, hai chiều thuận - nghịch đan xen trong quan hệ quốc
tế càng cho thấy rõ, đất nước không thể phát triển nếu không có chiến lược phát
triển phù hợp, không hội nhập, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế

giới, nhưng cũng không thể yên ổn hợp tác, hội nhập nếu không có sức mạnh nội
lực và không biết tự bảo vệ mình. Quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong
tình hình đầy biến động ấy làm cho vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa của
nhân dân ta tuy có những thuận lợi, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức
phức tạp. Quá say sưa tìm kiếm sự tăng trưởng kinh tế mà lơi là, không quan tâm
đúng mức đến vấn đề quốc phòng, an ninh trong chiến lược phát triển là một
hành động tự làm suy yếu khả năng tự bảo vệ, có nguy cơ dẫn đến những hậu
quả nguy hại. Tinh thần cảnh giác, ý thức tự bảo vệ của Đảng và nhân dân ta
không chỉ làm phá sản những mưu toan chống phá của các thế lực thù địch, mà


16
còn tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho bạn bè quốc tế, cho những đối tác
trong quá trình hợp tác, đầu tư với Việt Nam.
Trong bối cảnh lịch sử mới, thấm nhuần bài học cách mạng phải biết tự
bảo vệ mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã chỉ ra, chúng ta cần gia tăng hơn nữa
sức mạnh, khả năng và trình độ tự bảo vệ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ
được mình; bảo vệ độc lập, chủ quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa và giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, củng cố mối quan hệ hợp tác với các nước; tập trung
phát triển kinh tế và chú trọng cả nhiệm vụ “trọng yếu thường xuyên” quốc
phòng, an ninh; gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh còn phải tạo điều kiện
cho đất nước phát triển..., là những vấn đề lớn đặt ra đòi hỏi phải nhận thức đúng
và giải quyết tốt trong tình hình mới.
Thứ nhất, gia tăng sức mạnh, nâng cao khả năng tự bảo vệ. Chỉ có gia
tăng sức mạnh, nâng cao khả năng "tự bảo vệ", tăng cường sức đề kháng, khả
năng “tự miễn dịch”, mới có thể tiếp thêm một sức mạnh mới đưa đất nước vượt
qua khó khăn, thách thức, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều đó
đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, từng tổ chức, đơn vị, mỗi cán bộ, đảng

viên phải nâng cao khả năng tự bảo vệ, nâng mình lên đủ sức ứng phó với những
biến động của tình hình như Đảng ta đã chỉ rõ. Những vấn đề về xây dựng Đảng
ta thật sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh; trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu, lý tưởng và
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển; củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội; đẩy mạnh phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân; gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh và
vị thế đất nước... là những vấn đề rất cơ bản, cần tập trung thực hiện tốt. Trong
hệ thống các vấn đề cơ bản ấy, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ “then chốt” là xây


17
dựng Đảng; mũi “đột phá” của nhiệm vụ “then chốt” ấy là khắc phục tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên và tệ tham nhũng. Hệ lụy của tình trạng suy thoái này là rất nghiêm trọng,
bởi nó đe dọa đến chính sự tồn vong của Đảng và chế độ như Đảng ta đã nhấn
mạnh. Sự rung chuyển và tầm ảnh hưởng của vấn đề “đột phá” này là rất lớn.
Sức sống, sức đề kháng và khả năng tự bảo vệ của cơ thể Đảng, cơ thể chế độ và
đất nước phụ thuộc rất quyết định vào việc chúng ta giải quyết vấn đề “đột phá”
này như thế nào. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ bị rạn nứt, chia rẽ, suy yếu,
lòng dân sẽ bị ly tán; sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh quốc phòng, an
ninh đất nước sẽ bị rệu rã..., nếu tham nhũng và tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
có chức quyền, không được ngăn chặn, không được khắc phục hiệu quả mà vẫn
gia tăng. Trong điều kiện đó, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa sẽ không còn đủ sức
mạnh và khả năng để có thể đứng vững trước sự lay động của sóng gió, không
còn đủ sức tự bảo vệ mình.
Chống tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thực sự là nội dung, yêu cầu đặc biệt

quan trọng, là mũi “đột phá” của vấn đề tự bảo vệ, của việc xây dựng, củng cố,
tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, trong khi tăng cường sức mạnh
tổng hợp, nâng cao khả năng tự bảo vệ, thì đồng thời phải kiên quyết đẩy mạnh
cuộc chiến chống tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Mũi “đột phá” này là một lời giải
cơ bản của bài học tự bảo vệ đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đó là vấn đề rất khó, nhưng khó mấy cũng cần phải làm và làm thật tốt. Quyết tâm
chính trị này đã được Đảng ta nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ tư khóa XI và cần được triển khai thực hiện có hiệu quả trong thực tế.


18
Thứ hai, phải biết cách tự bảo vệ. V.I.Lê-nin từng chỉ giáo, những người
cộng sản phải thể hiện là người “có khả năng tự tổ chức, huy động hết thảy để tự
bảo vệ lấy mình”13. Biết tự bảo vệ đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần và vận dụng
sáng tạo lời chỉ giáo ấy trong thực tiễn. Trong tình hình mới, chúng ta phải biết
“tự tổ chức, huy động hết thảy” để tự bảo vệ, có nghĩa là, phải biết phát huy sức
mạnh tổng hợp, sức mạnh của chế độ, nội lực đất nước, kết hợp với sức mạnh thời
đại, sức mạnh bên ngoài; kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ;
kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; thực hiện nội dung và
phương thức đấu tranh, tự bảo vệ phù hợp, hiệu quả. Tập trung giải quyết tốt hai
nội dung cơ bản, cấp thiết, quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau: Một là, giữ
vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; hai là, tăng cường sức mạnh, khả năng ngăn ngừa, đẩy lùi, loại trừ
nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh nếu
xảy ra, với mọi quy mô và trình độ. Tư tưởng “biết người, biết ta, trăm trận trăm
thắng” - một tư tưởng có tính kinh điển, đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc
đến nhiều lần và vận dụng linh hoạt, hiệu quả trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam, cần phải được vận dụng sáng tạo trong bối cảnh lịch sử mới.
Muốn tự bảo vệ được, chúng ta phải nắm chắc tình hình về mọi mặt, xu

hướng vận động, phát triển của đời sống thế giới, xử lý chính xác các mối quan
hệ đối tác và đối tượng. Đây là vấn đề rất phức tạp và đặc biệt nhạy cảm trong
bối cảnh mới của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, của sự mở rộng hợp
tác và giao lưu quốc tế trong không gian toàn cầu hóa với sự đan xen lợi ích hiện
nay. Mọi sự sơ suất, dù là nhỏ, trong vấn đề này đều có thể dẫn đến bất lợi, có
hại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần khắc phục khuynh
hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và
trong xử lý các tình huống cụ thể; đồng thời, “đề phòng sự thoả hiệp có hại” cho
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Xử lý đúng đắn vấn đề đối tác và đối
13

V.I.Lê-nin: Sđd, t.38, tr. 165 - 166


19
tượng thực sự vừa là phương châm, vừa là yêu cầu, lại vừa là một nghệ thuật của
vấn đề tự bảo vệ của cách mạng nước ta trong tình hình mới.
Phải biết tự bảo vệ là bài học cơ bản, là một nguyên lý phát triển của
cách mạng mà thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng thế giới đã
chỉ ra. Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chỉ có thể đứng vững và phát triển
nếu Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo bài
học và nguyên lý phát triển đó trong thực tiễn cách mạng, trong thực tiễn xây
dựng Đảng, thực tiễn bảo vệ Tổ quốc.
4. Một số vấn đề cần quán triệt qua sự vận dụng của đảng ta.
Để thực hiện tốt tư tưởng của Lênin và Đảng ta về bảo vệ thành quả cách
mạng, bản thân trên cương vị là một quân nhân nói chung và giảng viên quân đội
nói riêng, luôn cố gắng góp sức mình xây dựng quân đội vững mạnh, xứng đáng
là lực lượng nòng cốt trpng bảo vệ tổ quốc. Đồng thời, làm tốt các vấn đề sau:
Một là, tăng cường tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân hệ thống
quan điểm mới của Đảng về mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; sớm khắc

phục những hạn chế trong nhận thức và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân về vấn đề này. Đảng ta xác định: “Nhận thức về mục tiêu, yêu
cầu bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình
mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển. Chủ động, kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo,
vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”14. Điều quan
trọng là phải làm cho mọi người dân hiểu rõ hơn mối quan hệ biện chứng, không
thể tách rời giữa các nội dung trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội khẳng định rõ: bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam hiện nay là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ đó thường
xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chăm lo xây dựng và củng cố
tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đập tan mọi âm mưu thâm độc
14

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.146


20
trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, cần nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân về những phát
triển mới trong phương thức bảo vệ Tổ quốc hiện nay; làm cho mọi người dân
thấy rõ vai trò ngày càng nổi bật của biện pháp phi vũ trang, vấn đề kết hợp giữa
xây dựng và bảo vệ, vấn đề tự bảo vệ của mỗi cá nhân, tổ chức và bảo vệ Tổ
quốc từ xa đang đòi hỏi tính chủ động, tích cực và thường trực hơn của mọi
người dân. Thực tiễn những năm qua cho thấy, nhận thức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân trong xã hội ta về vấn đề này còn hạn chế; chưa thấy
được sự thay đổi về chiến lược và phương thức chống phá cách mạng nước ta
của các thế lực thù địch, phản động, trong đó chúng sử dụng phương thức phi vũ

trang là chủ yếu, lợi dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "tôn giáo",
"dân tộc" để can thiệp vào nội bộ nước ta với các thủ đoạn "diễn biến hòa bình"
kết hợp với bạo loạn lật đổ và khi có thời cơ thì có thể phát động chiến tranh
xâm lược. Do vậy, đã có không ít người mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ
đoạn phá hoại bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch;
chưa thấy hết tính nguy hại của chiến lược này. Vì thế, một trong những nhiệm
vụ cấp bách lúc này là phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân có nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về sự đổi mới tư duy chiến lược của
chúng ta về bảo vệ Tổ quốc ngày nay, từ sử dụng các biện pháp vũ trang là chính
sang sử dụng các biện pháp phi vũ trang là chính, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh
vũ trang khi cần thiết; trong đó, vấn đề đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, tư tưởng, văn hóa, sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh, đối
ngoại cần phải được quan tâm nhiều hơn. Bên cạnh đó, cần làm cho mọi tổ chức,
cá nhân trong xã hội ta hiểu rõ hơn sự đổi mới phương thức bảo vệ Tổ quốc ngày
nay còn được thể hiện ở việc: từng địa phương, cơ sở phải chủ động gắn kết xây


21
dựng với bảo vệ và tự bảo vệ một cách thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi, trong
từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xem tự bảo vệ là
phương thức hữu hiệu nhất để "bảo vệ từ xa", từ đó “Đấu tranh làm thất bại âm
mưu "diễn biến hòa bình", hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền
thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm”15.
Ba là, cần nâng cao nhận thức của toàn dân về sức mạnh và lực lượng
bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là sức mạnh của lực lượng vũ trang, mà là
sức mạnh của toàn dân, sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh
kinh tế, chính trị làm cơ sở. “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối
ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng "thế trận
lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an

ninh nhân dân”16. Theo đó, cần tiếp tục làm cho mọi người hiểu rõ: ngày nay,
trong điều kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không còn, thì sức mạnh bên
trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự vững mạnh của Đảng và
hệ thống chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên và sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc. Trong vấn đề này, cần sớm khắc phục những nhận thức phiến diện
của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân khi cho rằng: tập trung làm cho
kinh tế mạnh, thì tự khắc quốc phòng sẽ mạnh. Bên cạnh đó, trên cơ sở nhận
thức đúng đắn về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần làm chuyển biến căn
bản trong nhận thức và hành động của mọi tầng lớp nhân dân về vai trò của các
lực lượng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay; mà ở đó, lực lượng vũ trang
chỉ làm nòng cốt trong đấu tranh vũ trang, còn trong điều kiện đấu tranh phi vũ
trang đang nổi lên như là phương thức đấu tranh chủ yếu để bảo vệ Tổ quốc, thì
vai trò của toàn dân phải được đặt lên hàng đầu. Theo đó, mỗi người dân, trên cơ
15
16

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.146
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.149


22
sở chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, với những phương tiện mà khoa học công nghệ của thời đại đem lại, hoàn toàn có thể và cần phải chủ động, tự giác
tham gia bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cơ quan, đơn vị và ngành mình bằng những
việc làm và hình thức phù hợp với chức năng của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị
cũng như chức trách, nghề nghiệp và phương tiện của mỗi người dân. Như thế,
sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia và cũng chính là biểu hiện của hành động
bảo vệ Tổ quốc từ xa, bảo vệ Tổ quốc từ cơ sở. Trong điều kiện hiện nay, cần
chú trọng xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự
vệ "vững mạnh, rộng khắp", nhất là trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bốn là, quán triệt sâu sắc hơn nữa trong mọi tầng lớp nhân dân tư duy
biện chứng của Đảng ta về đối tượng và đối tác trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, liên quan chặt chẽ đến sự phối hợp
giữa quốc phòng với kinh tế, an ninh và đối ngoại; ảnh hưởng đến hiệu quả việc
phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong thực
tiễn, do nhận thức chưa đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc trong
chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, nên thời gian qua, một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về đối tượng, đối
tác của nước ta hiện nay; chưa thấy rõ tính biện chứng trong quan điểm của
Đảng về đối tượng và đối tác. Để khắc phục, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về
vấn đề này; làm cho mọi người dân nắm vững những nguyên tắc xác định đối
tượng và đối tác của Đảng: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt
Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều
là đối tượng đấu tranh"17; đồng thời, phải giúp họ có cách nhìn biện chứng: trong
17

Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám BCHTW Đảng khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr 44


23
mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có
thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.
Năm là, nâng cao hơn nữa nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các
ngành, các lực lượng trong xã hội đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn
dân; kiên quyết khắc phục những nhận thức chưa đúng của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân cho rằng: quốc phòng chỉ là việc riêng của quân đội, của

Bộ Quốc phòng, và quốc phòng chỉ nhằm chuẩn bị để đánh thắng chiến tranh vũ
trang của các thế lực xâm lược. Theo đó, cần nâng cao trách nhiệm của các cấp,
các ngành trong tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nhất là thực hiện
sự kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh,
trong xây dựng và tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh và trong xây dựng
"thế trận lòng dân" của khu vực phòng thủ; bảo đảm việc tổ chức diễn tập khu
vực phòng thủ có sự tham gia đầy đủ hơn của các ban, ngành Trung ương, sự
phối hợp chặt chẽ của các lực lượng quân đội, công an, biên phòng (nếu có)
trong khu vực phòng thủ, nhằm nâng cao khả năng vận hành cơ chế hoạt động
khu vực phòng thủ theo tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Cùng với đó, tiếp tục đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa quốc phòng với an
ninh và đối ngoại trong điều kiện nước ta hội nhập quốc tế; bổ sung, hoàn thiện
quy chế phối hợp giữa ba lĩnh vực này, làm rõ cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy,
quản lý sự phối hợp trong điều kiện thực hiện các cam kết quốc tế; đồng thời,
tích cực đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp phối hợp, kết hợp các hoạt động
đối ngoại quân sự, quốc phòng, an ninh với đối ngoại của Đảng, Nhà nước và đối
ngoại nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; nghiên cứu xây dựng
Chiến lược quốc phòng - an ninh - đối ngoại và kết hợp xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và đối ngoại nhân dân trong một
chiến lược thống nhất về bảo vệ Tổ quốc như Đảng ta đã khẳng định: “Kết hợp
chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh


24
với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Khắc
phục triệt để những sơ hở, thiếu sót trong việc kết hợp kinh tế và quốc phòng, an
ninh tại các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược”18. Trong đó một trong những giải
pháp xuyên xuốt là “Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, lực lượng vũ trang

làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”19.
KẾT LUẬN
Học thuyết của V.I. Lê-nin về bảo vệ thành quả cách mạng luôn soi sáng
quá trình cách mạng nước ta. Trung thành và vận dụng sáng tạo học thuyết của
Người, Đảng ta và nhân dân ta đã và đang giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng và
công lao vĩ đại của Lê-nin sống mãi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta đã quán triệt tư tưởng dựng nước đi đôi với giữ nước và đã
giành thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước những biến động của thế giới những
năm qua, trước những thử thách và vận hội, đặc biệt là trước những âm mưu của
các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, chúng ta phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dựng nước đi đôi với giữ nước. Theo đó phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn; kết hợp
chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ
18
19

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.149
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016 tr.151


25
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; kết hợp phát triển kinh tế - xã
hội với củng cố quốc phòng - an ninh, kết hợp xây dựng và bảo vệ trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội; giữ vững độc lập tự chủ, bản sắc văn hóa dân tộc trong

quá trình chủ động hội nhập kinh tế thế giới và mở rộng quan hệ quốc tế.
Trong tình hình mới, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đang
đứng trước nhiều cơ hội và thách thức to lớn. Để giành lấy cơ hội, vượt qua
thách thức, việc tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa những quan điểm cơ bản của
Đảng là hết sức cần thiết. Nhưng quan trọng là trên cơ sở đó, từng cấp, ngành, cơ
quan, đơn vị, địa phương và từng người dân phải biết vận dụng linh hoạt, sáng
tạo những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc đó để xử lý các tình huống cụ thể,
góp phần vào bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác& Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H1995, tr.528
2. ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VIII, IX, X, XI.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
5. Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Đảng khoá IX,
Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
6. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 36, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va. 1978.
7. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, 1979.
8. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 35, Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mát xcơ va, 1976.
9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội,
2016.


×