Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn quan điểm của đảng cộng sản việt nam về sự thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.83 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU THÙY

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ SỰTHỐNG NHẤT VÀ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN TUẤN PHONG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ THU THÙY




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LỰC VÀ QUYỀN LỰCNHÀ NƢỚC ... 8
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực nhà nước ....................... 8
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước ........................ 27
Chƣơng 2: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN
LỰC NHÀ NƢỚC VÀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC..... 37
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền lực nhà nước ................... 37
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguyên tắc tổ chức quyền lực
nhà nước .................................................................................................................... 41
2.3. Định hướng và giải pháp chủ yếu tăng cường tính thống nhất và kiểm soát
quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay ..................................................................................................................... 63
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, việc tổ chức bộ máy nhà
nước theo hướng đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là một
điều hết sức cần thiết. Đặc biệt là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hệ
thống chính trị của nước ta ngày càng được củng cố, hoàn thiện, đáp ứng nhiệm vụ xây
dựng đất nước trong thời kỳ mới. Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân.
Hiện nay, việc kiến tạo bộ máy quyền lực Nhà nước phải được quán triệt một
quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà
nước cần có nhận thức đúng và đầy đủ rằng ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tồn
tại trong một thực thể thống nhất. Phải thấy được tính thống nhất và tập trung của
quyền lực nhà nước được quy định bởi nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân là cội nguồn
của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất, tức là quyền lực nhà nước
tập trung, thống nhất ở nhân dân, thống nhất ở nguồn gốc, bản chất, thống nhất ở một
mục tiêu chính trị chung là phục vụ nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng giàu
mạnh. Thống nhất quyền lực nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước trên
tinh thần đề cao trách nhiệm của nhà nước trước toàn thể nhân dân.
Do vậy, việc phân định quyền lực nhà nước không bao gồm việc phân lập mục
tiêu chính trị chung của quyền lực nhà nước. Thực chất sự phân công thành lập pháp,
hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công lao động, chuyên môn hóa việc thực thi quyền
lực nhà nước. Việc phân công này xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối liên hệ và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước,
hạn chế sự chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lắp giữa các cơ quan nhà nước; để Nhà nước

1


hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là
quyền của nhân dân, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai

cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp” [49, tr.196].
Xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước, đồng thời
là cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước. Mục đích của việc phân công quyền lực nhà
nước là nhằm để kiểm soát quyền lực nhà nước. “Kiểm soát” là một vấn đề còn rất mới ở
nước ta. Từ yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước vào
thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta.
Thực tiễn lịch sử cho thấy các chủ thể nắm quyền lực thường có xu hướng lạm
quyền, sử dụng quyền lực được trao để mưu tính những lợi ích cá nhân. Và quyền lực
nhà nước luôn có xu hướng bị tha hóa, dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, xâm phậm
quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong tổ
chức nhà nước là phải thiết lập được các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước để
chống chuyên quyền, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân không bị vi phạm. Do vậy,
kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong tổ chức bộ máy
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Để đảm bảo cho quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, tập trung thống nhất ở nhân dân và để tổ chức bộ máy nhà nước vận hành
hiệu quả cũng như hoạt động hoạch định chính sách và thực thi chính sách của nhà
nước được dân chủ và hợp pháp. Tất yếu phải tiến hành kiểm soát quyền lực nhà nước
để hạn chế tới mức tối đa sự tha hóa của quyền lực trên thực tế, bảo vệ lợi ích chung
của nhân dân, của toàn dân tộc. Đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng có
mục đích và thực thi có hiệu quả. Góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới hệ thống
chính trị đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

2


Kiểm soát quyền lực nhà nước luôn là một vấn đề nan giải và phức tạp cả về lý

thuyết lẫn thực tế. Mặc dù trên lý thuyết, tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân đã được thừa nhận phổ biến từ khá lâu, song trên thực tế cho đến nay, nhân dân
vẫn chưa phải là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước, chưa có khả năng kiểm soát
được quyền lực mà mình ủy thác cho nhà nước. Trong tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước đã được quan
tâm nhưng lại đặt nặng kiểm soát bằng đạo đức. Điều này xuất phát từ truyền thống
lịch sử của nhà nước ta trọng về đức trị. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam thì Đảng ta luôn coi trọng và đề cao sự tự kiểm soát của Đảng thông qua
mỗi đảng viên và các tổ chức đảng.
Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như:
kiểm soát quyền lực nhà nước bằng đạo đức tức là sự tự kiểm soát của các cá nhân
nắm giữ quyền lực; kiểm soát bằng thể chế ngay trong nội bộ nhà nước; kiểm soát
bằng thể chế ngoài nhà nước…
Nhất là trong tình hình hiện nay, quyền lực của nhân dân mà trực tiếp là quyền
lực nhà nước đang bị vi phạm ở nhiều nơi, trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy, kiểm soát
quyền lực nhà nước không chỉ là một nguyên tắc tổ chức và thực thi quyền lực nhà
nước mà còn là yêu cầu bức xúc ở nước ta hiện nay.
Vì thế, nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và thực thi quyền lực nhà
nước mà trung tâm là lý luận “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự thống
nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Nó không những đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ hội nhập và toàn cầu
hóa, mà còn là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong
điều kiện hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói vấn đề quyền lực, việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở các
nước phương Tây đã được đề cập từ khá rõ ràng trên lý thuyết cũng như trên thực tế
của nền chính trị phương Tây. Tuy nhiên, ở nước ta việc tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó có vấn đề về sự thống nhất và kiểm soát quyền
lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vấn đề còn rất


3


mới. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về quyền lực nhà nước và
kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều.
Đã có một số đề tài luận văn, luận án đề cập đến từng vấn đề cụ thể của quyền
lực như: Luận văn thạc sỹ của Lê Thị Thanh Nhàn (2007), Phân công, phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước theo Hiến pháp của
Việt Nam hiện hành, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã đưa ra những
cơ sở lý luận về sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực trạng, phương hướng, giải pháp cho vấn đề
phân công, phối hợp.
Luận án tiến sỹ của Phạm Mạnh Hùng (2003), Quyền giám sát của Quốc hội đối
với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật
Hà Nội. Đi sâu vào phân tích chức năng giám sát của Quốc hội đối với Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân.
Nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà
nước. Ông cũng đề cập đến một số phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước dưới góc
độ khoa học pháp lý. Từ sự cần thiết phải hạn chế quyền lực nhà nước thì ông đề cập đến
những biện pháp hạn chế quyền lực bằng hiến pháp, cơ chế “kiềm chế - đối trọng”, xây
dựng nhà nước pháp quyền và sự giám sát từ xã hội. Tuy nhiên, ông chưa làm rõ được
nguyên nhân, động lực và các quan hệ đằng sau những quy định pháp lý, những thể chế
kiểm soát quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa các biện pháp kiểm soát.
Nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước một cách cụ thể thì phải kể đến
nghiên cứu của GS.TSKH Đào Trí Úc – PGS.TS Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên)
(2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện
nay. Trên cơ sở xác định quan niệm về giám sát quyền lực nhà nước, công trình đã
triển khai nghiên cứu trên hai phương diện đó là giám sát mang tính quyền lực và giám
sát của nhân dân. Đồng thời chỉ rõ vai trò giám sát của Quốc hội, Thanh tra nhà nước,

Viện kiểm sát nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể từ vị trí, thẩm quyền đến hoạt động
của nó trên thực tế. Qua đó rút ra được những hạn chế của các quy định pháp lý và
những bất cập trong hoạt động thực tiễn của chúng.
Bên cạnh đó, luận án Tiến sĩ khoa học của Trịnh Thị Xuyến (2007) cũng nghiên
cứu khá rõ ràng về kiểm soát quyền lực nhà nước “Kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam hiện nay – Vấn đề và giải pháp”. Luận án làm rõ được khái niệm, nội dung,

4


mục đích, các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước; thực trạng kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì
Đảng ta kiểm soát quyền lực nhà nước như thế nào để giữa ý đảng và lòng dân không
có sự khác biệt. Qua đó đề ra những phương hướng và giải pháp kiểm soát quyền lực
nhà nước để nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân luôn được quán triệt và
nhất quán trong Hiến pháp và trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Sách chuyên khảo của Lê Minh Quân và Bùi Việt Hương (đồng chủ biên) “Về
quyền lực trong quản lý nhà nước hiện nay” đã trình bày những cách tiếp cận cơ bản
và truyền thống đối với quyền lực và quyền lực nhà nước; những phát triển mới của
thế giới và ảnh hưởng đối với cách tiếp cận quyền lực nhà nước hiện nay; những thay
đổi trong cách tiếp cận, quan điểm và phương thức tổ chức, thực thi quyền lực nhà
nước hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây đã gợi mở, cung cấp thông tin,
phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề và là tài liệu tham khảo trong nhiều nội
dung của luận văn. Tuy nhiên, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận văn cho thấy vấn đề về quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự thống nhất
và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam vẫn còn những khoảng trống về lý luận
chưa được đề cập đầy đủ, toàn diện. Chẳng hạn như cơ sở và nội dung quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về sự thống nhất và kiểm soát quyền lực chưa được nghiên
cứu đầy đủ và toàn diện.

Đề tài “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự thống nhất và kiểm soát
quyền lực nhà nước” tập trung đi sâu vào nghiên cứu về cơ sở lý luận quyền lực,
quyền lực nhà nước; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, mà trung tâm là nguyên
tắc thống nhất của quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ thực tiễn
tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay thì đưa ra các định hướng cũng như các
giải pháp để tăng cường tính thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước, trong điều
kiện đất nước đang hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những nền tảng lý luận cơ bản về quyền lực, quyền lực
nhà nước, luận văn đi sâu vào phân tích những nội dung cơ bản trong quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về sự thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước, qua đó
đề xuất những định hướng và giải pháp tăng cường tính thống nhất và kiểm soát quyền
lực nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Trình bày một cách hệ thống các quan điểm cơ bản của các nhà lý luận trước
Mác, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực và quyền lực nhà
nước.
Phân tích những nội dung cơ bản trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về sự thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
Đề xuất những định hướng và giải pháp tăng cường tính thống nhất và kiểm soát

quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam quyền lực nhà nước; nội dung quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về sự thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn có nội dung nghiên cứu rộng và hiện nay được tiếp cận từ mục
đích cũng như góc độ, phương diện khác nhau. Trong khuôn khổ khoa học triết học và
trong phạm vi của luận văn thạc sĩ triết học, luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở và nội
dung của quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự thống nhất và kiểm soát
quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

6


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật. Ngoài ra luận văn kế thừa có chọn lọc những quan điểm phù
hợp của các công trình nghiên cứu tiêu biểu về quyền lực nhà nước và xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác Lênin; và các phương pháp: phương pháp thu thập, tìm kiếm tài liệu; hệ
thống, liên ngành; phân tích và tổng hợp; kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp
lịch sử… để làm rõ hơn các vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề
lý luận về sự thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước; nâng cao nhận thức về tính
tất yếu của sự thống nhất và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần vào việc hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà ở Việt Nam trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy về Triết học,
Chính trị học, Nhà nước và pháp luật, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền lực và quyền lực nhà nước.
Chương 2: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền lực nhà nước và
nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LỰC VÀ QUYỀN LỰCNHÀ NƢỚC
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm quyền lực, quyền lực công, quyền lực chính trị và quyền lực
nhà nước
Quyền lực ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của
xã hội loài người. Nói cách khác thì quyền lực là một quan hệ xã hội, có tính phổ
quát,nó chi phối mọi thành viên trong xã hội, không ai có thể đứng ngoài quan hệ
quyền lực, nếu không tham gia một quan hệ quyền lực ở nơi này, lúc này thì sẽ tham
gia quyền lực khác, lúc khác.

Và quyền lực cũng là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa trong lịch sử phát
triển của loài người nhưng cho đến nay vẫn được quan tâm nghiên cứu rất nhiều.Có
thể thấy rằng quyền lực có mặt ở trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Theo nghĩa
chung nhất thì quyền lực được hiểu là khả năng tác động, khả năng chi phối của một
chủ thể đối với một đối tượng nhất định hoặc một nhóm đối tượng nhất định, buộc
hành vi của các đối tượng này phải tuân thủ, phụ thuộc vào ý chí của chủ thể đó.
Trong việc tổ chức đời sống cộng đồng và xã hội của con người quyền lực được
tiếp cận không chỉ ở góc độ cá nhân mà còn từ góc độ xã hội, quyền lực gắn liền với
việc tổ chức đời sống xã hội. Việc điều hành xã hội thể hiện qua việc con người tín
nhiệm và trao quyền/ủy thác của mình cho một nhóm người khác thay mình quản trị
đời sống xã hội, đời sống cộng đồng. Trong triết học chính trị quyền lực vì thế thường
được phân chia thành quyền lực công cộng, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Quyền lực công
Trước hết quyền lực công là quyền lực mà nhờ đó một cộng đồng có thể phối
hợp với nhau, duy trì trật tự chung, điều hành mọi hoạt động chung, bảo vệ cộng đồng
khỏi sự xâm hại từ bên ngoài. Mặt khác, sự phát sinh ra quan hệ quyền lực là do yêu
cầu tạo dựng sức mạnh để vượt qua những hiểm nguy của đời sống cộng đồng. Quyền
lực công trở nên tất yếu, thậm chí trở nên độc đoán khi cần thiết. Quyền lực công là
quyền lực của các thành viên xã hội góp một phần quyền của mình mà tạo nên khi
tham gia vào đời sống cộng đồng. Quyền lực công trở thành ý chí chung mà mọi người
phải tuân thủ, phục tùng và nó là điều kiện đảm bảo an sinh cho xã hội và tự do cho

8


mọi người. Nó là yêu cầu tất yếu khách quan của bất kỳ cộng đồng xã hội nào. Trong
cộng đồng thị tộc thì quyền lực công cộng được thiết lập dựa trên tinh thần, trách
nhiệm, bổn phận phải bảo vệ, giúp đỡ lẫn nhau của tất cả mọi thành viên trong thị tộc
đó. Quyền lực này giao cho một hội đồng, với tư cách là quyền lực tối cao trong toàn
bộ thị tộc. Để đảm bảo an toàn cho mình, mỗi cá nhân đều phải dựa vào sự bảo hộ của

thị tộc, ai xúc phạm đến một cá nhân trong thị tộc là xúc phạm đến toàn thể thị tộc đó.
Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế thấp kém chưa có sự phân hóa giai cấp, cho
nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng, tù trưởng, thủ
lĩnh quân sự (những người không hề có đặc quyền, đặc lợi cùng chung sống, lao động
và hưởng thụ như mọi thành viên khác) do những hội đồng thị tộc bầu, bãi miễn.
Quyền lực công của thị tộc là quyền lực của xã hội, thuộc về toàn thể cộng đồng thị
tộc, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng.
Như vậy, quyền lực công ở đây là quyền lực chung cho cả cộng đồng, xã hội. Để
thực thi quyền lực, không có bộ máy chuyên môn mà dựa trên sức mạnh của Hội đồng
thị tộc – cơ quan quyền lực cao nhất của thị tộc. Hội đồng thị tộc có quyền rất lớn, vì
nó bảo vệ và đại diện cho quyền lực của nhân dân trong toàn thị tộc. Hội đồng thị tộc
được bầu ra do toàn thể các thành viên thanh niên, trai gái, tất cả mọi người có quyền
bầu cử như nhau. Quyền lực của thị tộc thuộc về những người lớn tuổi đứng đầu có uy
tín và đạo đức, có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của thị tộc. Như vậy, ngay
trong xã hội thị tộc, nhân dân đã được thực thi quyền lực của mình thông qua việc bầu
ra những đại diện xứng đáng trong hội đồngthị tộc và việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội được thực hiện bằng những quy tắc chung và những tập quán cộng đồng. Trong tay
họ không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.
Quyền lực chính trị
Khi xã hội nguyên thủy tan rã và ra đời xã hội chiếm hữu nô lệ và đặc biệt là khi
xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấpthì bên
cạnh quyền lực công, xuất hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Quyền lực
chính trị là loại quyền lực của một giai cấp, liên minh giai cấp hoặc đảng phái trong việc
thực hiện ý chí của mình trong chính trị và các chuẩn mực pháp quyền nhờ đó mà lợi ích
của giai cấp, các liên minh giai cấp, đảng phải được hiện thực hóa trong cuộc sống.
Quyền lực chính trị chỉ hình thành trong xã hội có giai cấp và nhà nước.Trong xã
hội có sự phân chia về giai cấp thì mỗi một giai cấp đều có những lợi ích riêng, ý chí

9



riêng và thực hiện những phương thức khác nhau để đạt quyền lực. Quyền lực chính trị
như một sức mạnh của những nhóm người khác nhau về địa vị, lợi ích trong phân công
lao động hay trong đời sống xã hội.
Như vậy, quyền lực chính trị là quyền lực của các giai cấp, các nhóm xã hội, các
lực lượng xã hội dùng để chi phối, tác động đến quá trình tổ chức và thực thi quyền
lực nhà nước nhằm tối đa hóa lợi ích của mình [15, tr.34]. Cho nên nguồn gốc hình
thành của quyền lực chính trị cũng khác nhau bởi vì vị trí, vai trò của các giai cấp, các
lực lượng trong xã hội là khác nhau.Trong xã hội không còn giai cấp nữa thì cũng
không còn quyền lực chính trị. Tùy vào điều kiện khách quan, sự phát triển của kinh tế
- xã hội mà vị trí, vai trò của giai cấp đó có thể thay đổi, địa vị thống trị của giai cấp
này có thể chuyển vào tay của giai cấp khác. Sự thay đổi đó phụ thuộc vào sự thay đổi
của các phương thức sản xuất. Các giai cấp này dùng những cách thức, biện pháp khác
nhau để giành, giữ, thực thi quyền lực trong xã hội. Tùy điều kiện kinh tế văn hóa
chính trị của từng quốc gia mà quyền lực chính trị cũng khác nhau. Như quyền lực
chính trị của cùng một giai cấp ở các nước khác nhau cũng khác nhau, quyền lực chính
trị của cùng một giai cấp nhưng ở mỗi thời điểm khác nhau cũng không giống nhau.
Do đó giữa các nhóm này không chỉ có mâu thuẫn mà đôi khi còn đấu tranh gay gắt
với nhau về lợi ích, về sử dụng quyền lực chính trị của mình. Sự khác nhau đó bị chi
phối bởi năng lực chủ quan của chủ thể quyền lực, tức khả năng sử dụng những giá trị
xã hội, những nguồn lực, sự tổ chức lực lượng cả về vật chất lẫn tinh thần…. Nếu
không có năng lực này thì vị trí, vai trò của một giai cấp, một nhóm xã hội, một lực
lượng xã hội thì cho dù thuận lợi về mặt lịch sử cũng chỉ là mãi là nguồn lực, không
thể trở thành giai cấp thống trị xã hội được. Quyền lực chính trị tất yếu thuộc về giai
cấp, tầng lớp xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội, đại biểu
cho xu hướng tiến bộ của sản xuất và do đó đại biểu cho lợi ích chung của xã hội.
Quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước chứa đựng những đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị.
Quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành
nhà nước. Giai cấp thống trị nắm quyền lực nhà nước thường là giai cấp của những

người giàu có, thống trị về kinh tế, nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản của xã
hội. Nhờ có nhà nước, giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do
đó, có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Giai cấp này

10


ngày càng giàu có và lớn mạnh, ngày càng có quyền thế trong cộng đồng, họ thâu tóm
quyền lực chung và họ dùng quyền lực công cộng như cảnh sát, tòa án phục vụ cho
quyền lợi của họ. Còn giai cấp nào không nắm được quyền lực nhà nước thì giai cấp
đó không thể hiện thực hóa được quyền lực chính trị của giai cấp mình.
Trước đây, những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc thực hiện chức năng quản lý của
mình bằng sức mạnh truyền thống, đạo đức, uy tín, thì giờ đây những người đại diện
cho nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp
luật. Và họ dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trên thực tế,
mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ xã hội mà ra, nhưng chúng ngày càng
thoát khỏi nhân dân, đối lập với nhân dân.
Trước khi nhà nước ra đời, quyền lực hình thành trong xã hội là quyền lực công
có nguồn gốc từ nhân dân. Quyền lực công đó là quyền lực của mỗi người dân nhượng
lại cho cộng đồng để đảm bảo an ninh và an sinh cho mỗi cá nhân cũng như cho toàn
xã hội [15, tr.38]. Nhưng từ khi xã hội có sự phân chia giai cấp, mâu thuẫn đối kháng
giai cấp ngày càng gay gắt, nhà nước xuất hiện là phương tiện để giải quyết mâu thuẫn
giai cấp, không dẫn đến chỗ các giai cấp tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội.
Lúc này quyền lực công chuyển thành quyền lực nhà nước, cho nên quyền lực nhà
nước phải thuộc về người chủ đích thực của nó là đông đảo quần chúng nhân dân. Và
giai cấp nào nắm địa vị thống trị về kinh tế sẽ nắm giữ quyền lực nhà nước để phục vụ
lợi ích của giai cấp, đồng thời cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định lợi ích của các
cá nhân, của cộng đồng và xã hội.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực nhà nước là sự tiếp thu có
phê phán các quan niệm về quyền lực nhà nước của một số nhà tư tưởng trong lịch sử

triết học phương Tây. Chính vì vậy, trước khi bàn vấn đề quyền lực nhà nước trong
triết học Mác – Lênin chúng ta cần tìm hiểu một vài quan niệm của các nhà tư tưởng
trong lịch sử nói về vấn đề này.
1.1.2. Các quan niệm về quyền lực của các nhà tư tưởng trước Mác
Platon (428 – 347 TCN), là nhà triết học Hy Lạp cổ đại đầu tiên trình bày một
cách có hệ thống về quyền lực. Platon quan niệm quyền lực là cái mà người có nó có
khả năng buộc người khác hành động theo ý chí của mình. Theo ông, trong xã hội có
bảy loại quyền lực: quyền lực gia đình, giữa người già với người trẻ, quyền lực giữa
tầng lớp quý tộc đối với tầng lớp dưới, giữa chủ nô và nô lệ, giữa người mạnh và kẻ

11


yếu (mà theo ông thì quyền lực này không được chấp nhận); thần quyền – quyền lực
của Chúa và cuối cùng mạnh nhất là quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là quyền lực những người thông thái dẫn dắt, ra lệnh cho
người khác đi theo và chấp hành. Nhà nước xuất hiện là do nhu cầu của con người, nên
quyền lực nhà nước phải nằm trong tay những nhà thông thái (những nhà triết học),
những người đại diện cho trí tuệ của cộng đồng, những người có khả năng biết sắp đặt
cuộc sống theo một cách thức có lợi nhất, nhằm khuyến khích các phẩm chất riêng biệt
của các cá nhân như trí tuệ, thông thái, ôn hòa…, đảm bảo cho mọi cá nhân sẽ hành
động theo đúng chức năng của họ. Và luật pháp đưa các vĩ nhân vào bộ máy quyền lực
không phải để dành cho họ đặc quyền muốn đi đâu và làm những gì tùy thích, mà để
sử dụng họ cho công cuộc kiến thiết nhà nước. Mục tiêu của quyền lực nhà nước là
nhằm duy trì bình đẳng và công lý, thực hiện lợi ích của các cá nhân cũng như tạo nên
sự phát triển chung cho toàn xã hội.
Quan niệm về quyền lực của Platon đã được tiếp nhận và phát triển một cách có
phê phán bởi học trò nổi tiếng của ông là Aristotle (384 – 322 TCN). Aristotle là người
có kiến thức uyên thâm trong nhiều lĩnh vực nhất là lĩnh vực về chính trị.Về nguồn
gốc của quyền lực được ông phân tích thấu đáo hơn.

Do tự nhiên con người có khuynh hướng liên kết lại với nhau sống thành cộng
đồng chính trị. Và chỉ trong một cộng đồng chính trị con người mới có điều kiện để
phát triển cái bản chất cố hữu của mình. Từ các cá nhân tạo nên gia đình, gia đình tạo
thành lành xã, cộng đồng tạo thành nhà nước. Như vậy, nhà nước hình thành là một
quá trình lịch sử tự nhiên. Như Aristotle đã nói trong tác phẩm Chính trị luận: “Mỗi
một nhà nước là một hình thức quần tụ nào đó của con người – một cộng đồng và mỗi
cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó; vì hoạt động của con người
luôn luôn nhằm đặt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng nếu tất cả cộng đồng đều nhắm
đến một cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị – cộng đồng cao nhất và bao
trùm tất cả các cộng đồng – phải nhắm tới cái tốt cao cả hơn mọi cái tốt khác và phải
là cái tốt ở mức độ cao nhất” [1, tr.42]. Nguồn gốc của quyền lực chính trị bắt nguồn
từ khuynh hướng sống thành một cộng đồng người. Trong cộng đồng người đó thì
quyền lực thuộc về những người khôn ngoan, trí tuệ, mà phẩm chất và hành động ra
lệnh của người đó dựa trên các quy luật hợp lý nên được những người khác tuân thủ
theo. Và những người khôn ngoan, có trí tuệ hơn người sẽ trở thành người nắm quyền

12


cai trị, còn những người kém hơn sẽ trở thành nô lệ. Và quyền lực được nhà cai trị sử
dụng cho các thành bang là quyền lực chính trị, làm cho cuộc sống của các cộng đồng,
xã hội ngày một tốt hơn, người dân sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn.
Ông được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho sự phân chia quyền lực giữa
các giai cấp trong xã hội. Ông chỉ ra rằng Nhà nước bao gồm các bộ phận thực thi
công việc khác nhau như: thứ nhất là bộ phận tư vấn pháp lý về các hoạt động của nhà
nước làm ra luật và có trách nhiệm trông coi việc nước; thứ hai là tòa thị chính có chức
năng chăm lo từng việc cụ thể trong nhà nước; thứ ba là các cơ quan tư pháp. Tuy
nhiên, quan điểm của ông mới chỉ dừng lại ở mức sơ khai khi mô tả bộ máy nhà nước.
Tùy vào từng loại công việc trên do lực lượng nào nắm giữ sẽ hình thành nên các mô
hình tổ chức và thực thi quyền lực khác nhau. Như ở chính thể quân chủ, nhà vua vừa

nắm quyền lập pháp, vừa nắm quyền hành pháp, vừa nắm luôn quyền xét xử. Tuy
nhiên, theo ông thì nhà nước lý tưởng là nhà nước hỗn hợp có các giai cấp chia sẻ các
loại quyền lực và có sự kiềm chế lẫn nhau ở một mức độ nào đó. Thời kỳ này, quyền
lực thống nhất, tập trung trong tay nhà vua nhằm tránh những rối loạn và khủng hoảng
của xã hội khi quyền lực phân chia vào các tầng lớp khác nhau. Sự phân chia quyền
lực thực chất là sự chia cắt quyền lực và mỗi bộ phận nắm giữ quyền lực thường có xu
hướng ngăn cản, chống đối hơn là thống nhất và hợp tác với nhau. Nhân dân không có
quyền mà chỉ có nghĩa vụ tuân thủ, họ cũng không được tham gia các quá trình của đời
sống chính trị. Chỉ trong nhà nước dân chủ chủ nô Hy Lạp và La Mã cổ đại thì quan
niệm chủ thể của quyền lực nhà nước là nhân dân và nhân dân là người trực tiếp thực
thi quyền lực nhà nước (nhân dân ở đây là những công dân nam tự do, đã trưởng
thành), nhân dân nắm giữ Hội nghị nhân dân một cách thường xuyên. Với hình thức
dân chủ trực tiếp này thì sự phân chia và kiểm soát quyền lực chỉ là sự kiểm soát của
toàn dân đối với những người đại diện được giao nhiệm thực hiện các công việc thông
qua hội nghị định kỳ toàn dân.
Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây, quan niệm
về quyền lực nhà nước đã có những sự thay đổi đáng kể. Trước hết phải kể đến quan
niệm của Thomas Hobbes (1588 – 1679), ông là người đã tạo ra những bước đột phá
trong tư tưởng triết học chính trị thế kỷ XVII và tiếp tục có những ảnh hưởng sâu rộng
đến ngày nay. Ông là người đầu tiên đưa ra cơ sở việc thành lập ra nhà nước là khế
ước xã hội. Trong cuốn Leviathan (1956) thể hiện quan điểm của mình về quốc gia và

13


nhà nước hợp pháp. Ông khẳng định trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước, con
người rơi vào trạng thái hỗn loạn, cuộc chiến con người chống lại con người. Vì mục
đích an toàn hơn con người phải thành lập ra một nhà nước, phải trao tự do của mình
cho nhà nước và phải nhận được sự an toàn và mệnh lệnh từ nhà nước. Nhà nước là một
vật thể nhân tạo, cái đối lập với trạng thái tự nhiên của con người.“Leviathan” thể hiện

sự cần thiết của quyền lực tập trung mạnh mẽ để chống lại sự tàn ác của bất hòa và nội
chiến. Để thoát khỏi tình trạng nội chiến, con người thừa nhận một khế ước xã hội và
xác lập nên một xã hội dân sự. Và hình ảnh thủy quái “Leviathan” cho thấy nhà nước là
tổ chức đại diện cho quyền lực tối cao và các công dân, vì người phục tùng nó thông qua
hệ thống luật pháp. Nhà nước ra đời chấm dứt tình trạng người với người là chó sói,
chiến tranh của tất cả chống lại tất cả, cũng đồng thời làm cho luật tự nhiên trở thành
luật công dân hiện thực, luật thành văn, được thể chế hóa ở quyền lực tối cao. Nó chi
phối quyền tự nhiên hay tự do tự nhiên, ngăn chặn chiến tranh, xung đột, quy mọi cái
tản mác về sự thống nhất, tập trung tất cả công dân chống lại những kẻ phạm luật.
Trước tình hình nội chiến diễn ra ở Anh, Hobbes đã nghĩ đến khả năng tập trung
quyền lực vào tay một đấng chúa tể, mọi người hi sinh tự do hình thức (tự do trong nỗi
sợ hãi) để đảm bảo ổn định cuộc sống, hạn chế quyền cá nhân để quyền ấy được phân
bố một cách rộng rãi, hạn chế tham vọng cá nhân để ai cũng được lợi trong một khuôn
khổ cho phép nào đó. Đấng chúa tể không phải chịu bất kỳ sự kiểm tra nào và không
bị thủ tiêu bởi ý chí của các công dân tạo ra nó. Nhờ có khế ước xã hội mà các công
dân buộc mình có nghĩa vụ tuân theo quyền lực tối cao.
Theo ông quyền lực của loài người là lớn nhất bởi nó được tổng hợp từ hầu hết
quyền lực của mọi công dân, bằng sự nhất trí đồng lòng vào trong một người (người
đứng đầu). Trong mô hình nhà nước của Hobbes mặc dù gắn kết con người bằng “khế
ước”, nhưng con người phải phục tùng tuyệt đối quyền lực của nhà nước, thuần phục
một chiều. Người đứng đầu nhà nước đã sử dụng toàn bộ quyền lực của mọi người dựa
vào ý chí của họ (chẳng hạn quyền lực của một quốc gia) hoặc dựa vào ý chí của một
bộ phận cụ thể, chẳng hạn ý chí của một cơ quan, một nhóm người có cùng xu hướng.
Để đảm bảo an ninh, nhân dân đã trao quyền cho người nắm quyền quyền lực
tuyệt đối, không có giới hạn, chỉ giữ lại quyền tự bảo vệ khi người nắm quyền trực tiếp
đe dọa tới họ. Vì nhà nước được thiết lập nhờ vào sự đồng lòng nhất trí của nhân dân,

14



nhân dân ủy quyền cho một người và người đó có quyền làm bất cứ điều gì cần thiết
để duy trì trật tự và hòa bình.
Các tư tưởng chính trị của Hobbes đã được kế thừa và có bước phát triển mới
trong hệ thống triết học của J.Locke (1632 – 1709). Ông là người đã xây dựng tư
tưởng về quyền lực tối cao của nhân dân, nguồn gốc khế ước của nhà nước và quyền
lực, tách nhà thờ khỏi nhà nước, thế tục hóa sinh hoạt đạo đức của con người, đề cao
quyền lựa chọn cá nhân.
Trong học thuyết của mình ông đã trình bày quan điểm của mình về pháp lý tự
nhiên. Theo ông, trong trạng thái tự nhiên, con người có các quyền tự do, bình đẳng và
tư hữu. Các quyền này bắt nguồn từ bản chất muôn đời và bất biến của con người. Bởi
vậy, không ai có thể làm thay đổi được chúng. Trạng thái tự nhiên đối với ông là
những gì con người có thể được coi là thích hợp với mình trong khuôn khổ của quy
luật tự nhiên mà không cần xin phép người khác và không lệ thuộc vào ý chí của một
ai. Trạng thái tự nhiên là trạng thái mà con người tồn tại một cách tự nhiên trong đó và
là trạng thái tự do hoàn hảo, có thể sắp xếp cho hoạt động, tài sản của cá nhân họ theo
những gì mà họ cho là thích hợp trong khuôn khổ của luật tự nhiên, mà không bị phụ
thuộc hay ràng buộc về ý chí của một người nào đó. Trong trạng thái này bình đẳng có
nghĩa là không ai có quyền lực và quyền thực thi công lý nhiều hơn ai, giữa họ không
có sự lệ thuộc hay khuất phục, trừ khi đó là ý chí của vị chúa tể, chủ nhân của tất cả
bọn họ, nhưng phải được tuyên bố rằng ngài muốn đặt người này lên trên người kia,
ban tặng cho họ quyền thống trị không thể nghi ngờ và một chủ quyền tối cao không
thể hoài nghi.
Trong trạng thái tự nhiên đó thì luật tự nhiên cai quản bắt mọi người phải tuân
thủ và lí trí huấn thị cho toàn thể mọi người rằng tất cả đều bình đẳng và độc lập với
nhau. Do đó luật tự nhiên chi phối hay các quyền tự nhiên nắm vai trò thống trị. Ở đó
những quyền tự nhiên của con người là tối cao và bất khả xâm phạm. Đó là quyền
được sống, quyền tự do và quyền sở hữu.
Mặt khác, cũng theo luật tự nhiên mà con người phải kết hợp với nhau hình thành
nên một cộng đồng, xã hội. Sự vận động của xã hội dẫn đến tình trạng người dư thừa,
kẻ thiếu đói, xã hội rơi vào tình trạng mất an ninh, con người lại không có thiện chí tôn

trọng lẫn nhau, quyền tự nhiên của mỗi người bị xâm phạm. Cũng chính từ đây, để bảo
vệ những quyền tự nhiên thiêng liêng của mình mà mọi người, mọi thành viên trong xã

15


hội cùng ký kết một “khế ước”, hình thành nên chính quyền. Ông cho rằng vì mọi
người tự do, bình đẳng và độc lập bẩm sinh nên không có ai có thể bị tách ra khỏi
trạng thái ấy và phục tùng quyền lực chính trị của người khác mà không có sự nhất trí
của bản thân người ấy. Con đường duy nhất mà thông qua đó con người khước từ tự
do tự nhiên của mình và tự ràng buộc mình bằng những mối quan hệ công dân – đó là
thỏa thuận với những người khác hợp nhất thành cộng đồng để sống chung cho thuận
tiện. Đó là một cơ thể chính trị thống nhất, là cơ quan quyền lực chung mà chức năng
của nó là bảo vệ những quyền tự nhiên của mỗi người. Trong đó các công dân ủy
quyền, nhượng một phần quyền của mình để hình thành quyền lực chung.
Locke định nghĩa quyền lực nhà nước là quyền làm luật có án phạt tử hình và do
đó bao hàm tất cả những hình phạt thấp hơn, để quy định và bảo toàn sở hữu, quy định
và bảo toàn việc sử dụng vũ lực của cộng đồng khi thực thi các luật này, trong việc
phòng vệ của cộng đồng quốc gia trước những phương hại gây ra từ nước ngoài; và tất
cả những việc như thế chỉ duy nhất là vì lợi ích công.
Như vậy, bản chất của quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân
dân thiết lập lên để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong xã hội [15, tr. 21]. Quyền
lực của nhân dân là cơ sở, nền tảng của quyền lực nhà nước.Trong quan hệ với nhân
dân, về bản chất thì nhân dân ủy quyền cho nhà nước. Vì vậy, mỗi khi “khế ước xã
hội” bị vi phạm, chính quyền làm sai lạc mục đích của “khế ước”, khi đó công dân có
quyền hủy bỏ khế ước đã ký kết, nhân dân trở lại trạng thái tự nhiên và có quyền thiết
lập chính quyền mới.
Trong xã hội công dân, quyền lực xã hội của toàn thể xã hội phải đứng cao hơn
bất kỳ người nào nằm trong xã hội và mọi người trong xã hội phải phục tùng quyền
lực tối cao ấy. Và Locke cho rằng, cần phải có một số điều kiện để cá nhân phục tùng

quyền lực xã hội. Quyền lập pháp là luật thực định đầu tiên và cơ bản của mọi nhà
nước và quyền lực này là tối cao. Mặc dù quyền lập pháp giữ vai trò hàng đầu về
phương diện luật pháp, song nó cũng cần tuân thủ những yêu cầu nghiêm ngặt. Nó bị
hạn chế bởi phúc lợi xã hội, không được mang tính chuyên chế và phản mục đích tối
cao là bảo vệ toàn thể công dân và không được tước mất sở hữu của con người mà
không có sự đồng ý của chính họ.
Nét đặc trưng trong học thuyết của John Locke là việc khởi thảo học thuyết về sự
phân chia quyền lực.Ngoài quyền lập pháp và quyền tư pháp, trong xã hội công dân

16


còn có quyền hành pháp. Cả ba quyền này đều do nhân dân ủy quyền cho nhà nước,
hay nói cách khác nhà nước đều nhận từ nhân dân thông qua một sự chuyển nhượng
bằng khế ước xã hội. Sự phân quyền là cần thiết để tiến hành việc thực thi pháp luật và
quản lý xã hội trên thực tế. Dưới con mắt của Locke, quyền lực lập pháp là tối cao song
không phải là vô hạn bởi vì những điều kiện nhất định. Quyền lập pháp có thể triệu hồi
hay giải tán cơ quan hành pháp nhưng điều này không thể biến nó thành quyền lực tối
cao, mà đơn giản nó là quyền lực được ủy thác từ nhân dân để hành động vì những mục
đích nhất định vì lợi ích của nhân dân. Cho nên nó không phải là một quyền lực độc lập
mà phải phụ thuộc vào nhân dân – chủ thể tối cao của quyền lực trong xã hội. Như vậy,
Locke đã phác họa những đặc điểm chung của nhà nước pháp quyền, luận chứng cho
nguyên tắc phân quyền, qua đó đặt nền móng cho chế độ nhà nước dân chủ tự do đứng
đối lập với chế độ quân phiệt, chế độ chuyên chế và nền bạo chính.
Trong tác phẩm “Hai chuyên luận về chính quyền” (1690) được coi là lý thuyết
đầu tiên chống lại tư tưởng chuyên chế, khi Locke đưa ra lý thuyết về sự chế ước
quyền lực chuyên chế của nhà vua. Lý thuyết căn bản dựa trên hai nền tảng là quyền tự
nhiên của con người và khế ước xã hội, nền tảng của chế độ nhà nước. Ông cho rằng
con người vốn dĩ tự do, bình đẳng và độc lập; con người đã lựa chọn một cuộc sống
chung cùng với những người khác, từ bỏ trạng thái tự nhiên để tuân thủ một khế ước

xã hội; nhằm có được một sự an ninh tốt hơn. Họ nhất trí sống theo ý chí của số đông.
Vì vậy, chính phủ được thành lập và chính phủ cũng có thể bị giải thể nếu nhân dân
mất niềm tin vào chính phủ.
Quan niệm về quyền lực nhà nước đã có những bước phát triển mới trong hệ
thống triết học của Montesquier (1689 – 1755). Ông đã phát triển và cụ thể hóa cách
tiếp cận quyền lực từ khía cạnh con người – xã hội của J.Locke. Montesquier là người
tiên phong trong phong trào khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, nổi tiếng với tác phẩm “Bàn
về tinh thần pháp luật” (De L’esprit Des Lois) đó là viên ngọc sáng trong kho tàng lí
luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều khoa học xã hội khác của nhân
loại. Trong đó đã phác họa những nét cơ bản của một xã hội công dân và nhà nước
pháp quyền. Khi con người có nguyện vọng được sống thành một tổ chức xã hội, hình
thành nên xã hội và nhà nước và để sống trong một xã hội, muốn duy trì trật tự phải
quy định rõ quan hệ giữa người cai trị với người bị trị. Cho nên họ thiết lập ra những
nguyên tắc, luật lệ riêng và mọi người trong xã hội phải tuân thủ theo. Đó là luật chính

17


trị – luật tạo ra nền cai trị. Và luật dân sự – luật để duy trì nền cai trị, quy định quan hệ
giữa các công dân. Luật chính trị quy định các ràng buộc thể chế của các quan hệ
quyền lực. Cả hai luật này có mối tương quan về nguồn gốc, về đối tượng của người
lập pháp, với trật tự của các sự việc mà luật quy định. Montesquieu đã đề cập đến vấn
đề quyền lực từ rất sớm trong mối quan hệ với tự do chính trị của công dân. “Tự do là
quyền được làm tất cả những điều mà luật cho phép”[37, tr.105], chứ không phải là
muốn làm gì thì làm. Và tự do chính trị chỉ có thể tìm thấy ở đâu có một chính phủ hợp
lý, tức là một chính phủ trong đó không có sự lạm dụng quyền lực, tức là một chính
phủ bị hạn chế, một chính phủ chịu trách nhiệm. Nhưng kinh nghiệm muôn đời chỉ ra
rằng bất kỳ ai khi được trao quyền lực là sẽ có khuynh hướng lạm dụng quyền lực ấy
và sẽ tăng quyền lực của anh ta lên hết mức. Để ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực này
thì quyền lực phải được kiềm chế, kiểm soát, để ngăn cản lạm quyền, nhằm đảm bảo

tối đa tự do chính trị trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Ông đi sâu vào nghiên cứu cách thức tổ chức và thực thi quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước và ông đã đưa ra lý thuyết về sự phân chia quyền lực nhà nước và
có sự kiềm chế lẫn nhau giữa các loại quyền lực nhà nước. Ông tiếp cận quyền lực từ
sự thỏa thuận xã hội, nhà nước là một thỏa thuận của tất cả các thành viên trong cộng
đồng, xã hội. Nhà nước và xã hội ký kết một bản khế ước nhằm thực hiện những mục
tiêu chung. Như vậy theo ông, nguồn gốc và cơ sở của quyền lực là sự thỏa thuận chứ
không phải sức mạnh là cơ sở của quyền lực. Và phân chia quyền lực thành ba quyền:
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó các quyền này độc lập
với nhau và tương tác lẫn nhau để đảm bảo công bằng xã hội và phát triển đất nước
dưới quyền cai trị của một ông vua sáng và các quyền này trở thành lực lượng kiềm
chế nhau. Quyền lập pháp được chia giữa tư sản và phong kiến. Nghị viện gồm hai
viện, Thượng viện là đại diện cho quý tộc, Hạ viện đại diện cho nhân dân. Quyền hành
pháp thì thuộc quý tộc và thành lập chính phủ của nhà vua nhưng chịu trách nhiệm
trước nhân dân. Ông cho rằng khi quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong
tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ
rằng chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài và để thi hành một cách độc tài.
Nếu tư pháp mà nhập lại với lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và
quyền tự do của công dân. Và nếu một người hay một tổ chức quan chức hoặc của quý
tộc hoặc của dân chúng nắm cả ba quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết. Học thuyết

18


phân quyền của ông đã trở thành nguyên tắc căn bản về tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tư sản. Vì vậy, quyền lực nhà nước với tư cách là quyền lực của nhân
dân ủy quyền không được trao cho một ai hoàn toàn và sẽ nguy hiểm nếu quyền lực
nhà nước không được kiểm soát để rơi vào tay quý tộc hay tư sản.
Cùng với Montesquier, J.J.Rousseau (1712 – 1778) là một nhà triết học thuộc
trào lưu khai sáng, có ảnh hưởng lớn đển cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, sự phát

triển của lý thuyết xã hội và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc. Trong tác phẩm “Bàn
về khế ước xã hội”, ông cũng đề cập đến nhiều vấn đề quyền lực.Trước hết, ông đề cao
quyền lực tự nhiên, trong đó có quyền tự do của các công dân. Ông bày tỏ thái độ của
mình trước tình trạng mất tự do: “Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người
cũng sống trong xiềng xích” [50, tr.52]. Đó là vì kẻ mạnh đã chuyển lực thành quyền
và chuyển sự phục tùng thành nghĩa vụ. Theo ông, quyền ở trạng thái tự nhiên chủ yếu
dựa vào sức mạnh vật lý, “không ai tự nhiên có quyền uy đối với đồng loại, thế mà lực
không sinh ra quyền: vậy chỉ có những công ước là có thể làm cơ sở cho mọi quyền uy
chính đáng giữa người với người mà thôi” [50,tr.58].
Để tự do trở thành một giá trị phổ biến thì cần có một thỏa thuận chung, khế ước,
công ước chuyển từ tự do hình thức, tự do phi nhân tính sang tự do công dân. Với khế
ước xã hội con người mất đi cái tự do tự nhiên và cái quyền hạn chế được làm những
điều muốn làm mà làm được; nhưng mặt khác con người lại có quyền tự do dân sự và
quyền sở hữu cái mà anh ta có.
Đứng trước những trở lực gây nguy hiểm đối với sự sinh tồn, mỗi thành viên
trong xã hội từ bỏ quyền riêng của mình để gộp hết vào quyền chung, để tìm ra một
hình thức liên kết với nhau để dùng sức mạnh mà bảo vệ các thành viên. Và mỗi người
đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung. Toàn bộ
quyền lực được chuyển giao cho bộ phận cầm quyền, được thiết lập từ các thành viên
tham gia khế ước xã hội. Ông khẳng định quyền lực là thống nhất của ý chí chung.
Thông qua khế ước xã hội, trao cho cơ thể chính trị cái quyền tuyệt đối, đối với các
thành viên và nó được điều hành bằng ý chí chung, bởi quyền lực tối cao (quyền lực
tối thượng của nhân dân). Nhân dân có quyền được tự do công dân và quyền sở hữu
đối với tài sản của mình. Nếu tự do tự nhiên bị hạn chế bởi các thế lực cá nhân thì
quyền tự do công dân bị hạn chế bởi ý chí chung. Nhân dân có quyền đứng lên phản
kháng chuyên chế, bãi bỏ khế ước xã hội nếu nhà nước lạm quyền, lộng quyền, tha hóa

19



quyền lực. Quyền lực của ý chí chungchính là quyền lực tuyệt đối, không thể phân
chia và bất khả xâm phạm. Quyền lực nhà nước phải tập trung trong tay một chủ thể là
nhân dân và không bị hạn chế bởi bất kỳ một đạo luật nào. Hay nói cách khác là quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Còn sự phân chia các cơ quan nhà nước thành lập
pháp, hành pháp, tư pháp thực chất chỉ là sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa
các cơ quan trong bộ máy. Vì các cơ quan này đều chịu sự kiểm soát và điều khiển bởi
ý chí chung, bởi lẽ mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, để ngăn ngừa việc tiếm
quyền từ phía các cơ quan.
1.1.3.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền lực nhà nước
C.Mác và Ph.Ănghen trên cơ sở kế thừa những luận điểm trên của các nhà tư
tưởng chính trị trước đó về quyền lực, đã khẳng định rằng, quyền lực xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của con người.
Là lãnh tụ chính trị lỗi lạc của giai cấp công nhân, hơn ai hết C. Mác, Ănghen và
Lênin trong quá trình nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn để xây dựng nên học thuyết
đấu tranh cách mạng đã có những đóng góp khoa học trong việc tiếp cận và nhận thức
về vấn đề quyền lực, đặt nền móng cho quan niệm mới về quyền lực chính trị nói
chung, quyền lực chính trị của giai cấp công nhân nói riêng; con đường và biện pháp
để giai cấp công nhân xác lập quyền lực chính trị của mình. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính
trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc
biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị
trong xã hội.
Ph. Ănghen (1820 – 1895), trong tác phẩm “Bàn về quyền uy”, khi nói về sự cần
thiết của quyền lực, Ănghen đã nêu lên khái niệm quyền lực và các tiền đề tồn tại của
nó. Ănghen đã chỉ ra rằng quyền lực là cái tất yếu cần phải có trong xã hội hiện đại vì:
“Hành động liên hợp, quá trình công tác tùy thuộc lẫn nhau, ngày càng phức tạp, đang
thay thế cho hành động riêng rẽ của từng cá nhân. Nhưng đã là hành động liên hợp thì
phải có tổ chức, mà tổ chức thì liệu không dùng đến quyền uy có được không?”[3,
tr.6]. Khái niệm quyền uy được Ănghen sử dụng là khái niệm quyền lực mà chúng ta
đang nói tới: “Quyền uy ở đây có nghĩa là ý chí của người khác đưa ra bắt buộc chúng

ta phải tuân theo; mặt khác thì quyền uy còn bao hàm cả ý nghĩa phục tùng nữa”[3,

20


tr.5]. Ông cho rằng quyền uy là một hành vi để cưỡng bức người khác phải phục tùng
ý chí của mình.
Theo Ănghen thì cơ sở xuất phát của quyền lực chính là từ các hoạt động sản
xuất của con người trong xã hội. “Đồng thời với sự phát triển của đại công nghiệp và
đại nông nghiệp và những điều kiện đó đều có xu hướng ngày càng mở rộng phạm vi
của quyền uy đó” [3, tr.9]. Và thật vô lý, nếu nói nguyên tắc quyền uy là một nguyên
tắc hoàn toàn xấu và nguyên tắc tự trị là một nguyên tắc hoàn toàn tốt. Quyền uy và tự
trị là những điều tương đối mà phạm vi áp dụng thì tùy theo những giai đoạn khác
nhau của sự phát triển xã hội mà thay đổi. Ông kịch liệt phê phán những kẻ phản đối
quyền uy lại đòi phải tức khắc thủ tiêu nhà nước chính trị, ngay cả trước khi thủ tiêu
những điều kiện xã hội đã sản sinh ra nó. Những người này tự họ không hiểu được
những lời họ nói và như thế họ chỉ gieo rắc những quan niệm hồ đồ, hoặc là họ hiểu
như thế là họ phản bội sự nghiệp của giai cấp vô sản. Trong cả hai trường hợp, họ chỉ
phục vụ cho phe phản động mà thôi. Như thế chúng ta thấy một bên là quyền uy nhất
định, mặc dù quyền uy đó đã được tạo ra như thế nào chăng nữa và một bên là phục
tùng nhất định – bất cứ trong tổ chức xã hội nào cũng đều như thế cả, do những điều
kiện vật chất bắt buộc chúng ta phải có hai cái đó để tiến hành sản xuất và lưu thông
sản phẩm. Như vậy, chính sự tồn tại của xã hội đòi hỏi phải có quyền lực chung để
điều khiển, buộc con người phải tuân theo những quy định, luật lệ nhất định, đảm bảo
an ninh an sinh cho mỗi người cũng như toàn thể cộng đồng. Và các quan hệ quyền
lực mang tính phổ quát trong mọi tổ chức xã hội. Mỗi tổ chức xã hội đều có một cách
thức tổ chức quyền lực ở những phạm vi, mức độ, tính chất và trình độ nhất định. Do
đó sự hình thành quyền lực là tất yếu khách quan của đời sống xã hội. Nhu cầu của con
người liên kết với nhau lại thành một xã hội và không thể tạo ra một xã hội mà không
cần đến quan hệ quyền lực hay quyền lực.

C.Mác và Ph. Ănghen tuy ít bàn về phạm trù quyền lực, nhưng những gì hai ông
để lại đã đưa một sự luận giải về quyền lực chính trị mà chủ yếu là quyền lực của giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản. Vấn đề này được hai ông tiếp cận từ góc độ kinh tế học,
tức nghiên cứu quá trình tổ chức và phát triển sản xuất của xã hội. Quá trình phân công
lao động xã hội, địa vị kinh tế - xã hội của mỗi người, của nhóm người, hay của một
giai cấp được xác lập trong sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động và của cải vật chất.

21


Chính nhờ vào địa vị kinh tế - xã hội mà mỗi người, nhóm người hoặc giai cấp nắm
giữ là cơ sở cho việc nắm giữ quyền lực của họ.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”,
Ph.Ănghen đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản nhất của quá trình hình thành, phát triển của
chế độ tư hữu và giai cấp là do sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội
[15, tr. 32]. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền đề cho sự
thay đổi phương thức sản xuất nguyên thủy. Nền kinh tế tự nhiên, săn bắt, hái lượm
chuyển sang chăn nuôi, trồng trọt, làm thủ công… dẫn đến cuộc phân công lao động
xã hội trên quy mô lớn, một bộ phận đông đảo dân cư chuyên làm một nghề nhất định.
Với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, vào thời cổ đại đã diễn ra ba
lần phân công lao động xã hội. Lần phân công thứ nhất, chăn nuôi tách ra khỏi trồng
trọt và trở thành ngành kinh tế độc lập, tạo đòn bẩy cho kinh tế và hình thành mầm
mống tư hữu. Lần phân công thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, bước
đầu hình thành chế độ nô lệ, số lượng nô lệ ngày càng tăng, bắt đầu có sự phân hóa xã
hội. Lần phân công thứ ba, sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện của
tầng lớp thương nhân, giai cấp không tham gia sản xuất nhưng những người sản xuất
lại phụ thuộc vào tầng lớp này. Trải qua ba lần phân công lao động xã hội, nền sản
xuất được chuyên môn hóa hơn, sản phẩm được làm ra ngày càng nhiều hơn không
những đủ cho tiêu dùng mà còn dư thừa, kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất
hiện một bộ phận chiếm đoạt của cải dư thừa đó và giàu lên nhờ tích trữ, đầu cơ. Từ

đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của, sự phân
hóa giàu nghèo dẫn đến sự phân chia thành các tầng lớp khác nhau, từ đó dẫn đến sự
phân chia giai cấp.
Vào thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thủy, với chế độ hôn nhân quần hôn,
con cái chỉ biết chính xác mẹ mà không biết cha. Cho tới khi trong xã hội xuất hiện
nhóm rồi gia đình một vợ một chồng và chế độ mẫu hệ bị thay thế bằng chế độ phụ hệ.
Cùng với quá trình đó, các đơn vị sản xuất cũng dần được chia nhỏ theo sự phát triển
của các hình thái gia đình. Chế độ tư hữu ra đời, cùng với nó là sự phân hóa giàu
nghèo. Tộc trưởng được giao quản lý số tài sản dư thừa đã lợi dụng uy tín, địa vị của
mình để chiếm đoạt làm của riêng.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, sự phân hóa trong xã hội ngày càng cao, mâu
thuẫn giữa người giàu và người nghèo ngày càng trở nên gay gắt. Tư liệu sản xuất

22


×