Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Luận văn nhân viên công tác xã hội từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng tâm thần tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LẠI TIẾN THẮNG

NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TÂM THẦN
TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Hà Nội, 2016

HÀ NỘI - năm


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LẠI TIẾN THẮNG

NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN
TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TÂM THẦN
TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ THỊ THƯ

Hà Nội, 2016

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Lại Tiến Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN VIÊN CÔNG TÁC
XÃ HỘI TRONG TRỢ GIÚP NGƯỜI TÂM THẦN ................................ 12
1.1. Khái niệm và đặc điểm người tâm thần ............................................ 12
1.2. Lý luận về nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp người tâm thần... 19
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhân viên công tác xã hội trong hoạt động
trợ giúp người tâm thần ........................................................................... 27
1.4. Cơ sở pháp lý về nhân viên công tác xã hội trong hoạt động nghề
nghiệp........................................................................................................ 30
Chương 2. THỰC TRẠNG VỀ NHÂN VIÊNCÔNG TÁC XÃ HỘI
TẠI TRUNG TÂM PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TÂM THẦN TỈNH

NINH BÌNH ........................................................................................ 34
2.1. Đặc điểm về địa bàn và khách thể nghiên cứu ................................. 34
2.2. Thực trạng về yêu cầu đối với nhân viên xã hội trong hoạt động trợ
giúp người tâm thần tại Trung tâm .......................................................... 42
Chương 3. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA NHÂN VIÊN
CÔNG TÁC XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG TÂM THẦN TỈNH NINH BÌNH ...................................... 60
3.1. Biện pháp nâng cao năng lực, trình độ cho nhân viên công tác xã hội
với người tâm thần ................................................................................... 60
3.2. Biện pháp nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý về nhiệm, chức
năng của Nhân viên công tác xã hội với người tâm thần ......................... 62
3.3. Biện pháp xây dựng mô hình về nhân viên công tác xã hội với người
tâm thần tại Trung tâm phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Ninh Bình ..... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTXH

Công tác xã hội

ĐTB

Điểm trung bình

Nxb

Nhà xuất bản


SL

Số lượng

TL

Tỷ lệ


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng Nhân viên công tác xã hội tại Trung tâm những năm gần
đây .................................................................................................................. 35
Bảng 2.2. Đánh giá về số lượng Nhân viên công tác xã hội so với yêu cầu
công việc tại Trung tâm .................................................................................. 36
Bảng 2.3. Nhân viên công tác xã hội theo thâm niên công tác và theo giới tính ..37
Bảng 2.4. Xếp loại về thi đua của đội ngũ Nhân viên công tác xã hội tại Trung
tâm .................................................................................................................. 38
Bảng 2.5. Trình độ học vấn của đội ngũ nhân viên công tác xã hội tại Trung
tâm .................................................................................................................. 39
Bảng 2.6. Nhân viên công tác xã hội với người tâm thần được đào tạo về công
tác xã hội ......................................................................................................... 40
Bảng 2.7. Nhân viên công tác xã hội được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ
năng liên quan đến người tâm thần ................................................................. 41
Bảng 2.8: Phẩm chất đạo đức của Nhân viên công tác xã hội với người tâm thần43
Bảng 2.9. Mức độ đáp ứng yêu cầu về kiến thức liên quan đến công tác xã hội
với người tâm thần qua cách nhìn nhận của Nhân viên công tác xã hội ........ 44
Bảng 2.10. Mức độ đáp ứng yêu cầu về kỹ năng liên quan đến công tác xã hội
với người tâm thần qua cách nhìn nhận của Nhân viên công tác xã hội ........ 46
Bảng 2.11. Mức độ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ chăm sóc y tế của nhân viên

công tác xã hội với người tâm thần ................................................................. 48
Bảng 2.12. Mức độ thực hiện nhiệm vụ tư vấn, tham vấn của nhân viên công
tác xã hội với người tâm thần .......................................................................... 50
Bảng 2.13. Mức độ thực hiện nhiệm vụ phục hồi chức năng lao động của nhân
viên công tác xã hội với người tâm thần ......................................................... 52
Bảng 2.14. Mức độ thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục của nhân viên
công tác xã hội với người tâm thần ................................................................. 54
Bảng 2.15. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhân viên CTXH với người tâm thần .56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình phát triển của bất cứ một Quốc gia nào đều phải quan tâm
đến công tác an sinh xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, đặc biệt là
nhân lực thực hiện công tác xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực
để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ ta.
Trong lĩnh vực bảo trợ xã hội, đối tượng phục vụ rất lớn và phức tạp,
trong đó có đối tượng là người tâm thần đang được quản lý - chăm sóc - phục
hồi chức năng tại các Trung tâm Bảo trợ xã hội với số lượng lớn và có xu
hướng ngày càng gia tăng. Nhân viên công tác xã hội trước đây được đào tạo
là rất ít, hiện đang làm việc tại các Trung tâm Bảo trợ xã hội, công tác xã hội
còn xem là hoạt động từ thiện và còn nhiều bất cập, hệ thống cung cấp dịch
vụ trợ giúp xã hội còn mỏng, đội ngũ làm nghề công tác xã hội vừa thiếu về
số lượng, lại hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ; sự nhận biết của xã hội về
nghề công tác xã hội còn hạn chế.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy, các chủ trương, chính sách về phát
triển nghề công tác xã hội ngày càng được cụ thể hóa, đáp ứng tốt hơn những
nhu cầu của xã hội đặc biệt là người khuyết tật, người yếu thế, trong đó có

người tâm thần như Đề án 32/2010/QĐ-TTg của Chính phủ về phát triển nghề
công tác xã hội, Đề án 1215/2011/QĐ-TTg của Chính phủ, phê duyệt Đề án
trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu
tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020.
Đối với Tỉnh Ninh Bình trong những năm qua công tác an sinh xã hội
luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm. Đặc biệt khi đề án 32, Đề
án 1215 của Chính phủ các cấp các ngành đã triển khai, thực hiện tích cực. Cơ
1


sở vật chất phục vụ đối tượng được cải tạo, nâng cấp; nhiều lớp tập huấn, học
tập nâng cao nhận thức về nghề công tác xã hội, trợ giúp người tâm thần được
tổ chức trong toàn tỉnh, nhất là cho cán bộ, nhân viên làm trong lĩnh vực Bảo
trợ xã hội. Từ đó đời sống vật chất và tinh thần của người tâm thần ngày càng
được nâng cao, tính chuyên nghiệp của nhân viên công tác tại các Trung tâm
Bảo trợ xã hội được cải thiện.
Các công trình nghiên cứu về công tác xã hội chung thì đã có, tuy nhiên
nghiên cứu về nhân viên công tác xã hội đối làm việc trong lĩnh vực chăm sóc
người tâm thần thì khá mới mẻ.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Nhân viên Công tác xã hội từ
thực tiễn Trung tâm phục hồi chức năng tâm thần Tỉnh Ninh Bình” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới nghiên cứu dịch tễ học về các rối loạn tâm thần từ lâu đã
thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định
chính sách vì tính hữu dụng của nó. Đã có rất nhiều những nghiên cứu về dịch
tễ học sức khỏe tâm thần.
Sự phát triển dịch tễ học tâm thần chia ra 4 giai đoạn. Đáng lưu ý là,
trước đây, trong quá trình lịch sử, cách hiểu về các vấn đề tâm thần đã

có.[26;29]
* Giai đoạn thứ nhất:
Giai đoạn này bắt đầu từ thời gian đầu xuất hiện dịch tễ học và kéo dài
đến giữa thế kỷ 20 (năm 1950). Những nghiên cứu trong giai đoạn này dựa
trên số liệu của người bệnh ở bệnh viện, nên nghiên cứu đã bỏ qua những
người có bệnh nhưng không đến bệnh viện. Kết quả là những số liệu thống kê
trong giai đoạn này thường đơn lẻ và không mang tính đại điện, không thể
2


hiện được tỉ lệ bệnh tâm thần trong cộng đồng. [10, tr.63-65]. Trong đó có tác
giả Robert Faris và Warren Dunham nghiên cứu tại chỗ ở của người bệnh tâm
thần, giữa những năm 1922 và 1934 tại Chicago; kết quả cho thấy, tỷ lệ Tâm
thần phân liệt ở nông thôn thấp hơn ở thành thị.
* Giai đoạn thứ hai từ nhăm 1950 đến 1980
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, có nhiều quân nhân bị bệnh tâm thần,
tỷ lệ bệnh tâm thần ở trong quân đội được quan tâm và nghiên cứu, nhiều
cuộc điều tra trong quân đội được tiến hành. Từ đây, khái niệm điều tra trong
cộng đồng bắt đầu được sử dụng. Trong dân sự, các nhà tâm thần học bắt đầu
nghiên cứu bệnh tâm thần trong cộng đồng và bắt đầu điều tra bệnh tâm thần
trong cộng đồng. Trong giai đoạn này, các nhà nghiên cứu cũng bắt đầu sử
dụng các bảng câu hỏi để nghiên cứu tại cộng đồng. Sau đây là một vài thí dụ:
Trong điều tra ở Midtown Manhattan, do chuyên viên xã hội tiến hành,
việc đánh giá người bệnh dựa vào hậu quả của bệnh tâm thần, kết quả điều tra
cho thấy, 23% mẫu bị bệnh tâm thần nặng. Điều tra Stirling County ở New
York trên 1.010 hộ dân dựa trên bộ câu hỏi, và dựa vào Cẩm Nang Hướng
Dẫn Thống Kê Chẩn Đoán về Các Chứng Bệnh Tâm thần lần 1 của Hiệp hội
tâm thần Mỹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh tâm thần là 20% dân số.
Những nghiên cứu trong giai đoạn này đã cung cấp được số liệu về tỉ lệ
các vấn đề trong cộng đồng, nhờ sử dụng bảng câu hỏi mà kết quả có tính

chất thống nhất và khách quan. Tuy nhiên, phương pháp chẩn đoán và thu
thập số liệu chưa được thống nhất giữa các cuộc điều tra. Bên cạnh đó các
công cụ nghiên cứu trong giai đoạn này không dựa vào các tiêu chuẩn chẩn
đoán. Số liệu từ những cuộc điều tra cộng đồng trên diện rộng sử dụng các
bảng hỏi tự thuật về các dấu hiệu căng thẳng, đau buồn những không dựa trên
các tiêu chuẩn chẩn đoán tổ chức hợp lý [27, Tr. 221 - 223].

3


* Giai đoan thứ ba từ 1980 đến 1990:
Trong giai đoạn này, các bảng câu hỏi vẫn được sử dụng trong các điều
tra, nhưng với sự ra đời của ICD 10 và DSM IV, các bảng câu hỏi đã dựa trên
những tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng và hợp lý. Sự ra đời của ICD 10 và DSM
IV được đánh giá là nền tảng cho sự tiến bộ lớn về phương pháp cho các
nghiên cứu dịch tễ học [10, Trg 222]. Bộ câu hỏi được chú ý trong giai đoạn
này là Bảng liệt kê phỏng vấn chẩn đoán (Diagnostic Interview Schedule DIS) xây dựng dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM IV. Sau đây là một
vài cuộc điều tra:
Điều tra dịch tễ vùng (Epidemiological Catchment Area - ECA) tại
Hoa kỳ, [28; tr.63] với bộ câu hỏi Bảng liệt kê phỏng vấn chẩn đoán (DIS),
xác định tỷ lệ bệnh tại Hoa kỳ, được coi là cuộc điều tra đầu tiên trên thế giới
có sử dụng phiếu hỏi chẩn đoán. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong vòng sáu
tháng, cứ năm người Mỹ thì có một người bị mắc các vấn đề về sức khỏe tâm
thần. Nếu tính trong thời gian của cả đời, thì cứ 3 người Mỹ sẽ có người mắc
các vấn đề về sức khỏe tâm thần.
* Giai đoạn thứ tư từ 1990 đến nay: Các điều tra trong giai đoạn này
cũng nhằm nhiều mục đích khác nhau: tỷ lệ bệnh trong cộng đồng, các thiệt
hại của bệnh tâm thần, nhận thức của xã hội về bệnh tâm thần, tổ chức y tế
v.v... Cuộc điều tra quốc gia ở Úc năm 1999 [29, Tr. 197-205], với bộ câu hỏi
Bảng phỏng vấn chẩn đoán quốc tế tổng hợp (Composite International Diagnostic Interview - CIDI) ngoài việc xác định tỷ lệ bệnh tâm thần trong cộng

đồng, cuộc điều tra này còn nghiên cứu thiệt hại do bệnh tâm thần gây ra, chất
lượng cuộc sống và sử dụng các dịch vụ y tế. Kết quả nghiên cứu này cho
thấy tỉ lệ người dân mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến là 17,7%.
Trong tổng số những người mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần, có 4,6%
không bao giờ liên lạc với các cơ sở chăm sóc sức khỏe, 29,4% đã có gặp bác
sĩ và 7,5% đã có gặp bác sĩ tâm thần trong năm qua.
4


Lần đầu tiên cuộc điều tra của Tổ chức Y tế thế giới năm 1990 (WHO)
với bộ câu hỏi CIDI, trên 60.559 người ở trên 14 quốc gia khác nhau để xác
định tỷ lệ bệnh tâm thần trong cộng đồng, thiệt hại do bệnh tâm thần gây ra;
và bộ câu hỏi khảo sát việc sử dụng dịch vụ y tế; hoạt động của ngành y tế
2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Một trong những nghiên cứu đầu tiên phải kể đến nghiên cứu dịch tễ về
bệnh tâm thần phân liệt do Nguyên Văn Siêm thực hiện, nghiên cứu trên một
phường tại Thành Phố Đà Nẵng, khảo sát toàn bộ các hộ trong phường với
tổng số hộ dân là 23758. Khảo sát đựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán ICD 10, tác
giả sử dụng hai phiếu khảo sát: a) khảo sát sàng lọc: “Phiếu sức khỏe gia
đình” b) sau đó nếu tìm thấy những dấu hiệu nghi bệnh, người bệnh tiến hành
“Bảng phỏng vấn bệnh tâm thần phân liệt”. Kết quả: tỷ lệ mắc chung là 0,52 0,61% dân số. Tỷ lệ mắc điểm là 0,49 - 0,53%. Tỷ lệ mới mắc trong một năm
0,29 - 0,56%o. Xác suất mắc bệnh 1,26 - 1,44%. Tỷ số bệnh nhân nữ/nam là
0,9. Số bệnh nhân khởi phát ở độ tuổi 15 - 25 có tỷ lệ cao nhất (49 - 65%).
Tuổi khởi phát trung bình ở nam là 20 - 25, ở nữ là 25 - 30. Tỷ lệ độc thân ở
bệnh nhân nam là 40,58%, ở bệnh nhân nữ là 38,71%. Tỷ lệ ly hôn, ly thân là
5,33%. Tỷ lệ bệnh nhân mạn tính và hay tái phát là 88 - 94%. Tiên lượng: số
bệnh nhân lành bệnh (ổn định trên 7 năm) khoảng 13% (bệnh nhân nữ lành
bệnh so với nam là 5/1); tỷ lệ thuyên giảm tốt là 33%, cả khá và tốt là 50 77%. Nghiên cứu này được tiến hành từ những năm 1977, và sau đó tiếp tục
vào những năm 1999. Đề tài thực hiện cả bốn công đoạn của nghiên cứu dịch
tễ học theo quan điểm của các nhà y học: (mô tả, phân tích, can thiệp và đánh

giá). Điểm hạn chế của đề tài là sử dụng một công cụ nghiên cứu do mình
sáng tạo ra, nhưng lại không đề cập đến tính hiệu lực, độ tin cậy của công cụ
nghiên cứu. Điều này ảnh hướng đến giá trị khoa học của đề tài. Mặc dù vậy,
số liệu của đề tài này vẫn rất đáng tham khảo vì đây là một trong những
nghiên cứu đầu tiên về dịch tễ học liên quan đến tâm thần học. [21].
5


Nghiên cứu của tác giả Bùi Hồng Tâm, Cao Tiến Đức khảo sát tại
Quảng Ninh, cho biết tỉ lệ mắc tâm thần phân liệt là 0,21%; động kinh là
0,12%, chậm phát triển tâm thần là 0,15%, nghiện rượu là 0,25), sa sút trí tuệ
là 0,05%. Trần Viết Nghi & cộng sự [8] cho biết tỉ lệ mắc căng thẳng trên 881
công nhân làm việc tại một công ty giày da là 11,5%. [22, tr. 38-40].
Viện sức khỏe tâm thần ban ngày Mai Huơng, khảo sát sức khỏe tâm
thần học sinh truờng học thành phố Hà Nội bằng công cụ SDQ của Tổ chức Y
tế Thế giới chuẩn hóa Việt Nam cho thấy trên mẫu nghiên cứu gồm 1.202 học
sinh tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi 10 - 16 tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn
đề về sức khỏe tâm thần chung là 19,46 %. Tỷ lệ này đối với nam, nữ, tiểu học,
trung học cơ sở, nội thành, ngoại thành không có gì khác biệt [15, 108].
Đặng Hoàng Minh và Hoàng Cẩm Tú, năm 2009 sử dụng công cụ
YSR thực hiện khảo sát trên 1727 học sinh, lứa tuổi từ 11- 15, ở 2 trường
THCS ở Hà Nội cho thấy tỉ lệ trẻ mắc các vấn đề về sức khỏe tâm thần là
10,94%. [19, tr 106-112]
Nghiên cứu về CTXH với người tâm thần những năm gần đây cũng có
một tác giả quan tâm nghiên cứu tiêu biểu là tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hường và cộng sự (2014) với giáo trình “Công tác xã hội trong chăm sóc sức
khỏe tâm thần”, Giáo trình được biên soạn dưới sự hỗ trợ của Đề án 1215 và
Dự án Atlantic Philanthropies. Giáo trình gồm 5 chương trong đó chương 1
có đề cập đến nhiệm vụ và chức năng của CTXH trong chăm sóc sức khỏe
tâm thần tại cộng đồng. Chương 3 có đề cập đến các nội dung can thiệp của

CTXH trong chăm sóc sức khỏe tâm thần trong đó có hoạt động phát hiện
sớm, can thiệp khẩn cấp, xác định và phân tích vấn đề, các hoạt động hỗ trợ
trực tiếp cho người tâm thần và gia đình, các hoạt động tạo ra sự thay đổi của
cộng đồng để xây dựng môi trường thuận lợi nhằm phòng ngừa và giải quyết
vấn đề cảu người tâm thần và gia đình họ. Chương 4 đề cập đến các vấn đề

6


sức khỏe tâm thần và một số phương pháp can thiệp của Nhân viên công tác
xã hội. [12, tr5-6]. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hương và Trần Đình Tuấn đã biên soạn giáo trình “Quản lý ca về chăm sóc
và phục hồi chức năng cho người tâm thần”, Giáo trình được biên soạn dưới
sự hỗ trợ của Đề án 1215 và Dự án Atlantic Philanthropies. Giáo trình đã đề
cập đến quy trình quản lý trường hợp trong chăm sóc và phục hồi chức năng
cho người tâm thần, các kỹ năng cơ bản trong thực hành quản lý trường hợp
với người tâm thần. Đây là cơ sở rất quan trọng để Nhân viên công tác xã hội
làm việc với người tâm thần có thể tìm hiểu và vận dụng vào công việc cụ thể
của mình [13, tr5-6].
Tác giả Lê Thị Thu Phương, trong đề tài tốt nghiệp thạc sỹ về “Nhân
viên xã hội trong hoạt động công tác xã hội từ thực tiễn huyện Eah’Leo, tỉnh
Đắklắk” đã đề cập đến các yêu cầu và nhiệm vụ của nhân viên xã hội và nhan
viên xã hội bao gồm cả những cán bộ lao động, trẻ em, phụ nữ, y tế...
Tóm lại, nghiên cứu về nhân viên công tác xã hội trong việc quản lý,
nuôi dưỡng, điều trị, phục hồi chức năng cho người tâm thần tại các Trung
tâm Bảo trợ xã hội còn rất ít ỏi; cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên
cứu nhân viên công tác xã hội tại Trung tâm phục hồi chức năng tâm thần
Tỉnh Ninh Bình. Do đó tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài này làm luận văn tốt
nghiệp của bản thân, góp phần nâng cao hiệu quả can thiệp, trợ giúp của nhân
viên công tác xã hội với người tâm thần tại Trung tâm phục hồi chức năng

tâm thần tỉnh Ninh Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nhân viên công tác xã hội tại Trung
tâm phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Ninh Bình; các yếu tố ảnh hưởng đến
nhân viên công tác xã hội đang làm việc tại đây; từ đó đề xuất một số biện

7


pháp nhằm nâng cao hiệu hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của nhân viên công tác
xã hội với người tâm thần.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về người người tâm thần, nhân viên
công tác xã hội đối với người người tâm thần.
- Phân tích thực trạng nhân viên công tác xã hội và các yếu tố ảnh
hưởng đến Nhân viên công tác xã hội tại Trung tâm phục hồi chức năng tâm
thần Tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất các biện pháp để phát huy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đối
với người tâm thần của nhân viên công tác xã hội từ thực tiễn tại Trung tâm
phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân viên công tác xã hội từ thực tiễn Trung tâm Phục hồi chức năng
tâm thần tỉnh Ninh Bình
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng: Có rất nhiều khía cạnh để nghiên cứu về nhân
viên công tác xã hội, tuy nhiên dựa vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
chúng tôi tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nhiệm vụ nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp cho người tâm thần.

Phạm vi về khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu bằng bảng hỏi 65 cán bộ,
nhân viên làm việc với người tâm thần tại Trung tâm, phỏng vấn sâu 3 lãnh
đạo Trung tâm và 10 người tâm thần sống tại Trung tâm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: Từ những đánh giá thực trạng
về đời sống của Bệnh nhân tâm thần, thực trạng Nhân viên công tác xã hội đối

8


với người tâm thần rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất
về biện pháp để nâng cao hiệu quả Nhân viên công tác xã hội đối với người
tâm thần
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như
công tác xã hội nhóm, công tác xã hội cá nhân đối với người tâm thần, hệ
thống chính sách đối với người tâm thần, rối nhiễu tâm trí...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông
tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các
nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu:
+ Tìm hiểu các giáo trình, tài liệu có liên quan đến Nhân viên công tác
xã hội như: Nhập môn công tác xã hội, công tác xã hội nhóm, công tác xã hội
cá nhân, Phát triển cộng đồng, Lý thuyết công tác xã hội, công tác xã hội với
người tâm thần…
+ Phân tích những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn
đề Nhân viên công tác xã hội đối với người tâm thần.

+ Đọc và phân tích các tài liệu, báo cáo hàng năm của tỉnh, của Trung
tâm như: “Báo cáo kết quả thực hiện Đề án 1215 , Đề án 32......
+ Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính
sách hỗ trợ đối với người tâm thần và các biện pháp can thiệp, phục hồi chức
năng, hỗ trợ, giúp đỡ đối tượng.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
Dựa trên hình thức hỏi đáp gián tiếp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn
thảo trước, điều tra viên tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống nhất cách
trả lời các câu hỏi, người được hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi rồi ghi
cách trả lời của mình vào phiếu hỏi rồi gửi lại cho các điều tra viên.
9


Với phương pháp này, đề tài sẽ phát bảng hỏi dành cho 65 cán bộ làm
việc với người tâm thần tại Trung tâm để tìm hiểu, thu thập thông tin chung
về thực trạng về đặc điểm của Nhân viên công tác xã hội; thực trạng về việc
đáp ứng yêu cầu về đạo đức, kiến thức, kỹ năng, thực trạng về việc thực hiện
nhiệm vụ của Nhân viên công tác xã hội với người tâm thần cũng như các yếu
tố ảnh hưởng đến nhân viên công tác xã hội với người tâm thần.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Phương pháp này được
sử dụng để tìm hiểu sâu sắc về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, động
cơ, quan điểm, chính kiến của nhân viên trực tiếp phục vụ đối tượng người
tâm thần cũng như ý kiến của lãnh đạo về Nhân viên công tác xã hội.
Nội dung phỏng vấn: Phỏng vấn 03 lãnh đạo Trung tâm phục hồi chức
năng tâm thần tỉnh Ninh Bình để tìm hiểu đánh giá của lãnh đạo Trung tâm về
đội ngũ Nhân viên công tác xã hội làm việc tại Trung tâm, những thuận lợi,
khó khăn, liên quan đến trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Nhân viên công
tác xã hội khi thực hiện nhiệm vụ can thiệp, trợ giúp người tâm thần.
- Phương pháp quan sát:

Thông qua các tri giác như nghe, nhìn,tác giả thu thập các thông tin từ
thực tế tại Trung tâm và tại cộng đồng nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của
đề tài.
Với phương pháp này một lần nữa để khẳng định sâu hơn về thực trạng
Nhân viên công tác xã hội đối với người tâm thần tại Trung tâm phục hồi
chức năng tâm thần Tỉnh Ninh Bình.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng các công thức toán thống
kê như: tỷ lệ phần trăm, số trung bình cộng, thứ bậc... để xử lý các số liệu đã
thu thập được cho đề tài.

10


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Trung tâm phục hồi chức năng tâm thần Tỉnh
Ninh Bình đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận liên quan đến người tâm
thần, đến Nhân viên công tác xã hội đối với người tâm thần như khái niệm,
nhiệm vụ, các yếu tố ảnh hưởng đến Nhân viên công tác xã hội với người tâm
thần. Đồng thời cũng chỉ ra được cơ sở pháp lý về người tâm thần và Nhân
viên Công tác xã hội với người tâm thần.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đánh giá được thực trạng đặc điểm của Nhân viên công tác xã hội với
người tâm thần, thực trạng đáp ứng yêu cầu của Nhân viên công tác xã hội với
người tâm thần cũng như việc thực hiện nhiệm vụ của Nhân viên công tác xã
hội với người tâm thần. Đồng thời đánh giá được những yếu tố ảnh hưởng đến
người tâm thần, Qua đó, đề xuất được các biện pháp nâng cao nhiệm vụ của
Nhân viên công tác xã hội với người tâm thần và từ đó nâng cao nhận thức cả
xã hội đối với người tâm thần; giúp người tâm thần hòa nhập cộng đồng.
Góp phần vào hoạch định chính sách đối với Nhân viên công tác xã hội

và người tâm thần.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục thì nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân viên công tác xã hội trong trợ
giúp người tâm thần
Chương 2: Thực trạng về nhân viên công tác xã tại Trung tâm phục hồi
chức năng tâm thần tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả của nhân viên công tác xã hội
từ thực tiễn Trung tâm phục hồi chức năng tâm thần tỉnh Ninh Bình.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRONG TRỢ GIÚP NGƯỜI TÂM THẦN
1.1. Khái niệm và đặc điểm người tâm thần
1.1.1.Một số khái niệm
* Khái niệm về tâm thần
Trong tiếng Việt cũng có nhiều từ khác nhau thường được dùng để mô tả
tình trạng bất thường về mặt sức khỏe tâm thần (tức tình trạng sức khỏe tâm
thần không khỏe mạnh) như: Rối nhiễu tâm lý; tâm thần, bệnh tâm thần, sức
khỏe tâm thần bị tổn thương, hay có vấn đề về sức khỏe tinh thần, có vấn đề
tâm bệnh.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra các quan điểm riêng của mình về
tình trạng có vấn đề sức khỏe tâm thần. Tác giả Hoàng Cẩm Tú đã dùng khái
niệm “sức khỏe tâm thần bị tổn thương” để mô tả tình trạng sức khỏe tâm
thần không khỏe mạnh. Bà xác định tình trạng này như sau: “sức khỏe tâm
thần bị tổn thương: Không chỉ bó hẹp ở một tỉ lệ nhỏ của các tâm thần (10 20%) như những bệnh tâm thần nặng, mạn tính hoặc các khuyết tật thâm

thần, mà còn bao gồm các trạng thái không thoải mái về tâm lý do căng thẳng
bởi các stress tâm lý từ phía môi trường sống gia đình, trường học, cộng đồng
xã hội... như rối loạn ngủ, biếng ăn, mệt mỏi, học giảm sút, thiếu hứng thú, xa
lánh, ngại giao tiếp, lo sợ hốt hoảng, buồn chán... đến rối loạn hành vi chống
đối”. [19, tr. 106]
Trong điều tra về tỉ lệ trẻ vị thành niên miền Bắc Việt Nam có vấn đề
sức khỏe tâm thần, tác giả Nguyễn Cao Minh lại trích dẫn quan điểm của
WHO về vấn đề sức khỏe tâm thần: “sức khỏe tâm thần bao gồm rất nhiều các
vấn đề khác nhau từ nhẹ đến nặng, với nhiều triệu chứng phong phú. Tuy

12


nhiên, một cách khái quát, những triệu chứng này là sự kết hợp của những suy
nghĩ, cảm xúc lệch lạc và mối quan hệ với người khác lệch lạc, ví dụ như trầm
cảm, lo âu, stress đến chậm phát triển và những rối loạn liên quan đến việc
lạm dụng chất gây nghiện”, đồng thời cho rằng “Bệnh tâm thần là tình trạng
sức khỏe do bị rối loạn các chức năng nhận thức, cảm xúc, xã hội. Một người
được coi là có bệnh tâm thần khi được những người có chuyên môn y tế như
bác sỹ tâm thần, cán bộ tâm lý lâm sàng công nhận” [18, tr.10].
Một số tác giả khác cũng lý giải rõ: Thực ra, bệnh tâm thần chính là các
tâm thần. Xét về khía cạnh thuật ngữ, chỉ được gọi là "bệnh" khi biết rõ được
nguyên nhân và cơ chế gây bệnh của nó. Trong khi hầu hết các tâm thần đều
chưa xác định được chính xác nguyên nhân gây bệnh, cho nên gọi là "rối
loạn”, để chỉ sự hoạt động tâm thần bất thường. Chỉ được xem là có bệnh khi
các rối loạn gây nên những hậu quả bất lợi về sinh học, tâm lý, xã hội. Người
có triệu chứng tâm thần chưa hẳn gọi là có tâm thần. Có nhiều loại tâm thần
mà người bệnh không tự nhận thức được các triệu chứng rối loạn của chính
mình, mà do được quan sát bởi những người xung quanh, ví dụ: người bệnh
miên hành (mộng du) hoặc những người có chứng hoang tưởng .[20;22;23]

Những cách dùng từ khác nhau trên phụ thuộc vào quan niệm riêng của
từng tác giả về tình trạng có vấn đề về sức khỏe tâm thần, cũng như phụ thuộc
vào mức độ nặng (nghiêm trọng) của các vấn đề sức khỏe tâm thần các tác giả
đang quan tâm, hoặc đề cập đến trong nghiên cứu của mình. Trong lĩnh vực
công tác xã hội và cụ thể là trong nghiên cứu này chúng tôi gọi bằng thuật
ngữ “Người tâm thần”.
*. Khái niệm người tâm thần
Lâu nay khi mọi người nghe nói đến người tâm thần ta thường nghĩ ngay
đến hình ảnh những người ăn mặc quái dị, có những hành vi không giống ai,
đứng la hét ngoài đường … hoặc thông qua phim ảnh, sách báo họ lại hình

13


dung ra những người có tính khí hung dữ bất thường, hành vi ghê gớm không
thể đoán trước … Thế thì có phải tất cả những người bệnh tâm thần đều là
như thế không ? Thật ra những hiện tượng nêu trên chỉ gặp ở một bộ phận rất
ít những bệnh nhân bị các loại bệnh tâm thần nặng và không được điều trị kịp
thời. [23]
Trong nghiên cứu này tôi sử dụng khái niệm người tâm thần là người
“có vấn đề về sức khỏe tâm thần” để mô tả tình trạng không khỏe mạnh về
sức khỏe tâm thần và xác định tình trạng có vấn đề về sức khỏe tâm thần là:
- Người có những biểu hiện hành vi, cảm xúc, suy nghĩ kém thích nghi,
mang tính kỳ lạ hoặc lệch chuẩn so với cộng đồng;
- Kéo dài, gây đau khổ hoặc làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, cuộc sống,
mối quan hệ của cá nhân và những người xung quanh
- Được chẩn đoán, kết luận của những người có chuyên môn (bác sỹ tâm
thần hoặc những nhà tâm lý lâm sàng được cấp phép).
1.1.2. Nguyên nhân của các vấn đề về tâm thần
Khác với các bệnh thực thể, nguyên nhân của tâm thần thường phức tạp

và thay đổi tùy theo các rối loạn đặc biệt và tùy theo từng cá nhân riêng biệt.
Mặc dù nguyên nhân của một số tâm thần chưa được xác định rõ nhưng rất
nhiều bằng chứng đã chứng minh rằng những nhân tố sinh học, tâm lý và môi
trường khác nhau có thể góp phần vào sự phát sinh hay tiến triển của một tâm
thần. Có thể nói hầu hết các vấn đề sức khỏe tâm thần đều là kết quả của sự
kết hợp, tác động qua lại không ngừng giữa các yếu tố bên ngoài (kinh tế, văn
hoá, các mối quan hệ xã hội...) và các yếu tố bên trong (các đặc điểm di
truyền, sinh hoá, sinh lý của não và các đặc điểm tư duy, nhân cách...) chứ
không phải là kết quả tác động trực tiếp của một yếu tố duy nhất.
Rất nhiều tác giả thuộc các trường phái khác nhau quan tâm tìm cách
giải thích nguyên nhân của các vấn đề sức khỏe tâm thần. Thời trung cổ,

14


người bệnh tâm thần bị loại ra khỏi thành phố và nhốt vào trong các tu viện,
nhà tế bần, bởi lẽ quan niệm của tầng lớp thống trị thời đó cho rằng người bị
bệnh tâm thần là do ma quỷ xâm nhập do đó bị trói, bị ngược đãi, bị thiêu
sống... Cuối thế kỷ XVIII - XIX, nhờ quan điểm duy vật chiếm ưu thế, Bs
Pinel và sau đó là Esquirol đã khẳng định bệnh tâm thần không phải do ma
xui quỷ khiến mà phát sinh từ não bộ, trên cơ sở đó đã góp phần giải phóng
bệnh nhân tâm thần khỏi sự đối xử man rợ và cải cách nơi giam giữ bệnh
nhân tâm thần thành bệnh viện. [18]
Trong hầu hết thế kỷ 20, bệnh tâm thần được cho là gây ra bởi các mối
quan hệ có vấn đề giữa trẻ em và cha mẹ của họ. Quan điểm này đã được phổ
biến vào cuối thập niên 1990, trong đó người ta tin rằng mối quan hệ giữa trẻ
em và cha mẹ là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến các vấn đề sức khỏe tâm
thần nghiêm trọng. Sau đó, nhiều quan điểm khác lại cho rằng rằng mối quan
hệ giữa trẻ em và cha mẹ có ảnh hưởng nhỏ hơn so với các yếu tố về mặt sinh
học và di truyền. Trên cơ sở đó chúng ta có thể thấy quan điểm về nguyên

nhân của các vấn đề sức khỏe tâm thần đã thay đổi theo thời gian và nhiều
khả năng sẽ tiếp tục thay đổi khi chúng ta tiếp tục có những nghiên cứu sâu
sắc và phong phú hơn trong lĩnh vực này.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau đã đưa
ra các mô hình khác nhau để cách lý giải khác nhau về nguyên nhân của các
vấn đề sức khỏe tâm thần. Dưới đây là một số quan điểm tiêu biểu:
1.1.2.1. Những nhân tố sinh học
Mô hình sinh học tập trung vào các tiến trình thể chất và sinh lý của cơ
thể như là nguyên nhân gây ra các tâm thần. Theo mô hình này: Các yếu tố
cấu trúc, chức năng của não bộ; bệnh tật cơ thể, những yếu tố di truyền ...có
ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phát triển của con người và các chức năng
thông qua cơ chế sinh học. Ngày nay đã có nhiều nghiên cứu trên các cặp sinh

15


đôi cùng chứng đã cung cấp bằng chứng xác đáng cho lập luận về ảnh hưởng
của yếu tố di truyền và tổn thương ở não bộ, hệ thần kinh đối với các bệnh
tâm thần.
Những tác giả theo quan điểm này cũng tin tưởng rằng suy nghĩ, cảm
xúc và hành vi của con người có liên quan đến hoạt động của các tế bào thần
kinh trong đại não và cột sống. Do đó nhiều tâm thần là hệ quả của sự tổn
thương, khiếm khuyết hay sự thay đổi trong hoạt động hoặc cấu trúc của não
bộ. Cũng theo quan điểm này, những tâm thần có thể được điều trị thành công
bằng thuốc.
Mô hình khá phổ biến được các tác giả theo trường phái sinh học đưa ra
và sử dụng để lý giải các vấn đề sức khỏe tâm thần có thể kể đến là mô hình
sinh hóa chất dẫn truyền thần kinh. Mô hình này cho rằng những lỗi trong
quá trình truyền các tín hiệu thần kinh gây ra các biểu hiện tâm bệnh học. Một
số lỗi phổ biến trong quá trình truyền các tín hiệu thần kinh có thể kể đến

như: Sợi trục giải phóng quá nhiều hoặc quá ít các chất dẫn truyền thần kinh;
Tua nhánh quá nhạy cảm hoặc quá thiếu nhạy cảm với các chất dẫn truyền
thần kinh được các sợi trục giải phóng ra; Các chất dẫn truyền thần kinh ở
trong xi náp quá lâu hoặc quá ngắn...
1.1.2.2. Những nhân nhân tố tâm lý
Những nhân tố tâm lý có ảnh hưởng đến sự phát sinh, hình thành và tiến
triển của các vấn đề tâm thần bao gồm: đặc điểm nhân cách, hệ thống niềm tin
cốt lõi về con người và cuộc sống; cách thức tư duy và mô hình ứng phó, giải
quyết vấn đề cũng như trải nghiệm cuộc sống của từng cá nhân.
Dưới đây là một số mô hình tâm lý tiêu biểu, thường được sử dụng phổ
biến để lý giải nguyên nhân các vấn đề sức khỏe tâm thần:
- Mô hình hành vi chú trọng vào các quá trình liên quan trực tiếp đến
những hành vi bên ngoài (có thể quan sát được) như là nguyên nhân gây ra

16


tâm bệnh học. Mô hình hành vi giải thích sự hình thành và tiến triển của các
vấn đề hành vi qua ba cơ chế: Điều kiện hóa cổ điển (Pavlov); điều kiện hóa
thao tác (B. F. Skinner) và tập nhiễm qua quan sát (Albert Bandura).
Theo mô hình này, hầu hết các vấn đề sức khỏe tâm thần hay các hành vi
bất thường không phải là bẩm sinh, không tự nhiên xuất hiện ở chủ thể.
Chúng được cá nhân tập nhiễm thông qua quá trình kích thích, củng cố một
cách chủ đích hoặc không chủ đích từ người khác và môi trường xung quanh;
hoặc tạp nhiễm trên cơ sở quan sát từ hành vi của người khác.
Mô hình nhận thức tập trung vào những gì mà mọi người tin, suy nghĩ và
tự nhủ với bản thân như là nguyên nhân của các vấn đề tâm bệnh. Theo mô
hình này: Không phải những gì xảy ra mà là cách cá nhân diễn giải về sự việc,
cách họ nghĩ về những gì đã xảy ra ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của cá
nhân đó. Hành vi bất thường là kết quả của những suy nghĩ không thích nghi,

những niềm tin phi lý của cá nhân về những sự kiện trong cuộc đời họ.
Mô hình chính niệm (“Mindfulness”) - Chú trọng vào những ảnh hưởng
của việc cố gắng né tránh các trải nghiệm cảm xúc như là nguyên nhân của
tâm bệnh học. Chẳng hạn việc bệnh nhân A luôn bận tâm về những điều bạn
lo lắng sẽ làm cho trạng thái lo âu của A trở nên nặng nề hơn; việc bệnh nhân
B trở nên buồn chán thất vọng về các biểu hiện trầm cảm của B sẽ làm cho B
càng cảm thấy tồi tệ hơn.
Lý thuyết gắn bó tập trung vào vai trò của các mối quan mẹ con sớm, hay
mối quan hệ giữa trẻ với người chăm sóc trong thời thơ ấu .
Trên cơ sở nghiên cứu thực nghiệm, các tác giả đã cho thấy rằng có bốn
mô hình chính của mối quan hệ gắn bó mẹ con sớm: Mô hình gắn bó an toàn,
mô hình gắn bó kiểu né tránh, mô hình gắn bó kiểu vô tổ chức và mô hình gắn
bó kiểu mâu thuẫn. Theo các tác giả, mối quan hệ của trẻ với người chăm sóc,
nuôi dưỡng trong những năm đầu tiên của cuộc đời càng gắn bó, an toàn càng

17


giúp trẻ có khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ lành mạnh với những
người khác trong cuộc sống sau này. Sự an toàn trong mối quan hệ với người
chăm sóc, nuôi dưỡng trong những năm đầu tiên của cuộc đời ảnh hưởng đến
cảm xúc, khả năng nhận thức, và xã hội của trẻ sau này.
Những biến cố trong cuộc sống cũng được xếp vào danh sách những yếu
tố có vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của con người, đặc biệt là
sức khỏe tâm thần trẻ em. Nhiều tác giả tin rằng trẻ em dễ bị tổn hại tâm lý từ
các sự kiện đau thương hơn người lớn. Tác động của sự kiện chấn thương bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: tính chất của từng sự việc khác nhau; thời
gian cá nhân phải đối diện với sự kiện gây chấn thương tâm lý; ý nghĩa của sự
kiện đó với cá nhân và gia đình... Và dường như những thảm họa do con
người gây ra ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần trẻ em nhiều hơn thiên tai.

Có nhiều bằng chứng chứng minh ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý xã
hội, những sự kiện bất lợi trong cuộc sống đến sức khỏe tâm thần nói chung ở
trẻ em và thanh thiếu niên. Tình trạng bị ngược đãi trong thời thơ ấu, bao gồm
cả lạm dụng tình dục, bị bạo hành, lạm dụng tình cảm, bạo lực gia đình và bắt
nạt, có liên quan đến sự phát triển của tâm thần, thông qua các tương tác phức
tạp của các yếu tố xã hội, gia đình, yếu tố tâm lý và sinh học.
Việc tiếp xúc trực tiếp với một sự kiện gây chấn thương nặng đôi khi có thể
dẫn tới bệnh tâm thần, bao gồm PTSD tuy nhiên thông thường các vấn đề tâm
thần không phát sinh một cách rõ ràng và trực tiếp như vậy. Việc phát sinh một
vấn đề tâm thần thường là kết quả của sự kết hợp, tác động qua lại một cách
phức tạp giữa rất nhiều yếu tố sinh học, tâm lý và môi trường khác nhau.
1.1.2.3. Các nhân tố môi trường
Ngoài ra có nhiều nhân tố khác tuy không phải là nguyên nhân trực tiếp
và quyết định nhưng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần, đó chính là
những nhân tố môi trường như: nền văn hóa xã hội, văn hóa gia đình, chủng
tộc, dân tộc, điều kiện kinh tế xã hội, thời tiết ...
18


Sự kết hợp giữa các nhân tố: tâm lý - sinh học - xã hội
Căn cứ trên sự tác động qua lại giữa các yếu tố tâm lý, sinh học, xã hội,
các tác giả đã xây dựng mô hình tính dễ tổn thương và căng thẳng để lý giải
nguyên nhân của các vấn đề sức khỏe tâm thần. Các tác giả theo mô hình này
cho rằng các vấn đề sức khỏe tâm thần có xu hướng là kết quả tác động qua
lại của yếu tố di truyền và yếu môi trường căng thẳng. Mô hình này có thể sử
dụng để giải thích những vấn đề hay những tâm thần cụ thể nhưng có thể có
khó khăn trong việc xác định ranh giới cho hội chứng tâm thần không rõ ràng.
Nhìn chung, trong hầu hết các trường hợp chúng ta khó có thể khẳng
định nhân tố nào là nhân tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng nhất đến vấn đề
tâm thần của cá nhân và cộng đồng nói chung bởi các nhân tố nói trên không

tác động một cách riêng rẽ mà thường kết hợp, tương tác với nhau một cách
phức tạp.
Mặt khác mỗi cá nhân đều có những đặc điểm riêng về mặt sức khỏe, di
truyền, khí chất, nhân cách, hệ thống niềm tin, mô hình nhận thức và giải
quyết vấn đề và trải nghiệm cuộc sống...; mỗi cộng đồng đều có những đặc
điểm văn hóa riêng. Sự khác biệt của tất cả những yếu tố đó tạo ra sự khác
biệt trong khả năng chống đỡ và phục hồi của các cá nhân và cộng đồng. Điều
này góp phần lý giải vì sao cùng trải nghiệm những sự kiện bất lợi trong cuộc
sống nhưng một số người, một số nhóm cộng đồng dễ gặp các vấn đề tâm
thần hơn những người khác, những nhóm khác.
1.2. Lý luận về nhân viên công tác xã hội trong trợ giúp người tâm thần
1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm Nhân viên công tác xã hội
Nhân viên xã hội là người được đào tạo công tác xã hội (có bằng đại
học hay thạc sỹ), sử dụng kiến thức và kỹ năng để cung cấp các dịch vụ xã hội
cho các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng, tổ chức, hay xã hội. nhân viên xã

19


×