ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HOA
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
HỖ TRỢ TÂM LÝ CHO ĐỐI TƯỢNG NHIỄM HIV/AIDS TẠI
TRUNG TÂM KHÁM CHỮA BỆNH
SỞ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH XÃ HỘI TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Hà nội, 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Ý nghĩa của nghiên cứu 9
5 . Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 10
6. Phạm vi nghiên cứu 10
7. Câu hỏi nghiên cứu 10
8. Giả thuyết nghiên cứu 11
9. Phương pháp nghiên cứu 11
PHẦN NỘI DUNG 23
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU 16
1.1 Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu 16
1.1.1 Lý thuyết tiếp cận thân chủ trọng tâm – Carl Roger 16
1.1.2 Lý thuyết nhận thức – hành vi 19
1.1.3 Lý thuyết vai trò 21
1.1.4 Lý thuyết can thiệp khủng hoảng 23
1.2 Các khái niệm công cụ 26
1.2.1 Khái niệm Công tác xã hội 26
1.2.2 Khái niệm Nhân viên Công tác xã hội 29
1.2.3 Khái niệm vai trò và vai trò của nhân viên Công tác xã hội 31
1.2.4 Khái niệm HIV/AIDS 34
1.2.5 Những đặc trưng tâm lý của đối tượng nhiễm HIV/AIDS 36
1.2.6 Khái niệm tham vấn 39
1.2.7 Khái niệm khủng hoảng 44
1.2.8 Khái niệm hỗ trợ tâm lý 45
1.3 Đặc điểm về địa bàn nghiên cứu 47
Tiểu kết chương 1 49
Chương 2: NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG HỖ TRỢ TÂM LÝ
CHO ĐỐI TƯỢNG NHIỄM HIV/AIDS 50
2.1. Những khó khăn và các yếu tố ảnh hưởng đến đối tượng nhiễm
HIV/AIDS 50
2.1.1. Khủng hoảng tâm lý 50
2.1.2. Phân biệt và kì thị đối xử - tự kì thị 52
2.2 Nhu cầu của đối tượng nhiễm HIV/AIDS 54
2.3 Hỗ trợ tâm lý của NVCTXH cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS đương đầu
và vượt qua khủng hoảng 57
2.3.1 Vai trò của NVCTXH trong tham vấn cho đối tượng trong giai đoạn hai
: Giai đoạn bắt đầu bị tác động của khủng hoảng (Khi thông báo họ có HIV
dương tính) 59
2.3.2 Vai trò của NVCTXH trong tham vấn giúp đỡ đối tượng khi họ phủ nhận
tình huống 64
2.3.3 Vai trò của NVCTXH trong tham vấn hỗ trợ đối tượng trong giai đoạn
3: Giai đoạn bối rối, quẫn trí 68
2.3.4 Vai trò của NVCTXH trong tham vấn hỗ trợ đối tượng trong giai đoạn 4:
Lúc họ mặc cảm và tìm các phương án đối phó tích cực hoặc tiêu cực 71
2.3.5 Vai trò của NVCTXH trong tham vấn hỗ trợ đối tượng trong giai đoạn
5: Giai đoạn xử lý khủng hoảng 78
2.4. Tham vấn một trường hợp cụ thể đương đầu và vượt qua khủng hoảng:
Cụ thể trong giai đoạn 2: Đối tượng căng thẳng và sốc mạnh 79
Tiểu kết chương 2: 81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC 91
Phụ lục 1: Thảo luận nhóm 112
Phụ lục 2: Nội dung, kế hoạch và tiến trình của tọa đàm 113
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, HIV/AIDS đã trở thành đại dịch, là hiểm họa cho nhân
loại và là mối quan tâm hàng đầu của các nước. Ở nước ta, tình hình lây
nhiễm HIV/AIDS tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả
các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng lan rộng, đe dọa trực tiếp đến
sức khỏe, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội và sự phát triển của đất
nước. Thời gian qua, dưới tác động của công tác thông tin, giáo dục và truyền
thông thay đổi hành vi, nhận thức của người dân về dự phòng lây nhiễm
HIV/AIDS ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Thực trạng ở Việt Nam, với hơn 220.000 người nhiễm HIV được báo
cáo, Việt Nam là quốc gia có số người nhiễm HIV đứng thứ 5 trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương (sau Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan).
Việt Nam kỳ vọng kết thúc đại dịch HIV/AIDS năm 2030 . Thông tin được
Thứ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết tại lễ mítting hưởng ứng Tháng
hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS và Ngày Thế giới phòng chống
AIDS 1/12, diễn ra tại Hà Nội sáng 30/1/2014.
Theo thứ trưởng, Việt Nam đã kiểm soát được tốc độ gia tăng của các
ca nhiễm mới HIV, giảm số người tử vong do AIDS. Tuy nhiên, tình hình lây
nhiễm bệnh có nhiều diễn biến phức tạp.Mỗi năm nước ta có khoảng 10.000
ca nhiễm mới HIV được phát hiện, HIV/AIDS vẫn là nguyên nhân hàng đầu
gây gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Sự quay trở lại của đại dịch HIV/AIDS
đang trở nên hiện hữu khi tốc độ đầu tư cho công tác phòng chống đang giảm
xuống. Bên cạnh đó, các biện pháp can thiệp chưa được triển khai đủ mạnh và
tình trạng phân biệt đối xử chưa giảm xuống. Dịch HIV ở Việt Nam vẫn tập
trung chủ yếu ở ba nhóm quần thể có hành vi nguy cơ lây nhiễm cao: người
nghiện chích ma túy, nam quan hệ tình dục đồng giới và phụ nữ bán dâm.
2
Việc gia tăng các trường hợp phụ nữ nhiễm HIV mới được báo cáo,
chiếm hơn 32% các ca nhiễm mới trong năm 2013, cho thấy sự lây truyền
HIV từ nam giới có hành vi nguy cơ cao sang bạn tình.
Quyết tâm ngăn ngừa đại dịch HIV/AIDS lan tràn ở Việt Nam là công
tác vô cùng cấp bách đòi hỏi tất cả các ngành các cấp cùng tham gia.
Công tác xã hội (CTXH) là một nghề tương đối mới mẻ ở Việt Nam,
tuy nhiên từ khi ra đời nó đã được ứng dụng vào rất nhiều hoạt động đặc biệt
là hoạt động hỗ trợ người yếu thế. Với sứ mệnh của ngành, CTXH hướng đến
an sinh, công bằng và hạnh phúc cho toàn thể mọi người. Đảng và Nhà nước
ta đã thấy rõ được tầm quan trọng của nghề CTXH trong công tác giải quyết
các vấn đề xã hội và hỗ trợ người yếu thế, chính vì vậy mà năm 2011 đã thành
lập mã nghề CTXH và thực hiện nâng cao năng lực cho cán bộ xã hội tại các
địa phương với đề án 32 của chính phủ. Điều này chứng minh được rằng,
CTXH và nhân viên CTXH (NVCTXH) có vai trò hết sức quan trọng trong
quá trình thực hiện hỗ trợ những người yếu thế.
Một trong những nhóm người yếu thế mà CTXH hướng đến để hỗ trợ
đó chính là đối tượng nhiễm HIV/ AIDS. Trong đó, vai trò của các NVCTXH
có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp đỡ đối tượng đương đầu và vượt qua
hoàn cảnh.
Thái Bình là tỉnh với nền nông nghiệp lâu đời, hiện nay, với xu hướng
mới tăng sản xuất công nghiệp bên cạnh vẫn chú trọng nông nghiệp đã mang
đến bộ mặt mới, diện mạo mới cho tỉnh. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được
thì những hạn chế do sự phát triển của công nghiệp mang lại cũng không nhỏ mà
vấn đề trước mắt đó chính là đối tượng nhiễm HIV/AIDS ngày càng tăng tính
đến ngày 29/12, tỉnh Thái Bình phát hiện hơn 3.580 người nhiễm HIV/AIDS.
Riêng trong năm 2014, tỉnh phát hiện 114 người nhiễm mới. Điều này là một
trong những thách thức lớn đối với các cấp lãnh đạo của tỉnh. Trong những năm
gần đây, trong những bản phương hướng, nhiệm vụ của tỉnh đều đề cập đến vấn
3
đề giảm tỉ lệ đối tượng nhiễm HIV/AIDS và công tác hỗ trợ đối tượng này chăm
sóc và hòa nhập cộng đồng [24,99]
Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội thuộc sở lao động
thương binh xã hội Thái Bình Tỉnh Thái Bình được thành lập với mục tiêu,
nhiệm vụ là một trong những trung tâm thực hiện công tác chăm sóc, hỗ trợ
cho đối tượng sống chung với HIV/AIDS. Các cán bộ ở đây thực hiện vai trò
chăm sóc và hỗ trợ đối tượng. Vì vậy việc nâng cao năng lực cho cán bộ thực
hiện và thể hiện vai trò của NVCTXH tại cơ sở là vô cùng cần thiết
Chính vì những lý do trên mà tôi thực hiên nghiên cứu đề tài: Vai trò
của nhân viên công tác xã hội trong hỗ trợ tâm lý cho đối tượng nhiễm
HIV/AIDS tại trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội Sở lao
động thương binh xã hội Thái Bình – Tỉnh Thái Bình.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1 Tình hình nghiên cứu về HIV/AIDS và hỗ trợ đối tượng nhiễm
HIV/AIDS đương đầu và vượt qua khủng hoảng trên thế giới [25,99]
HIV/AIDS xuất hiện ở Châu phi vào những năm 1950, 1960, 1970.
Tuy nhiên vào thời gian đó những dấu hiệu xuất hiện mới chỉ được coi là
những ca viêm nhiễm và chưa được giải thích và cũng chưa được sự quan tâm
của xã hội. Trên thực tế các hồ sơ về các trường hợp bị nhiễm virut cũng
không được lưu giữ cẩn thận, và cũng chưa ai khẳng định được rằng đã có
bao nhiêu trường hợp nhiễm virut ở Châu phi lúc bấy giờ.Cho đến khi các
nước Phương Tây với hệ thống chăm sóc y tế hiện đại hơn đã phát hiện ra nó.
Năm 1992, một nghiên cứu ở Rwanda đã có cuộc nghiên cứu của các
nhà xã hội học trong việc kiểm tra tác động của tư vấn phòng ngừa đối với
người nhiễm HIV. Và nghiên cứu chỉ ra rằng đối với phụ nữ đối tác mà cũng
đã được thử nghiệm và tư vấn, hàng năm tỷ lệ nhiễm HIV mới giảm từ 4,1%
đến 1,8%. Ở đây, tư vấn đã giúp giảm tỉ lệ người nhiễm H [25,99].
4
Một nghiên cứu dựa vào cộng đồng, cách tiếp cận cho thanh thiếu niên
và phụ nữ. Yangon, UNICEF, năm 1995, được thiết kế để giúp đỡ cộng đồng
người lao động ở nông thôn tăng nhận thức và phát triển cuộc sống kỹ năng
liên quan đến HIV / AIDS. Tất cả các vấn đề liên quan, chẳng hạn như chăm
sóc trong thanh niên và phụ nữ, tư vấn cho họ cách bảo vệ mình trước HIV.
Chủ đề được tiếp cận trong thực tế một cách thân thiện và tập trung vào tầm
quan trọng của sự tham gia cộng đồng, bạn bè và gia đình. UNAIDS chính
sách về xét nghiệm HIV và tư vấn. Ở nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng,
những người nhiễm HIV/AIDS rất cần sự hỗ trợ từ phía gia đình, cộng
đồng, bạn bè đặc biệt là từ những nhà chuyên môn – hỗ trợ về mặt tâm lý
để họ vượt qua khủng hoảng và rào cản về mặt tâm lý để họ hòa nhập với
cộng đồng. Vì vậy, nghiên cứu này được UNICEF tài trợ đã có kết quả khả
quan hơn khi họ nhấn mạnh đến vai trò của những nhà chuyên môn trong
công tác tham vấn cho người nhiễm HIV/AIDS [25,99]
Ngọn nến của niềm hy vọng : AIDS chương trình của Hội Chữ thập đỏ
Thái Lan và Chiến lược ActionAid, 1994 đã cung cấp cái nhìn tổng quan của
Thái Lan ứng phó quốc gia với dịch HIV / AIDS. Bao gồm giới thiệu những
nỗ lực và kinh nghiệm của Hội Chữ thập đỏ Thái Lan và Câu lạc bộ đồng
đẳng trong việc tư vấn, phổ biến Giáo dục về AIDS, và cung cấp chăm sóc
sức khỏe, dịch vụ hỗ trợ, và niềm hy vọng cho những người sống HIV.
Chương trình này cũng đã nhấn mạnh đến vai trò của nhà tham vấn trong
công tác hỗ trợ cho đối tượng nhiễm HIV đương đầu với khủng hoảng
[28,99].
Năm 1996, hội nghị quốc tế lần thứ 11 về AIDS được tổ chức tại
Vancouver, Canada. Lần đầu tiên người ta được nghe thông tin lạc quan về
hóa chất ngăn chặn, liệu pháp kết hợp, xét nghiệm virut HIV và khả năng can
thiệp sớm. Tại đây nhiều bài tham luận và nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
những người nhiễm HIV thường gặp phải những vấn đề về tâm lý đặc
5
biệt là về khủng hoảng tâm lý, vì vậy những nghiên cứu và tham luận
này cũng chỉ ra rằng cần phải có sự can thiệp sớm bằng cách hỗ trợ về
mặt tâm lý cho người nhiễm HIV để họ có sức mạnh vượt qua khó
khăn.[25,99]
Từ đó cho đến nay, nội dung của các hội nghị, tài liệu trên thế giới
xoay quanh vấn đề phòng chống HIV/AIDS, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe thể
chất và tinh thần cho đối tượng sống chung với HIV/AIDS.
2.2 Tình hình nghiên cứu về HIV/AIDS và hỗ trợ đối tượng nhiễm
HIV/AIDS đương đầu và vượt qua khủng hoảng tại Việt Nam
Trong những năm qua, các văn bản quy phạm pháp luật về phòng,
chống HIV/AIDS ở Việt Nam đã dần hình thành và ngày càng thể hiện rõ vai
trò của pháp luật trong công tác phòng, chống HIV. Các văn bản quy phạm
pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS được ban hành dưới nhiều hình thức
khác nhau. Bộ Luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
ban hành đã có những điều khoản xử phạt nghiêm minh tất cả mọi hình thức
bạo lực tình dục đối với trẻ em, bao gồm cả mại dâm trẻ em và buôn bán trẻ
em. Trong đó có hai tội phạm đặc biệt có liên quan đến HIV/AIDS cũng đã
được đề cập đến là tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV
cho người khác.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS
đã tạo cơ sở pháp lý, hình thành một khung pháp luật khá đầy đủ cho việc
triển khai thống nhất, đồng bộ các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trong
phạm vi toàn quốc, góp phần quan trọng trong việc hạn chế sự gia tăng lây
nhiễm HIV trong cộng đồng; đồng thời góp phần giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật, nâng cao sự hiểu biết về HIV/AIDS và công tác phòng, chống
HIV/AIDS trong nhân dân, góp phần giảm thiểu tác hại của dịch HIV/AIDS
đối với nhiều mặt trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.
6
Toàn xã hội đã và đang quan tâm đến vấn đề này, nó được thể hiện rõ
trong những nghiên cứu, diễn đàn, hội thảo cấp nhà nước, liên ngành và quốc tế.
“Một số cảm xúc tiêu cực ở người nhiễm HIV/AIDS và cách thức hỗ
trợ” của GS. TS. Trần Thị Minh Đức và cử nhân Tâm lý học Trương Phúc
Hưng, Tạp chí Tâm lý học số 6/2000, cũng đã chỉ ra rằng, ở người nhiễm H
có những cảm xúc tiêu cực mà đối tượng phải trải nghiệm, vì vậy gây ra cho
họ những trạng thái tiêu cực và nhà tham vấn cần hỗ trợ cho họ để họ ứng phó
với những cảm xúc, trạng thái tiêu cực đó [23,99.
“Diễn đàn của những người sống chung với HIV/AIDS” do Trung tâm
Nghiên cứu và Ứng dụng Khoa học về Giới- Gia đình- Phụ nữ và Vị thành
niên (CSAGA), 2004 thực hiện tại Hà Nội và Thanh Hóa (thành thị) với sự hỗ
trợ của Quỹ Canada. Nội dung:
Tạo cơ hội để những người sống chung với HIV/AIDS nói lên tiếng nói
của mình
Tăng cường năng lực và sự tự tin của người nhiễm HIV/AIDS
Khuyến cáo cộng đồng về sự nguy hiểm của nạn dịch HIV/AIDS
Loại bỏ sự kỳ thị, phân biệt đối xử của cộng đồng với người có
HIV/AIDS
Trong đề án nghiên cứu của UNESSCO/ UNAIDS về phương pháp tiếp
cận văn hóa trong dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS, 2004 đã ưu tiên trình
bày các phương pháp xây dựng thực hiện chiến lược, chính sách phù hợp với
truyền thống văn hóa trong chăm sóc HIV/AIDS.
Trong chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam, giai đoạn
2001 – 2010 đã đưa mục tiêu bảo vệ trẻ em bị nhiễm HIV và bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS là một trong các mục tiêu quan trọng. Hiện nay Uỷ ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em đang phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng và
trình Chính phủ phê duyệt “Chiến lược bảo vệ trẻ em giai đoạn 2006 – 2010
7
và tầm nhìn 2020”, trong đó có các mục tiêu và các hoạt động cụ thể nhằm
bảo vệ, chăm sóc trẻ bị nhiễm HIV và trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Trong báo cáo “Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và Vai trò của
Ngành LĐTB&XH trong việc thực hiện KHHĐQG vì trẻ em bị ảnh hưởng
bởi HIV/AIDS đến năm 2010” của BS. Nguyễn Trọng An - Phó Cục trưởng
Cục BVCSTE-Bộ LĐTB&XH đã nêu lên thực trạng trẻ em bị nhiễm và ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS và thành tựu, thách thức của Việt Nam trong công tác
chăm sóc và bảo vệ đối tượng nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói chung
và trẻ em nói riêng. Đặc biệt, trong báo cáo này đã chú ý đến việc chăm sóc
đối tượng nhiễm và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tập trung tại gia đình và các
trung tâm xã hội.
Báo cáo Diễn đàn Quốc gia “Tiếng nói trẻ em và HIV/AIDS”, do Bộ
Lao Động Thương Binh & Xã Hội, Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh, Tổ chức
Tầm Nhìn Thế Giới, 2007 tổ chức Diễn đàn với 25 thông điệp của mình, tập
trung vào những vấn đề như (1) giảm phân biệt đối xử; (2) được tiếp cận với
thông tin, tư vấn hỗ trợ; (3) được hỗ trợ và chăm sóc trong điều trị: (4) được
hỗ trợ về giáo dục; (5) được vui chơi giải trí như các bạn khác; (6) được hỗ
trợ tâm lý xã hội và (7) được tham gia và được lắng nghe.
Trong giai đoạn 2005-2011, có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về
HIV/AIDS cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành và cấp cơ sở được triển khai. Kết
quả nghiên cứu đã giúp công tác lập kế hoạch, xây dựng các chương tình can
thiệp, chăm sóc và điều trị đạt hiệu quả. Kết qủa nghiên cứu đã được báo cáo
tại các hội nghị khoa học và đăng tải ở nhiều tạp chí khoa học trong nước và
quốc tế. Trong thời gian qua (2010 - 2012), hơn 150 công trình, đề tài nghiên
cứu về dịch tễ học, các mô hình, biện pháp can thiệp dự phòng và điều trị về
HIV/AIDS, nghiên cứu về hành vi, xã hội học của các viện nghiên cứu, các
trường đại học, bệnh viện đã được triển khai và ứng dụng có hiệu quả.
Hội nghị Khoa học quốc gia về HIV/AIDS lần thứ IV diễn ra ngày 01-
03/12/2010 tại Hà Nội tập trung vào 4 chủ đề: Khoa học cơ bản về HIV/AIDS
8
và dịch tễ học về HIV/AIDS, HIV/AIDS/STI/Lao; Can thiệp, dự phòng lây
nhiễm HIV/AIDS; Chăm sóc, điều trị nhiễm trùng cơ hội và AIDS; Lãnh đạo,
quản lý và sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự trong phòng, chống
HIV/AIDS. Hội nghị có 4 phiên toàn thể và 16 phiên chuyên đề. 112 báo cáo
được lựa chọn để trình bày tại hội trường và 38 báo cáo được trình bày dưới
dạng poster.
Năm 2012, với nghiên cứu về HIV/AIDS, Phạm Văn Tư, trưởng bộ
môn cơ sở Công tác xã hội, Khoa Công tác xã hội, Đại học sư phạm Hà Nội
đã nghiên cứu về nội dung: Vai trò của NVCTXH trong việc hỗ trợ trẻ em bị
ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hòa nhập học đường, nghiên cứu này diễn ra tại Hà
Nội, Thái Bình, Thái Nguyên và Quảng Ninh [14,98]. Nghiên cứu này đã chỉ
ra rằng :
- Nhân viên Công tác xã hội can thiệp, hỗ trợ trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
bằng phương pháp công tác xã hội cá nhân theo tiến trình cụ thể nhằm giúp
trẻ phát huy được tiềm năng của bản thân các em ở việc giải quyết vấn đề của
mình, trong đó có việc đi học.
- Nhân viên Công tác xã hội sử dụng phương pháp Công tác xã hội nhóm để
can thiệp, hỗ trợ nhóm trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại một địa bàn cụ thể
(Trung tâm bảo trợ xã hội), thông qua việc sinh hoạt nhóm, giúp các em đồng
cảm, chia sẻ và đặc biệt là giúp các em có cơ hội đi học.
- Nhân viên Công tác xã hội sử dụng kỹ năng biện hộ để giúp trẻ bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS thực hiện quyền được đến trường của mình.
- Nhân viên Công tác xã hội làm việc với các nhà trường nơi địa bàn các em
cư trú để giúp nhà trường ủng hộ việc đi học của những trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS.
- Tranh thủ sự ủng hộ của Hội cha mẹ học sinh, tuyên truyền chống kỳ thị và
phân biệt đối xử của các bậc phụ huynh giúp cho trẻ bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS được đi học.
9
Tóm lại, theo những tài liệu và những thông tin mà chúng tôi thu thập
được thì hiện nay cũng chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu tập trung vào vấn
đề vai trò NVCTXH trong việc hỗ trợ tâm lý đặc biệt là tham vấn cho đối
tượng sống chung với HIV/AIDS đương đầu và vượt qua khủng hoảng.
Những nghiên cứu hay báo cáo mới chỉ dừng lại ở những vấn đề hỗ trợ cho
đối tượng tiếp cận dịch vụ, phòng chống lây nhiễm ra cộng đồng hay chỉ tập
trung vào đối tượng là trẻ em mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề.
Vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu đề tài góp phần tổng hợp cơ sở lý
luận về vấn đề và nghiên cứu làm rõ vai trò của nhân viên CTXH trong hỗ trợ
tâm lý đặc biệt là tham vấn cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS đương đầu và
vượt qua khủng hoảng. Từ đó xây dựng quy trình hỗ trợ đối tượng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vai trò của nhân viên CTXH trong tham vấn cho đối tượng
nhiễm HIV/AIDS đương đầu và vượt qua khủng hoảng và tham vấn giúp
đối tượng nhiễm HIV/AIDS giảm căng thẳng tâm lý.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của nhân
viên CTXH, vai trò của NVCTXH trong tham vấn cho đối tượng nhiễm
HIV/AIDS; các giai đoạn khủng hoảng của đối tượng nhiễm HIV/AIDS.
- Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến đối tượng HIV/AIDS, những yếu tố
làm gia tăng căng thẳng của đối tượng nhiễm HIV/AIDS.
- Nghiên cứu và làm rõ quá trình tham vấn của nhân viên Công tác xã
hội giúp đối tượng nhiễm HIV/AIDS trong các giai đoạn của khủng hoảng.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường khả năng đương đầu và
vượt qua khủng hoảng cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS.
4. Ý nghĩa của nghiên cứu
10
Nghiên cứu vấn đề có ý nghĩa trực tiếp về mặt lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: Chỉ rõ được vai trò và tầm quan trọng của CTXH và nhân
viên CTXH trong hỗ trợ cho đối tượng yếu thế nói chung và đối tượng nhiễm
HIV/AIDS nói riêng.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu vấn đề vai trò của nhân viên CTXH có ý
nghĩa thiết thực và trực tiếp đối với tỉnh Thái Bình, tham mưu cho sở Lao
động - Thương binh xã hội tỉnhThái Bình trong việc thực hiện phương hướng,
nhiệm vụ của tỉnh xây dựng trung tâm CTXH và hỗ trợ tốt hơn cho đối tượng
nhiễm HIV/AIDS.
5 . Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của nhân viên CTXH trong hỗ trợ tâm lý cho đối tượng nhiễm
HIV/AIDS
5.2 Khách thể nghiên cứu
16 Nhân viên CTXH (cán bộ) và 16 đối tượng nhiễm HIV/AIDS
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1 Phạm vi về thời gian: 2/2013 – 2/2014
6.2 Phạm vi về không gian: Trung tâm khám chữa bệnh – sở Lao động
thương binh xã hội Tỉnh Thái Bình (Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao
động xã hội).
6.3 Giới hạn nội dung nghiên cứu: Trong Công tác xã hội với người nhiễm
HIV/AIDS có rất nhiều vấn đề mà người nhiễm HIV cần được hỗ trợ như:
Chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần, tham vấn, tư vấn, hỗ trợ tiếp cận các
dịch vụ, giáo dục Tuy nhiên đề tài tập trung nghiên cứu và làm rõ vai trò của
nhân viên CTXH trong tham vấn cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS đương đầu
và vượt qua khủng hoảng.
7. Câu hỏi nghiên cứu
11
- Đối tượng nhiễm HIV/AIDS đang gặp phải những khó khăn gì?
- Nhân viên CTXH có vai trò gì trong hỗ trợ tâm lý cho đối tượng
nhiễm HIV/AIDS?
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Đối tượng nhiễm HIV/AIDS đang gặp phải vấn đề về khó khăn tâm
lý.
- Đối tượng nhiễm HIV/AIDS gặp vấn đề căng thẳng tâm lý vì vậy họ cần
được tham vấn để vượt qua những căng thẳng đó.
- Nhân viên Công tác xã hội có vai trò tham vấn trong hoạt động hỗ trợ tâm lý
cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS.
9. Phương pháp nghiên cứu
9.1 Phương pháp luận
Nghiên cứu vấn đề tham vấn cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS đương
đầu vượt qua khủng hoảng là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề về
đạo đức, xã hội, điều kện kinh tế Vì vậy để nghiên cứu vấn đề này có hiệu
quả, chúng tôi đã vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận khoa học cho đề tài, đó chính là
quan điểm toàn diện lịch sử, cụ thể và phát triển. Phương pháp luận này đòi
hỏi khi xem xét vấn đề khủng hoảng của đối tượng nhiễm HIV/AIDS, cần đặt
đối tượng vào hoàn cảnh cụ thể, giai đoạn khủng hoảng cụ thể, các giai đoạn
phát triển của bệnh cụ thể và sự phát triển của xã hội và tính nhân văn cao cả
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp luận này cũng đòi hỏi khi xem xét
khủng hoảng của đối tượng nhiễm HIV/AIDS phải nhìn đối tượng theo quan
điểm phát triển, tích cực, không nhìn vào mặt hạn chế, tiêu cực của đối tượng.
9.2 Phương pháp thu thập thông tin:
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu định tính
12
Mẫu nghiên cứu
Tổng số mẫu khách thể nghiên cứu là 32 người, cụ thể : 16 cán bộ,
nhân viên tại trung tâm và 16 đối tượng nhiễm HIV.
Phương pháp chọn mẫu
Chúng tôi chọn ngẫu nhiên : 16 cán bộ, 16 đối tượng nhiễm HIV.
- Tổ chức 02 buổi thảo luận nhóm, nhóm nhân viên chăm sóc và đối
tượng nhiễm H. Trong đó, nhóm cán bộ 6 người, nhóm đối tượng nhiễm H 6
người.
- Tổ chức 20 cuộc phỏng vấn sâu, cụ thể 10 đối tượng nhiễm H và 10
người chăm sóc (người quản lý và nhân viên trực tiếp chăm sóc) .
Những cán bộ và đối tượng tham gia thảo luận nhóm không thuộc
những người/không tham gia vào phỏng vấn sâu.
Thu thập thông tin
Phương pháp thu thập
* Phỏng vấn sâu
Đây là phương pháp chính để chúng tôi thu thập thông tin cho nghiên
cứu của mình.
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp này để phỏng vấn sâu 10 đối tượng
nhiễm HIV/AIDS và 10 cán bộ của trung tâm. Nhờ vào phương pháp này,
chúng tôi hiểu rõ hơn về các vấn đề mà đối tượng đang gặp phải và đối tượng
đương đầu, vượt qua khủng hoảng như thế nào. Cũng như thông qua phương
pháp này, chúng tôi biết được cách nhìn chủ quan của đối tượng đối với vấn
đề và cán bộ (NVXH ) đã làm gì và thể hiện vai trò như thế nào để hỗ trợ cho
đối tượng.
Chúng tôi đã xây dựng bảng hướng dẫn phỏng vấn sâu phù hợp với
từng đối tượng cán bộ và đối tượng nhiễm HIV/AIDS tại trung tâm. Hai bảng
hướng dẫn này đã được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và thực tế
13
nghiên cứu địa bàn và đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên
cứu. Vì vậy bảng hướng dẫn mang tính khái quát và khách quan, định tính về
vấn đề nghiên cứu.
Tổng số khách thể tham gia nghiên cứu phỏng vấn sâu là 20 người .
* Thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm là việc nhân viên xã hội đưa ra một vấn
đề có thể là thông qua một số câu hỏi hay nội dung gợi ý và yêu cầu các thành
viên nhóm thảo luận trong một khoảng thời gian nhất định. Phương pháp này
được sử dụng thường xuyên trong quá trình sinh hoạt nhóm nhằm thu hút mọi
người tham gia một cách chủ động vào việc chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay
để giải quyết một vấn đề đang được quan tâm.
Chúng tôi tiến hành 2 buổi thảo luận nhóm với các cán bộ và đối tượng
của trung tâm.
Đối tượng: tham gia thảo luận nhóm: cán bộ và đối tượng nhiễm
HIV/AIDS
Hình thức và thời gian: Tổ chức buổi thảo luận trong 30 - 60 phút.
Nội dung: Bàn luận về các vấn đề liên quan đến những sự kiện gây nên
khủng hoảng và cách thức mà đối tượng đã thực hiện để đương đầu với khủng
hoảng . Tùy theo chủ đề dự kiến trước hoặc có những vấn đề nảy sinh; nhưng ưu
tiên việc bàn về những vấn đề lo lắng các đối tượng gặp phải trong cuộc sống.
Cách thức thực hiện:
Bước 1: Nhân viên xã hội yêu cầu các thành viên chia theo nhóm nhỏ .
Mỗi nhóm có 6 thành viên.
Bước 2: Nhân viên xã hội đưa ra chủ đề thảo luận và những câu hỏi,
những vấn đề nhóm cần thảo luận làm rõ. Chủ đề và những câu hỏi thảo luận
đưa ra phải rõ ràng, ngắn gọn và đảm bảo tất cả các thành viên hiểu được.
14
Bước 3: Đưa ra những yêu cầu về thời gian thảo luận, địa điểm thảo
luận và phân công người trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Lưu ý là nhắc
nhở các thành viên thay phiên nhau trình bày các kết quả thảo luận. Không để
việc trình bày cho duy nhất một hay một vài thành thành viên trong nhóm mà
tất cả thành viên đều có nhiệm vụ trình bày . Trong quá trình các nhóm thảo
luận,nhân viên xã hội có thể đi đến các nhóm để giải thích cho các thành viên
những vấn đề họ chưa hiểu cặn kẽ.
Bước 4: Sau khi các nhóm đã hoàn thành phần thảo luận,nhân viên xã
hội yêu cầu các thành viên lên trình bày kết quả nhóm. Sau khi thành viên
nhóm đại diện trình bày xong, có thể đề nghị các thành viên khác trong nhóm
đó bổ xung ý kiến và hỏi ý kiến từ những thành viên của nhóm khác.
Bước 5: Phân tích, tóm lược những ý chính nhóm và các nhóm khác đã
trình bày và quan trọng là sử dụng những kết quả thảo luận này để phân tích
vấn đề đang cần giải quyết hoặc liên hệ nó với vấn đề đang giải quyết.
Nhân viên xã hội đã chuẩn bị chủ đề thảo luận rõ ràng, ngắn gọn. Quan
trọng hơn là sử dụng kết quả thảo luận-chính là những ý kiến của các thành
viên phục vụ cho hoạt động của nhóm.
Thông qua phương pháp này, chúng tôi thu được nhiều thông tin và
hiểu rõ hơn những khó khăn đặc biệt là vấn đề đương đầu và vượt qua khủng
hoảng trong các giai đoạn của đối tượng.
Ngoài ra, để thu thập được những thông tin khách quan, sâu sắc và có ý
nghĩa hơn nữa về vấn đề nghiên cứu chúng tôi còn sử dụng 01 buổi tọa đàm
để tìm hiểu về nội dung : Biểu hiện tâm lý và các yếu tố ảnh hưởng đến tâm
lý của đối tượng nhiễm HIV/AIDS. Đây là phương pháp bổ trợ để tăng lượng
thông tin về vấn đề nghiên cứu.
Công cụ thu thập thông tin
- Bảng hướng dẫn phỏng vấn phù hợp với từng đối tượng
15
- Sổ nhật ký cá nhân ghi chép lại những quan sát được trong quá trình
nghiên cứu.
- Đoạn phim, băng ghi âm ghi hình
Kiểm soát sai lệch thông tin
- Bảng hướng dẫn phỏng vấn sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, phù
hợp với tiếng địa phương và từng đối tượng nghiên cứu; và được tiến hành
thử nghiệm trước khi tiến hành nghiên cứu chính thức.
- Tập hợp trao đổi thông tin sau mỗi cuộc phỏng vấn.
Kỹ thuật phân tích thông tin
Các dữ liệu được tổng hợp dưới dạng văn bản từ sổ nhật ký quan sát;
bản ghi chú, máy ghi âm từ các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu. Sau
đó được mã hóa theo các mục tiêu nghiên cứu.
Cuối cùng được phân tích sâu và trình bày báo cáo kết quả bằng phần
mềm Microsoft Word.
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
- Chỉ tiến hành thu thập thông tin khi được sự đồng ý của đối tượng
nghiên cứu
- Đảm bảo quyền lợi của người cung cấp thông tin bao gồm thông báo
về mục đích và việc sử dụng kết quả nghiên cứu; đảm bảo tính bảo mật thông
tin cá nhân
- Đảm bảo đối tượng không bị tổn thương bởi các phương pháp nghiên
cứu hoặc bị thiệt hại bởi kết quả nghiên cứu
16
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
1.1 Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
Học thuyết, lý thuyết là sự đúc rút, tổng hợp các kinh nghiệm thực tiễn
và là cơ sở để người giúp đỡ/ nhà tham vấn phân tích, giải nghĩa, lập kế hoạch
can thiệp giúp đỡ.
Nếu một chuyên gia hỗ trợ không sử dụng kiến thức cũng như lý thuyết
đã được nghiên cứu mà chỉ dựa trên sự suy đoán, kinh nghiệm cá nhân hay
các ý kiến chưa được kiểm chứng, các giá trị, niềm tin của riêng cá nhân thì
họ sẽ không có được nền tảng thống nhất hay những chuẩn mực nhất định cho
triển khai hay theo dõi, giám sát cho quá trình giúp đỡ.
Để giúp đỡ có hiệu quả, người hỗ trợ cần có sự kết nối giữa lý thuyết
và thực hành, lý thuyết sẽ có ý nghĩa định hướng, làm cơ sở nền tàng cho việc
thực hiện quá trình giúp đỡ.
Các lý thuyết về Thân chủ là trọng tâm, lý thuyết nhận thức hành vi
và lý thuyết vai trò, lý thuyết can thiệp khủng hoảng, là cơ sở nền tảng
cho việc nghiên cứu, triển khai kế hoạch tham vấn, can thiệp và đưa ra
biện pháp hỗ trợ tốt nhất cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS .
1.1.1Lý thuyết tiếp cận thân chủ trọng tâm – Carl Roger
Đại biểu có ảnh hưởng nhiều nhất tới quan điểm Nhân văn – hiện sinh là
Carl Rogers (1902 - 1987). Ông là người sáng lập ra phương pháp tham vấn thân
chủ trọng tâm. Lúc đầu phương pháp này được gọi là “Liệu pháp thân chủ
trọng tâm” và sau đó được gọi là “phương pháp tham vấn tập trung vào cá
nhân”[7,98]
Nội dung
17
Rogers giả thuyết rằng mỗi người đều sở hữu những tiềm năng cho sự
lớn lên , tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh hướng tự
hiện thực hóa những tiềm năng của mình. Bởi vì mỗi cá nhân đều có nhu cầu
mạnh mẽ được người khác chấp nhận, coi trọng nên cá nhân có thể hành động
một cách không tự nhiên, không thực tế và phát triển những cảm giác sai lệch
về bản thân về những điều mình mong muốn.
Thân chủ được xem như là một chủ thể có hiểu biết , họ phải được hiểu
và được chấp nhận để nhà tham vấn có thể cung cấp những loại hình giúp đỡ
tốt hơn.
Phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân của ông không phải là
chữa trị cho thân chủ hoặc tìm kiếm những nguyên nhân từ quá khứ mà cái
chính là khuyến khích thân chủ tự hiện thực hóa những tiềm năng của bản
thân để phát triển tâm lý lành mạnh ở thân chủ.
Theo Carl Rogers mối tương giao hữu ích giữa nhà tham vấn và thân
chủ là mối tương giao xác định bằng một sự trong suốt về phân tôi, trong đó
các giác quan của tôi biểu hiện thật sự rõ ràng sự chấp nhận người khác như
một con người riêng biệt, có giá trị riêng và bằng một sự cảm thông sâu xa.
Nhiệm vụ của nhà tham vấn theo phương pháp tiếp cận này là tạo ra
một môi trường thuận lợi để giúp thân chủ gỡ bỏ “rào cản tâm lý” đang hạn
chế sự bày tỏ khuynh hướng tích cực vốn có và giúp thân chủ làm sáng tỏ và
chấp nhận tình cảm của riêng mình.
Phương pháp thân chủ trọng tâm đánh giá cao quá trình tập trung vào
mối quan hệ trị liệu hơn là tập trung vào kĩ thuật trị liệu. Với nhà trị liệu thì
thái độ đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ trị liệu. Bởi vì trị liệu thân
chủ trọng tâm nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ
cho nên thái độ của nhà trị liệu đóng vai trò chủ yếu . Chính vì vậy, lắng
nghe tích cực là một kĩ năng nền tảng trong phương pháp thân chủ là trọng
18
tâm. Nó đòi hỏi nhà tham vấn phải lắng nghe bằng tất cả các giác quan ,
bằng “trái tim”
Quan điểm tiếp cận của C.Rogers cho rằng con người có bản tính tốt ,
tích cực. Con người có khả năng tự lo liệu, tự giải quyết vấn đề của họ mà
không cần định hướng của người hỗ trợ. Mục đích của tiếp cận thân chủ
trọng tâm là giúp thân chủ trải nghiệm vấn đề của mình, biết chấp nhận bản
thân, tự tin, cởi mở, sẵn sàng đương đầu với những biến cố, sống thực với
bản chất bên trong của mình, tự giải quyết vấn đề của mình.
Khái niệm chủ đạo trong tiếp cận thân chủ trọng tâm là: mỗi người đều
có thể định hướng được cuộc sống của chính mình. Các thân chủ đều có khả
năng giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống một cách hiệu quả.
Cách tiếp cận này tập trung chủ yếu vào những trải nghiệm hiện tại của thân
chủ và quyết định cách thức giải quyết vấn đề hiệu quả.
Điều quan trọng trong khi nhà tham vấn sử dụng phương pháp này sự
trung thực, tôn trọng và chấp nhận vô điều kiện , cảm thông trọn vẹn, chính
xác với thân chủ. Khi thân chủ cảm thấy có người hiểu mình, thông cảm, chia
sẻ trọn vẹn với mình thì sẽ bộc lộ, giãi bày dễ dàng, thẳng thắn. Do vậy, cần
tạo ra môi trường, mối quan hệ hỗ trợ, khích lệ không phê phán, trong đó
thân chủ cảm thấy thoải mái, từ đó có thể bộc lộ những điều riêng tư của
mình kể cả những điều mà xã hội lến án. Trên cơ sở đó nhà tham vấn mới
hiểu được trọn vẹn thân chủ và từ đó có nhiều cơ hội hơn để giúp thân chủ
trưởng thành hơn và tự giải quyết vấn đề của chính mình
Rogers tin rằng thân chủ có thể tìm ra giải pháp của riêng mình. Do đó,
trong khi tham vấn cho thân chủ ông hoàn toàn không chi phối quyết định của
thân chủ. Theo ông, chính mối quan hệ giữa nhà tham vấn – thân chủ đã giúp
thân chủ tự giải quyết vấn đề của chính mình. Chỉ khi nào nhà tham vấn có
được sự chấp nhận, tôn trọng vô điều kiện những giá trị tự tại, riêng biệt của
19
thân chủ, bất kể địa vị, hành vi , nhà tham vấn chân thực trong mối quan hệ
tương giao với thân chủ và thấu hiểu thân chủ (trải nghiệm vấn đề như thân
chủ đang trải nghiệm, nhìn vấn đề như họ nhìn ) Chỉ khi đó thì nhà tham vấn
mới có thể hỗ trợ thân chủ vững tin ở bản thân, thân chủ mới có thể đương
đầu với những vấn đề của mình một cách hiệu quả, thích đáng.
Ứng dụng
Việc ứng dụng cách tiếp cận thân chủ trọng tâm trong tham vấn nhấn
mạnh đến sự thấu hiểu những vấn đề bên trong khách hàng thông qua những
điều khách hàng biểu hiện ra bên ngoài.
Mục đích của phương pháp thân chủ trọng tâm không phải là chữa trị cho
thân chủ hoặc tìm kiếm nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính là khuyến khích ở
thân chủ tự hiện thực hóa những tiềm năng của bản thân, tự tin, cở mở và đương
đầu với những biến cố, khủng hoảng của bản thântạo điều kiện dễ dàng cho sự
phát triển tâm lý lành mạnh từ đó tự giải quyết vấn đề của mình.
Tiếp cận thân chủ trọng tâm ứng dụng trong các tình huống giao tiếp xã
hội, trong trị liệu và trong đào tạo lấy học sinh là trung tâm, trong quan hệ cha
mẹ - con cái, thích hợp trong tham vấn khủng hoảng, ứng dụng với nhiều
khách hàng thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau.
Trong nghiên cứu này, lý thuyết thân chủ là trọng tâm được ứng dụng
trong quá trình tham vấn cho đối tượng và nhà tham vấn theo phương pháp
tiếp cận này là giúp thân chủ gỡ bỏ rào cản tâm lý đang hạn chế sự bày tỏ
khuynh hướng tích cực vốn có và giúp thân chủ làm sáng tỏ, hiểu rõ bản thân
và chấp nhận bản thân. Đồng thời việc ứng dụng lý thuyết vào trong quá trình
tham vấn cho đối tượng nhiễm HIV/AIDS đương đầu và vượt qua khủng
hoảng đặc biệt trong những giai đoạn của khủng hoảng.
1.1.2 Lý thuyết nhận thức – hành vi
Nội dung
20
Từ những năm 1960, các tác giả như Albert Ellis đặt tiền đế mô hình trị
liệu xúc cảm hợp lý ( Rational Emotive Behaviour Therapy – REBT), Aaron
Beck phát triển liệu pháp nhận thức , Maxie C. Maultsby phát triển liệu pháp
hành vi. Năm 1990 tên gọi liệu pháp nhận thức hành vi bắt đầu được sử
dụng. Sự phát triển của mô hình tiếp cận nhận thức – hành vi đã đưa tham
vấn cũng như trị liệu nhận thức hành vi trở nên phổ biến trên thế giới.
Lý thuyết nhận thức – hành vi quan niệm rằng, con người không phải là
sinh vật thụ động bị kiểm soát chặt chẽ của môi trường. Các cách thức con
người hành động đều xuất phát từ sự hiểu biết và nhận thức của họ. Nếu sự
nhận thức dựa trên các quan điểm hay niềm tin phi lý nó thường gây ra các
hỗn loạn cảm xúc và ứng xử không thích ứng.
Có thể diễn giải quan điểm của cách tiếp cận nhận thức – hành vi như
sau: Suy nghĩ, cảm xúc và hành vi liên quan mật thiết với nhau. Suy nghĩ,
nhận thức quyết định sự biểu hiện của cảm xúc và hành vi. Những rối loạn
cảm xúc có thể xuất hiện do những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực. Nếu thay đổi
những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực sẽ giúp cá nhân cải thiện được những rối
loạn cảm xúc của mình.
Phương pháp sử dụng trong lý thuyết nhận thức hành vi đó là sử dụng
Kĩ thuật REBT (cảm xúc hợp lý ), đây là kĩ thuật mang tính hướng dẫn cao,
có sự thuyết phục và chấp nhận đương đầu của thân chủ nhằm thay đổi nhận
thức, cảm xúc, hành vi. Kĩ thuật này được thiết kế để xác định và kiểm tra
nhận định sai lệch của thân chủ, từ đó đi đến điều chỉnh những suy nghĩ và
niềm tin không hợp lý này.
Ứng dụng
Nhà tham vấn hỗ trợ thân chủ trong việc phân tích tình huống phải đối
đầu, vạch ra những điều bất hợp lý trong nhận thức để đi đến thay đổi chúng,
giúp thân chủ thích nghi hơn với hoàn cảnh.
21
Cách tiếp cận theo lý thuyết này này yêu cầu thân chủ phải có khả năng
nhận thức cần thiết và sẵn sàng đầu tư thời gian cần thiết để giám sát và phân
tích các cách thức mà mình tư duy đồng thời thực hành các kỹ thuật phù hợp
để thay đổi những thói quen cố hữu trong suy nghĩ của mình. Thuyết nhận
thức - hành vi đặc biệt hữu hiệu đối với các vấn đề về suy giảm lòng tự trọng
và những suy nghĩ về việc tự chuốc lấy những thất bại. Ứng dụng trong thực
hành của lý thuyết này kết hợp những khái niệm được lựa chọn từ lý thuyết
học hỏi và áp dụng phân tích hành vi với những thuyết khác rút ra từ việc
nghiên cứu quá trình nhận thức. Ví dụ, làm thế nào mọi người tư duy và thông
tin về quá trình đó). Nó cũng đồng thời trọng tâm vào sự ảnh hưởng lẫn nhau
giữa những nhận thức (tư duy), cảm xúc và hành vi. Những hành vi có vấn đề
và những đau khổ cá nhân thường được bắt nguồn từ những suy nghĩ cứng
nhắc, không hợp lý và không hoàn hảo cũng như từ những niềm tin không
thực tế, không được tìm thấy về cách thức mà chúng nên tồn tại (theo sự
mong đợi của cá nhân).
Trong suốt quá trình trị liệu nhận thức - hành vi, thân chủ được hỗ trợ
nhận biết, giám sát, kiểm tra, và thay đổi những hình mẫu suy nghĩ đó và
những giả định khiếm khuyết mang tới sự gia tăng của vấn đề. Thân chủ cũng
được dạy những kỹ năng đặc thù và thủ tục để nhận biết nội hàm và tương tác
trong suy nghĩ của họ, đánh giá tính đúng đắn trong nhận thức của mình cùng
với những giả định và cách xem xét các sự kiện cũng như các trạng thái qua
quan sát kỹ tường tận hơn.
Việc ứng dụng lý thuyết trong tham vấn cho đối tượng nhiễm HI/AIDS
đương đầu và vượt qua khủng hoảng. Đối tượng đang trong giai đoạn khủng hoảng,
nhà tham vấn áp dụng lý thuyết để hỗ trợ cho đối tượng thay đổi hành vi từ đó thay
đổi nhận thức, chấp nhận thực tế và vươn lên trong chính hoàn cảnh của mình.
1.1.3 Lý thuyết vai trò
Nội dung
22
Đây là một trong những lý thuyết cơ bản được sử dụng trong nghiên cứu
xã hội học và có ứng dụng mạnh mẽ trong thực hành CTXH.
Lý thuyết vai trò cho rằng một cá nhân trong xã hội có một vị trí nhất định
và từ đó có một vai trò nhất định gắn với vị trí đó. Sự tương tác giữa các
nhóm và giữa các cá nhân bao gồm cả sự tương tác giữa các vi trí, giữa các
vai trò này. Mỗi người có một khoảng cho cá nhân của mình, khoảng này gắn
với vị trí, với vai trò và có những tương tác với nhau để dẫn đến bản sắc xã
hội nhất định. Trong tương tác này, mỗi người có một kết cấu cá nhân, mỗi
người có ý tưởng riêng của mình về một sự vật, sự kiện nhất định và họ trao
đổi nhau, tương tác với nhau từ những kết cấu này.
Ứng dụng
Lý thuyết vai trò có ý nghĩa lớn trong thực hành CTXH bởi lẽ đó là lý
thuyết về tương tác của với những người khác; đồng thời sự mong đợi của
những người khác về cũng như phản ứng của họ đối với ảnh hưởng đến
phương thức đáp ứng của con người. Có hai lý thuyết về vai trò: (1) Lý
thuyết cấu trúc chức năng, và (2) Lý thuyết vai tuồng (trò đời).
Lý thuyết cấu trúc chức năng cho rằng mỗi người có một vị trí trong
cấu trúc xã hội. Mỗi vị trí trong cấu trúc đều có một vai trò gắn với nó. Do
đó, vai trò được định nghĩa là một tập hợp các mong đợi hoặc hành vi gắn
với một vị trí trong cấu trúc xã hội. Tùy theo cách nhìn nhận về vai trò của
như thế nào mà có thể quản lý sự thay đổi.
Lý thuyết về trò đời coi vai trò là hành động đối với sự mong đợi của
xã hội về một trạng thái xã hội nhất định. Trong thực hành CTXH dựa trên
lý thuyết vai trò, người ta có thể tiến hành 6 bước như sau:
1.Xác định yêu cầu mà những vai trò mới có thể tạo ra
2.Định nghĩa các vai trò (những người khác tham gia vào và vai trò của họ là gì)