Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Biến đổi sinh kế của người nông dân ở huyện gia lộc, tỉnh hải dương trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 190 trang )

VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI

NGUYN VN TO

BIếN ĐổI SINH Kế CủA NGƯờI NÔNG DÂN
ở HUYệN GIA LộC, TỉNH HảI DƯƠNG TRONG BốI CảNH
CÔNG NGHIệP HóA Và ĐÔ THị HóA
Chuyờn ngnh: NHN HC
Mó s: 62 31 03 02

LUN N TIN S NHN HC

Ngi hng dn khoa hc:

1- PGS.TS. Nguyn Duy Thiu
2- TS. Trn Hng Hnh

H NI 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án “Biến đổi sinh kế của người nông dân ở huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa”, ngoài những nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ từ gia đình, đồng
nghiệp, các chuyên gia, các nhà khoa học và các tổ chức.
Tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn đến gia đình, bố mẹ đã tạo điều kiện, động
viên, giúp đỡ để tôi có động lực vượt qua những khó khăn, hoàn thành luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn và tri ân sâu sắc nhất đến giáo viên hướng dẫn PGS.TS.
Nguyễn Duy Thiệu và TS. Trần Hồng Hạnh đã định hướng, chỉ bảo và giúp đỡ tôi


trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Nhân đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Khoa Dân tộc học (nay là Khoa
Dân tộc học và Nhân học), Học viện Khoa học xã hội, Viện Dân tộc học, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Khoa Tổ chức và Quản lý nhân lực, Ban Giám hiệu
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, PGS.TS. Phạm Quang Hoan, TS. Nguyễn Thị Song
Hà... đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực
hiện luận án.
Tôi cũng sẽ không thể thực hiện và hoàn thành luận án nếu không có sự tạo
điều kiện, giúp đỡ, đặc biệt là trong việc cung cấp các thông tin liên quan đến luận án
ở cấp cơ sở, của lãnh đạo, chuyên viên các phòng/ban chức năng của Ủy ban nhân
dân huyện Gia Lộc, lãnh đạo các xã và đông đảo người dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh
Hải Dương. Tôi xin trân trọng cảm ơn các quý vị vì sự giúp đỡ quý báu này.
Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn!
NGHIÊN CỨU SINH

Nguyễn Văn Tạo


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận án là trung thực và khách quan. Các thông tin được trích
dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những gì đã cam đoan ở trên.
Hà Nội, ngày

tháng 9 năm 2016

Tác giả luận án


NCS. Nguyễn Văn Tạo


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .................................................................. 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................. 9
1.2. Cơ sở lý thuyết ........................................................................................... 14
1.3. Khái quát về huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ........................................... 25
CHƢƠNG 2: SINH KẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI NÔNG DÂN Ở
HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƢƠNG ............................................. 35
2.1. Nông nghiệp ............................................................................................... 35
2.2. Các nghề thủ công truyền thống ................................................................ 50
2.3. Hoạt động thương mại, dịch vụ ................................................................. 63
2.4. Khai thác nguồn lợi tự nhiên...................................................................... 64
CHƢƠNG 3: SINH KẾ CỦA NGƢỜI NÔNG DÂN Ở HUYỆN GIA LỘC, TỈNH
HẢI DƢƠNG TRONG BỐI CẢNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ ĐÔ
THỊ HÓA .................................................................................................. 68
3.1. Bối cảnh biến đổi sinh kế của người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh
Hải Dương ................................................................................................. 68
3.2. Những biến đổi trong nông nghiệp ............................................................ 93
3.3. Biến đổi của các ngành tiểu thủ công nghiệp .......................................... 104
3.4. Biến đổi của các ngành thương mại - dịch vụ.......................................... 111
3.5. Sự xuất hiện của các loại hình sinh kế mới.............................................. 115
3.6. Tác động của biến đổi sinh kế đến người nông dân huyện Gia Lộc và
những vấn đề đặt ra.................................................................................. 118
3.7. Giải pháp và khuyến nghị ........................................................................ 139
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .....................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Từ viết tắt
CNH

Công nghiệp hóa

CP

Chính phủ

GTSX

Giá trị sản xuất

HĐH

Hiện đại hóa

NCS

Nghiên cứu sinh




Nghị định

NN

Nông nghiệp

NQ

Nghị quyết

NXB

Nhà xuất bản

PGS

Phó Giáo sư



Quyết định

TS

Tiến sĩ

TTCN-XDCB


Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng cơ bản

TTg

Thủ tướng Chính phủ

TVQH

Thường vụ Quốc hội

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

WB

Ngân hàng Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 2.1: Diện tích trồng lúa vụ chiêm xuân giai đoạn 1957 - 1961 .............................. 36
Bảng 2.2: Các giống lúa được gieo trồng trong truyền thống tại hai xã Gia Lương và
Liên Hồng ....................................................................................................... 38
Bảng 2.3: Các loại cây hoa màu chủ yếu trong truyền thống của hai xã Gia Lương

và Liên Hồng .................................................................................................. 42
Bảng 2.4: Giá bán trâu, bò giống trong truyền thống ...................................................... 45
Bảng 2.5: Các hoạt động khai thác tự nhiên trong truyền thống của người nông dân
tại hai xã Gia Lương và Liên Hồng ................................................................ 65
Bảng 3.1: Tình hình dân số của huyện Gia Lộc giai đoạn 2000 - 2014 .......................... 75
Bảng 3.2: Dự báo dân số và nguồn nhân lực huyện Gia Lộc đến năm 2020 .................. 76
Bảng 3.3: So sánh mong muốn về học tập và nghề nghiệp cho con ở hai xã Gia
Lương và Liên Hồng ...................................................................................... 78
Bảng 3.4: Cơ cấu số người trong độ tuổi lao động khu vực nông thôn tại hai điểm
nghiên cứu phân theo trình độ chuyên môn ................................................... 79
Bảng 3.5: Tình hình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp huyện Gia Lộc (Từ
ngày 1/1/2000 đến ngày 1/1/2005) ................................................................. 80
Bảng 3.6: Dự báo biến động diện tích đất sản xuất nông nghiệp của huyện Gia Lộc
giai đoạn 2010 - 2020 ..................................................................................... 82
Bảng 3.7: Diện tích đã chuyển đổi sang ao, vườn ở xã Gia Lương ................................. 83
Bảng 3.8: So sánh hệ thống dịch vụ bưu chính viễn thông ở hai xã Gia Lương và
Liên Hồng ....................................................................................................... 87
Bảng 3.9: Một số tài sản gia đình của hai xã Liên Hồng và Gia Lương ......................... 88
Bảng 3.10: Các nguồn vốn tài chính của người nông dân tại hai điểm nghiên cứu ............. 89
Bảng 3.11: Ủy thác cho vay vốn thông qua các tổ chức chính trị - xã hội của Ngân
hàng Chính sách xã hội chi nhánh huyện Gia Lộc ......................................... 90
Bảng 3.12: Khung giá đền bù đối với nhóm đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp ở
vùng đồng bằng sông Hồng (Áp dụng từ ngày 29/12/2014) .......................... 91
Bảng 3.13: Khung giá đền bù đối với nhóm đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất ở các
xã đồng bằng thuộc tỉnh Hải Dương (Áp dụng từ ngày 1/1/2015) ................. 92
Bảng 3.14: Các khoản đền bù khi thu hồi đất tại hai điểm nghiên cứu ........................... 92


Bảng 3.15: Các giống lúa và năng suất được gieo trồng hiện nay ở hai xã Gia Lương
và Liên Hồng .................................................................................................. 94

Bảng 3.16: Số lượng thiết bị máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp tại hai xã Gia
Lương và Liên Hồng ...................................................................................... 96
Bảng 3.17: Số lượng các loại vật nuôi tại hai xã Gia Lương và Liên Hồng ................... 99
giai đoạn 2000 - 2010 .................................................................................................... 110
Bảng 3.18: So sánh số lượng ô tô của hai xã Gia Lương và Liên Hồng trong đối
sánh với huyện Gia Lộc................................................................................ 114
Bảng 3.19: Các khoản thu nhập trung bình của người lao động khi làm ở các khu công
nghiệp ............................................................................................................ 116
Bảng 3.20: Biến đổi cơ cấu thu nhập của người nông dân giai đoạn 2006 - 2011 tại
hai xã Liên Hồng và Gia Lương ................................................................... 121
Bảng 3.21: So sánh diện tích quy hoạch sân vận động tại hai điểm nghiên cứu ........... 126
Bảng 3.22: Diện tích đã xây dựng nhà văn hóa và diện tích đất quy hoạch mới ở hai
điểm nghiên cứu ........................................................................................... 127
Bảng 3.23: Đánh giá hiệu quả thu hút lao động vào các khu công nghiệp tại hai
điểm nghiên cứu ........................................................................................... 128
Bảng 3.24: Nguyên nhân người lao động không được nhận vào làm việc trong các
khu công nghiệp tại hai điểm nghiên cứu .................................................... 129
Bảng 3.25: Các hình thức xử lý rác thải chủ yếu của các hộ gia đình ............................... 131
Bảng 3.26: Nguyên nhân gây bệnh ở hai xã Gia Lương và Liên Hồng ............................ 131
Bảng 3.27: Đối tượng trò chuyện, tâm sự của người cao tuổi (60 tuổi trở lên) tại
hai xã Gia Lương và Liên Hồng .................................................................. 133


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Trang

Hình 3.1: Cơ cấu chất lượng lao động của huyện Gia Lộc giai đoạn 2000 - 2010
(Thống kê 23 xã) ............................................................................................ 77
Hình 3.2: Tình hình cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Gia Lộc giai đoạn 2010 - 2014 ............................................................ 90

Hình 3.3: Diện tích nuôi trồng và sản lượng thủy sản của huyện Gia Lộc giai đoạn
2000 - 2010 ................................................................................................... 101
Hình 3.4: Giá trị sản xuất ngành chế biến gỗ, mây tre đan của huyện Gia Lộc ............ 110
Hình 3.5: Chuyển dịch ngành thương mại - dịch vụ của huyện Gia Lộc giai đoạn
1991 - 2011 .................................................................................................. 111
Hình 3.6: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Gia Lộc giai đoạn 1991 – 2011 ........... 119
Hình 3.7: Biến đổi cơ cấu thu nhập của người nông dân Gia Lộc giai đoạn 2006 –
2011 .............................................................................................................. 120
Hình 3.8: Dự báo sự chuyển dịch cơ cấu lao động huyện Gia Lộc đến năm 2020 ........... 137


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, nông dân là cư dân chính và cũng là lực lượng lao động chủ yếu
của xã hội. Trong chiến tranh, họ là lực lượng chủ yếu và quan trọng nhất ở tiền
tuyến; họ ra đi cứu nước với sự nhiệt thành, trong sáng. Khi đất nước hòa bình, họ trở
về với xóm, làng và tham gia vào các hoạt động lao động sản xuất. Hiện nay, người
nông dân là lực lượng lao động trực tiếp sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm
cho xã hội, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước.
Cho đến nay, nước ta vẫn là nước nông nghiệp, phần lớn người dân vẫn sống ở
khu vực nông thôn, vẫn coi ruộng đất là tư liệu sản xuất chính. Tuy nhiên, do tác
động của nhiều yếu tố nội sinh và ngoại sinh mà sinh kế của người nông đã có nhiều
thay đổi so với trước kia. Tại một số địa phương, do chịu ảnh hưởng của nhiều
nguyên nhân như thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, ảnh hưởng của cơ chế thị trường, của
quá trình chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp nên diện tích canh tác
đã bị thu hẹp. Điều đó làm cho người nông dân luôn có nguy cơ chịu những rủi ro và
tổn thương trong cuộc sống mưu sinh. Quá trình sản xuất nông nghiệp của người
nông dân phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên và thị trường. Họ chưa chủ động được
sản phẩm do mình làm ra: có khi người nông dân mất mùa vì thiên tai, dịch bệnh, có
khi lại thất bại vì thị trường không ổn định.

Việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo sinh kế
cho người nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa là một trong những trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo ổn định xã hội. Trong thực tế, không phải
đến năm 1986 khi Đảng thực hiện việc đổi mới thì quá trình biến đổi sinh kế mới diễn ra,
mà biến đổi sinh kế là lẽ tự nhiên, tất yếu đối với tất cả các quốc gia, các tộc người và
cộng đồng dân cư. Ở Việt Nam quá trình này diễn ra chậm hơn do đặc điểm tính cách,
tâm lý, tập tục sinh hoạt và truyền thống cố kết cộng đồng quy định.
Ngày nay, quá trình biến đổi sinh kế của người nông dân ở tất cả các vùng
miền trong phạm vi cả nước vẫn đang diễn ra với quy mô và tốc độ ngày càng lớn,
nhất là ở các vùng đồng bằng và khu vực ven đô thị. “Theo Hội Nông dân Việt
Nam, mỗi năm cả nước có khoảng 200.000ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục
đích sử dụng, tương ứng mỗi hộ gia đình có khoảng 1,5 lao động mất việc làm”
[101]. Điều này đặt ra rất nhiều vấn đề về dân số, lao động, việc làm, ô nhiễm môi

1


trường, an sinh xã hội, đặc biệt là sinh kế của những người nông dân bị mất đất
nông nghiệp. Nhiều người nông dân hiện nay bị trắng tay và bơ vơ không biết làm
gì để mưu sinh khi ruộng đất của họ trở thành các khu công nghiệp, các đô thị...
Việc ổn định sinh kế cho người nông dân trong khoảng thời gian dài, có tính bền
vững đang là một thách thức và một vấn đề không dễ giải quyết trong điều kiện
kinh tế, xã hội nước ta hiện nay.
Gia Lộc là một huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Hải Dương thuộc châu thổ
đồng bằng sông Hồng, thuộc vùng tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh
nên đang chịu tác động rất lớn từ các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
theo vùng, lãnh thổ cả ở cấp độ quốc gia lẫn địa phương. Huyện Gia Lộc gồm có 22 xã1
và một thị trấn. Trước đô thị hóa, Gia Lộc là một huyện thuần nông với nền kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, đất nông nghiệp chiếm tới 67% diện tích đất đai của toàn huyện. Với
vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng phát triển, cơ chế chính sách thông thoáng nên trong

những năm vừa qua tỉnh Hải Dương nói chung và huyện Gia Lộc nói riêng có tốc độ
công nghiệp hóa, đô thị hóa rất nhanh. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm cho
cơ cấu kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng
giảm dần tỷ trọng các ngành nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Trong hoạt động sinh kế, người nông dân chuyển từ kiếm sống chủ yếu dựa vào
nông nghiệp sang kết hợp nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; chuyển từ độc canh cây
lúa sang kết hợp nuôi trồng nhiều cây con có giá trị kinh tế cao; chuyển từ việc kiếm
sống quanh quẩn sau “lũy tre làng” sang việc di chuyển khắp các vùng miền trong cả
nước để kiếm sống… Bên cạnh những giá trị tích cực mà quá trình công nghiệp hóa và
đô thị hóa mang lại, quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Đó là diện tích
đất nông nghiệp của huyện ngày càng bị thu hẹp, người nông dân mất việc làm truyền
thống, trong khi nghề nghiệp mới chưa được định hướng rõ ràng, các tệ nạn xã hội xuất
hiện ngày càng nhiều... Cũng như nhiều vùng quê khác trong cả nước, người nông dân
của huyện Gia Lộc luôn mong muốn có được sinh kế ổn định, bền vững. Do đó, nghiên
cứu sự biến đổi sinh kế của người dân ở huyện Gia Lộc sẽ góp phần làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về sinh kế bền vững của người nông dân trong thời kỳ công
nghiệp hóa, đô thị hóa hiện nay.

1

Đó là các xã: Đoàn Thượng, Đồng Quang, Đức Xương, Gia Hòa, Gia Khánh, Gia Lương, Gia Tân, Gia
Xuyên, Hoàng Diệu, Hồng Hưng, Lê Lợi, Liên Hồng, Nhật Tân, Phạm Trấn, Phương Hưng, Quang Minh, Tân
Tiến, Thống Kênh, Thống Nhất, Toàn Thắng, Trùng Khánh và Yết Kiêu.

2


Vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn “Biến đổi sinh kế của người nông dân ở
huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa” làm
đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Góp phần làm sáng rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về sinh kế và biến đổi sinh
kế của người nông dân. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp
hướng tới sinh kế bền vững cho người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu hệ thống lý luận về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, công nghiệp
hóa, đô thị hóa, sinh kế và sinh kế bền vững của người nông dân.
- Tìm hiểu bức tranh tổng thể về sinh kế của người nông dân trước khi công
nghiệp hóa, đô thị hóa ở huyện Gia Lộc.
- Làm rõ những biến đổi về sinh kế của người nông dân.
- Nêu một số giải pháp để chính quyền địa phương và các nhà hoạch định
chính sách tham khảo để xây dựng các chính sách cho hoạt động thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sinh kế và những biến đổi sinh kế của
người nông dân ở huyện Gia Lộc trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu từ sau Đổi mới (1986) đến nay. Sở
dĩ đề tài lấy mốc là năm 1986 vì đây là thời điểm diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước
chuyển đổi quan trọng về tư duy, quan điểm, đường lối, chủ trương phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước: chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự đổi mới này đã làm cho đời sống kinh
tế, văn hoá, xã hội của tất cả các tộc người, các vùng miền trên đất nước ta, trong đó
có người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, có sự chuyển biến mạnh mẽ.
Cùng với quá trình Đổi mới là sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, đã
làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân nói chung và người nông dân
3



nói riêng được nâng cao, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, cũng có
không ít thách thức đang đặt ra trong quá trình phát triển.
Về không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về sinh kế và biến đổi sinh kế
ở huyện Gia Lộc trong đó tập trung vào hai xã có quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
diễn ra nhanh nhất (xã Liên Hồng) và chậm nhất (xã Gia Lương) để có được một nghiên
cứu so sánh về sự biến đổi sinh kế và thích ứng của người dân trong các bối cảnh và điều
kiện khác nhau. Trong đó, xã Liên Hồng nằm giáp thành phố Hải Dương, có tốc độ đô
thị hóa nhanh với nhiều công trình dân sinh, khu công nghiệp, bệnh viện trường học
được tập trung đầu tư. Ngược lại, xã Gia Lương nằm khá xa thành phố Hải Dương, xa
quốc lộ, chưa có khu công nghiệp và có tốc độ đô thị hóa chậm.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận của luận án
Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đã xem xét và vận dụng các quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin (trong đó có thuyết duy vật biện chứng), tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
sinh kế, công nghiệp hóa và đô thị hóa trong nghiên cứu của mình. Dưới góc nhìn của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các vấn đề về sinh kế, nông nghiệp,
nông dân, nông thôn sẽ được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng tác động qua
lại với nhau trong một tổng thể.
Bên cạnh đó, luận án này còn sử dụng các lý thuyết cụ thể để tham chiếu, đánh
giá, xem xét quá trình biến đổi sinh kế của người nông dân ở huyện Gia Lộc. Nội
dung các lý thuyết sử dụng trong luận án được trình bày cụ thể trong chương I
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Để có thể thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp các phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng, nghiên cứu lịch sử (đồng đại và lịch đại). Cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, kế thừa tài liệu thứ cấp: Đó là việc thu thập và xử lý
các thông tin, tài liệu liên quan như sách, báo, tạp chí, phim ảnh, kết quả nghiên cứu
của các đề tài, dự án, các văn bản của Đảng và Nhà nước; các công trình nghiên cứu

về sinh kế của các tác giả trong và ngoài nước... Bên cạnh đó, còn có các Nghị quyết,
Chỉ thị của huyện Ủy Gia Lộc, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Ủy ban nhân dân
huyện Gia Lộc, văn bản báo cáo, thông kế, tổng hợp, hướng dẫn... của các phòng/ban
chức năng của huyện Gia Lộc, hai xã Gia Lương và Liên Hồng.
4


Phương pháp điền dã dân tộc học được đặc biệt quan tâm, sử dụng để thu thập
nguồn tài liệu định tính liên quan đến đề tài trên thực địa. Trong đó, các công cụ và
phương pháp chính được sử dụng gồm: quan sát trực tiếp, quan sát tham dự, phỏng vấn
sâu, phỏng vấn cấu trúc và bán cấu trúc, thảo luận nhóm... Để có cái nhìn sâu hơn,
phương pháp phỏng vấn cá nhân cũng được sử dụng để thu thập thông tin có liên quan
đến đề tài, trong đó có tính đến yếu tố vị trí công tác, tuổi và giới tính của người được
phỏng vấn. Theo đó, phỏng vấn sâu được thực hiện với nhiều đối tượng khác nhau, trong
đó có đại diện của các nhà quản lý ở các cấp từ Trung ương đến xã và người dân của hai
xã Gia Lương và xã Liên Hồng (huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương) nhằm chú trọng tiếng
nói người dân ở hai điểm nghiên cứu này. Mẫu được chọn để phỏng vấn sâu gồm người
dân thuộc các thế hệ khác nhau: những người già (trên 60 tuổi) cho biết các hoạt động
sinh kế truyền thống, đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội truyền thống của các điểm nghiên
cứu; những người trung niên (từ 40 đến 59 tuổi) cung cấp các thông tin về những chuyển
biến về sinh kế và điều kiện sống trước và sau Đổi mới; những người trẻ (từ 16 đến 39
tuổi) chia sẻ sinh kế hiện tại và những tâm lý, cảm nhận của họ trước sự biến đổi của xã
hội hiện đại; cán bộ quản lý các cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) bày tỏ quan điểm của
họ trước những vấn đề đã và đang đặt ra hiện nay tại địa phương (Xem Phụ lục 2).
Bên cạnh đó, việc thực hiện ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc) trong dân
tộc học cũng được áp dụng trong nghiên cứu này. Điều này giúp nghiên cứu có được
những thông tin, tài liệu phong phú, đa dạng và sát với thực tế. Bên cạnh đó, với cách
làm này, chúng tôi có được sự tiếp cận hai chiều: không chỉ từ trên xuống (xem xét tiếng
nói và sự áp đặt của các nhà quản lý các cấp từ trung ương xuống địa phương) mà còn từ
dưới lên (tôn trọng ý kiến của người dân). Trong luận án này, tác giả chú trọng tiếp cận

các ý kiến của người nông dân, bởi đây là đối tượng đang chịu sự tác động trực tiếp và
mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Để có tài liệu định lượng, bên cạnh các phương phán nghiên cứu định tính,
chúng tôi cũng sử dụng phương pháp điều tra qua bảng hỏi để lấy ý kiến của các
đối tượng khác nhau (nhà quản lý và người dân) về các vấn đề liên quan đến đề
tài. Bảng hỏi được thiết kế kết hợp dạng câu hỏi đóng và câu hỏi mở, dành cho cán
bộ và người dân trong huyện Gia Lộc, đặc biệt là người dân của hai xã Gia Lương
và xã Liên Hồng. Đã có 360 bảng hỏi được sử dụng để thu thập các thông tin định
lượng ở các cộng đồng được nghiên cứu, trong đó 110 bảng hỏi dành cho xã Gia
5


Lương và 120 bảng hỏi dành cho xã Liên Hồng, 30 bảng hỏi dành cho các nhà
quản lý ở huyện, tỉnh, và 100 bảng hỏi cho các xã khác trong huyện. Đối tượng
được hỏi gồm người dân thuộc các thế hệ khác nhau: những người già (trên 60
tuổi); những người trung niên (từ 40 đến 59 tuổi); những người trẻ (từ 16 đến 39
tuổi); cán bộ quản lý các cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Nội dung câu hỏi tập
trung vào thu thập các thông tin liên quan đến sinh kế truyền thống, sinh kế hiện
tại, dự đoán dự báo về sinh kế tương lai; quan điểm của người nông dân và các
nhà quản lý về quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; những mong muốn và đề
xuất của họ đối với Đảng và Nhà nước... Kết quả điều tra được xử lý thủ công:
theo toán học thống kê để lấy tỷ lệ các ý kiến trùng lặp.
Nghiên cứu này, trong đó có những hoạt động thu thập tư liệu tại địa bàn
nghiên cứu được trải dài trong 4 năm (2012 - 2016). Trong năm 2012 và nửa đầu năm
2013, tác giả tập trung chủ yếu vào việc học và hoàn thành các chuyên đề dành cho
thạc sĩ và nghiên cứu sinh; đồng thời, trong thời gian này, tác giả cũng tập hợp, sưu
tầm các tài liệu liên quan đến luận án, chủ yếu là các tài liệu thứ cấp. Từ tháng 9 năm
2013 đến tháng 2 năm 2016, tác giả đã tiến hành 03 đợt điền dã thực địa: đợt 1 từ
tháng 10 năm 2013 đến tháng 12 năm 2013; đợt 2 từ tháng 2 năm 2014 đến tháng 4
năm 2014; đợt 3 từ tháng 6 năm 2015 đến tháng 9 năm 2015. Trong các đợt khảo sát

thực tế, tác giả đã lần lượt thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài, đặc biệt là những
thông tin liên quan đến các điểm nghiên cứu, bổ sung các tư liệu còn thiếu, kiểm tra
chéo thông tin.
Ngoài ra, để thu thập các thông tin và tư liệu trên thực địa, chúng tôi còn sử
dụng các công cụ hỗ trợ như chụp ảnh, ghi âm, quay video... Các phương pháp này đã
cung cấp nguồn tư liệu phong phú và làm sinh động các minh chứng về biến đổi sinh
kế của người nông dân huyện Gia Lộc.
Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình thực hiện luận án này, tác giả luận
án đã tham vấn và tranh thủ ý kiến của các nhà khoa học có nhiều am hiểu và kinh
nghiệm về sinh kế và biến đổi sinh kế. Đội ngũ chuyên gia được tham vấn rất đa
dạng, gồm: chuyên gia về quản lý trong lĩnh vực sinh kế, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn; chuyên gia nghiên cứu về sinh kế truyền thống của các đồng bào dân tộc
thiểu số; chuyên gia nghiên cứu về sinh kế hiện đại; chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh
vực dân tộc học… Theo đó, các chuyên gia đã tư vấn, đưa ra những đóng góp, gợi

6


mở và lời khuyên bổ ích giúp tác giả có cách tiếp cận đúng chuyên ngành và hướng
nghiên cứu. Bên cạnh đó, đội ngũ chuyên gia đã giới thiệu và trong một số trường
hợp, đã cung cấp nguồn tư liệu phong phú đa dạng giúp tác giả có góc nhìn đa chiều
về vấn đề nghiên cứu và tiết kiệm thời gian cho việc tìm kiếm nguồn tư liệu liên quan
đến đề tài.
Các phương pháp: lịch sử (lịch đại và đồng đại), tổng hợp, phân tích, so
sánh... cũng được áp dụng trong quá trình hoàn thành luận án nhằm đánh giá, giải mã
các tài liệu định tính và định lượng. So sánh để tìm ra sự tương đồng và khác biệt
giữa hiện tại và quá khứ để thấy quy luật biến đổi và lý giải sự biến đổi đó. So sánh
lịch đại để tìm hiểu mối liên hệ dọc, tức là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
mưu sinh diễn ra hiện nay với các sự vật, hiện tượng diễn ra trước đây. Trong khi đó,
so sánh đồng đại giúp làm rõ mối liên hệ ngang, tức là mối liên hệ giữa các sự vật,

hiện tượng mưu sinh diễn ra đồng thời cùng một thời điểm.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đây là luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về sinh kế và
biến đổi sinh kế của người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương dưới góc nhìn
nhân học. Luận án đã góp phần cung cấp một góc nhìn mới về sinh kế nói chung và
sinh kế của người nông dân nói riêng trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Đây là kết quả của sự kết hợp nhiều lý thuyết khác nhau trong xem xét hệ thống sinh
kế truyền thống của người nông dân và những chuyển đổi của hệ thống ấy trong bối
cảnh các điều kiện sống thay đổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
- Luận án làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về sinh kế, nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
- Luận án góp phần cung cấp một cách nhìn mới trong xem xét, phân tích và
đánh giá sinh kế và biến đổi sinh kế ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt ở những vùng chịu
ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, thông qua sự vận dụng các lý
thuyết vào nghiên cứu thực tiễn.
- Luận án chỉ ra thực trạng và những chuyển biến về sinh kế của người nông
dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương; đồng thời, cung cấp các góc nhìn đa chiều
trong việc đảm bảo sinh kế cho người nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hóa.

7


6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án cung cấp cơ sở lý luận cho các nhà hoạch định và thực thi chính
sách ở các cấp trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống cho
người nông dân. Từ đó, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở vùng được nghiên cứu
một cách bền vững hơn.

- Luận án có thể là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, nhân dân
huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương và những người quan tâm đến sinh kế và đời sống
của người nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa và đô thị hóa.
- Các kết quả của luận án cũng có thể được sử dụng để phục vụ công tác
nghiên cứu và giảng dạy về sinh kế của người nông dân đồng bằng dưới góc nhìn
nhân học.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
chia thành 3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Sinh kế truyền thống của người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh
Hải Dương
Chương 3: Sinh kế của người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa.

8


CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về sinh kế của các học giả nước ngoài
Đến nay, đã có rất nhiều tác phẩm trên thế giới nghiên cứu về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, sinh kế, công nghiệp hóa, đô thị hóa. Có thể kể đến một số nghiên
cứu về nông nghiệp và các hoạt động sinh kế của con người dưới góc nhìn nhân học sau
đây: Hai tác giả V. D. Blavaski và A. V. Nikitin đã cho ra đời công trình Sự xuất hiện và
phát triển của nông nghiệp [123]. Tác phẩm gồm 230 trang được chia thành X chương,
mô tả nền sản xuất nông nghiệp nguyên thủy (Chương I); nền nông nghiệp của xã hội có

giai cấp sơ kỳ (Chương II); các cư dân nông nghiệp thời kỳ cổ trên lãnh thổ Liên Xô
(Chương III); nền nông nghiệp cổ Hy La (Chương IV); nền nông nghiệp ở các quốc gia
cổ Hy La ở Bờ Bắc Biển Đen trong những giai đoạn khác nhau (Chương V và VI); nền
nông nghiệp của các bộ lạc trước nền văn hóa Za - Zu - Bib - Xo và Trec - Nha - Khốp
(Chương VII); nền nông nghiệp của người dòng Xlavo (Chương VIII); nền nông nghiệp
của nước Nga trong các thời kỳ khác nhau (Chương IX và X). Bên cạnh đó, nghiên cứu
này đã mô tả các loại nông cụ, các giống cây trồng của các tộc người và trong các điều
kiện kinh tế khác nhau. Đánh giá về vai trò của nền nông nghiệp đối với loài người, các
tác giả cho rằng nông nghiệp xuất hiện ngay trong thời đại công xã nguyên thủy là một
trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của năng suất lao động và sự tích lũy tài sản,
dẫn tới việc củng cố và thịnh đạt của xã hội ở mọi thời kỳ. Từ đó, họ khẳng định nông
nghiệp là một trong những phát minh vĩ đại nhất của nhân loại.
Dưới khía cạnh dân tộc học nông nghiệp, G. G. Gromop và Yu. F. Nôvichkop
đã xuất bản ấn phẩm “Một số vấn đề nghiên cứu dân tộc học nông nghiệp” [55]. Ấn
phẩm gồm 18 trang với 4 phần đã khái quát một số vấn đề cơ bản của nền nông
nghiệp như cơ cấu nông cụ, điều kiện kinh tế - xã hội, những cây trồng chính và điều
kiện địa lý tự nhiên. Các tác giả đã chỉ ra một cách đúng đắn rằng, khi nghiên cứu kỹ
thuật học nông nghiệp, cần xem xét những điều kiện địa lý tự nhiên và kinh tế - xã
hội mà các dân tộc nông nghiệp sinh sống bởi các điều kiện này sẽ quyết định kỹ
thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản các hàng nông sản. Đồng thời, họ cũng
phê phán các quan điểm của một số học giả khi đánh giá quá cao ý nghĩa của đặc
tính dân tộc riêng biệt khi nghiên cứu về dân tộc học nông nghiệp.

9


Cũng với quan điểm trên, khi bàn về dân tộc học nông nghiệp Đông Nam Á, tác
giả N. N. Tsebocsarop và IA. V. Tsesnop trong tác phẩm “Một số vấn đề dân tộc học
nông nghiệp Đông Nam Á” [76] đã khẳng định rằng những đặc trưng văn hóa nông
nghiệp ở các dân tộc ở Đông Nam Á đã hình thành từ những điều kiện lịch sử nhất định

và chúng được định đoạt bởi sự phát triển kinh tế - xã hội và hoàn cảnh tự nhiên. Những
đặc trưng đó được truyền thống củng cố, trở thành những đặc điểm riêng biệt của tộc
người đó trong một thời kỳ lâu dài. Tuy nhiên, các giá trị đặc trưng truyền thống đó có
thể dần dần biến mất với sự xuất hiện của nền nông nghiệp cơ giới hiện đại.
Các tác giả Emily A. Schultz và H. Lavenda khi nghiên cứu về kinh tế đã đưa
ra khái niệm “phương cách sinh tồn” và “phương thức mưu sinh” trong tác phẩm
“Nhân học một quan điểm về tình trạng nhân sinh” [54]. Các tác giả cho rằng con
người tự tạo ra những phương thức sử dụng các mối quan hệ giữa họ với nhau và với
môi trường tự nhiên để kiếm sống. Sinh tồn thường được dùng để chỉ việc thoả mãn
những nhu cầu vật chất thiết yếu nhất để tồn tại của con người, chủ yếu là nhu cầu về
thức ăn, quần áo và chỗ ở. Các tác giả đã đề xuất một sơ đồ các thành tố hợp thành
“phương cách sinh tồn”. Theo đó, mỗi “phương cách sinh tồn” gồm hai thành tố
thuộc hai cấp độ khác nhau: cấp độ một là thu lượm lương thực; cấp độ hai là sản xuất
lương thực. Tiếp đến, ở cấp độ hai, sản xuất lương thực lại gồm hai thành tố hợp thành là
chăn nuôi và trồng trọt. Sau đó, bộ phận trồng trọt lại chia tách và phát triển thành cấp độ
ba, gồm ba thành tố cấu thành là nông nghiệp quảng canh, nông nghiệp thâm canh và
nông nghiệp cơ giới hóa mang tính chất công nghiệp.
Trong những năm gần đây, ấn phẩm “Bức khảm văn hóa châu Á: tiếp cận nhân
học” do Grant Evans chủ biên [56] đã gây sự chú ý cho nhiều nhà nghiên cứu về nhân học
của Việt Nam. Tác phẩm tập hợp 15 bài viết của các nhà dân tộc học/nhân học có uy tín
với tổng dung lượng là 529 trang. Trong tác phẩm này, có nhiều bàn luận, đánh giá về mọi
vấn đề của đời sống xã hội mà con người đang quan tâm, trong đó có vấn đề sinh kế của
con người. Đặc biệt, trong bài viết “Ngư dân, du canh, du cư, người bán hàng rong, nông
dân và dân chăn nuôi: nhân học kinh tế”, tác giả John Clammer đã đưa ra những nhận
định, đánh giá về kinh tế và mối quan hệ của nó với văn hóa, xã hội dưới góc nhìn nhân
học. Theo ông, “đối với các nhà nhân học thì các quan niệm kinh tế cũng là những quan
niệm xã hội, nêu rõ một cách sâu sắc những giá trị cơ bản, thế giới quan và những định
hướng về đạo lý của một xã hội” [56, 195]. Cũng trong bài viết này, tác giả đã có những
nhận định, đánh giá về quá trình biến đổi của kinh tế, đó là những mối quan hệ luôn biến


10


động và phản ánh các mối quan hệ xã hội: “…hoạt động kinh tế liên quan đến các mối
quan hệ xã hội - đến sự tạo thành, bảo tồn và nâng cao các mối quan hệ xã hội đó - và khi
cần những mối quan hệ đó sẽ tự kết thúc” [56, 197]…
Các tác phẩm rất đa dạng về nội dung, phong phú về đối tượng phản ánh và
cách thể hiện. Tuy đa dạng nhưng có hai trường phái khá rõ nét: i) Góc nhìn của các
nhà dân tộc học/nhân học Liên Xô cũ, Trung Quốc; và ii) Góc nhìn của các nhà dân
tộc học/nhân học phương Tây. Rõ ràng, cùng tiếp cận nhân học nhưng do cách nhìn
nhận bằng con mắt chính trị và hệ tư tưởng khác nhau nên cách đánh giá và giải quyết
vấn đề cũng không giống nhau. Cho đến nay, các quan điểm và cách tiếp cận đã có sự
thu hẹp về khoảng cách, các nhà dân tộc học/nhân học ở các trường phái đối lập nhau
đã có sự lắng nghe và chia sẻ lẫn nhau. Hệ tư tưởng và quan điểm đã tiến gần nhau
hơn khi tiếp cận một vấn đề về dân tộc học/nhân học.
Các tác phẩm của các nhà dân tộc học/nhân học hàng đầu thế giới đã tạo tiền
đề, gợi mở về sự đa dạng lý thuyết để các nhà dân tộc học/nhân học Việt Nam tiếp
tục nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển làm sâu sắc các lý thuyết. Bên cạnh đó,
những nghiên cứu vừa kể trên cũng là nguồn tư liệu tham khảo rất có giá trị, đặc biệt
là về vấn đề lý thuyết và cách tiếp cận, cho luận án này.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về sinh kế của các học giả trong nước
Nghiên cứu về sinh kế của người nông dân mới xuất hiện ở Việt Nam trong
những năm 60 của thế kỷ trước nhưng rất phát triển, nhất là từ khi quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Các công trình nghiên cứu đã thể hiện sự
quan tâm của các nhà khoa học với nhiều góc nhìn khác nhau về sinh kế. Tuy nhiên,
các tác phẩm đề cập trực tiếp đến vấn đề sinh kế của người nông dân chưa nhiều hoặc
mới chỉ đề cập một góc độ, một số khía cạnh nhất định. Có thể kể đến các tác phẩm
đề cập trực tiếp đến vấn đề sinh kế sau:
Bài viết “Sinh kế người dân thị trấn Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị trong quá trình phát
triển khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo” (2009) của Mai Văn Xuân và Hồ Văn

Minh đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 54 với dung lượng 8 trang. Bài viết
đã bàn luận về khung sinh kế bền vững được vận dụng làm cơ sở cho việc soi chiếu vào
địa bàn nghiên cứu. Sau khi nêu các đặc điểm cơ bản của địa bàn nghiên cứu, nghiên cứu
này đã chỉ ra những yếu tố tác động đến sinh kế, thu nhập của người nông dân khi mở
rộng, phát triển khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo; trên cơ sở đó, đề xuất các giải
pháp để hoàn thiện hệ thống sinh kế cho người dân ở khu vực này.

11


Gắn với lý thuyết, bài viết “Khung sinh kế bền vững: một cách phân tích toàn
diện về phát triển và giảm nghèo” (2010) của Nguyễn Văn Sửu đăng trên Tạp chí
Dân tộc học số 2 đã phân tích, nhận định và đánh giá khá sâu sắc về khung sinh kế
bền vững mà DFID đã đưa ra. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá vai trò của từng loại
nguồn vốn đối với sinh kế của người nông dân, đồng thời cũng khẳng định tính ứng
dụng của lý thuyết sinh kế bền vững trong xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững
ở Việt Nam hiện nay.
Tương tự như vấn đề nghiên cứu của luận án, phải kể đến “Nghiên cứu ảnh
hưởng sinh kế người nông dân khi chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp
tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” (2010) của Ngô Hữu Hoạch và Huỳnh Văn
Chương đăng trên Tạp chí Khoa học Đất số 35 với dung lượng 7 trang. Các tác giả đã
mô tả sự biến đổi các nguồn lực trong Khung sinh kế bền vững của DFID; trên cơ sở
đó, họ khẳng định rằng, đất nông nghiệp bị thu hẹp do đô thị hóa đã ảnh hưởng rất
mạnh mẽ đến sinh kế của người nông dân ở Hội An, Quảng Nam.
Mô tả và phân tích sự đa dạng sinh kế của một tộc người thiểu số ở vùng miền
núi phía Bắc, Trần Hồng Hạnh đã cho đăng bài viết “Sinh kế của người Pà Thẻn ở
huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang” (2011) trên Tạp chí Dân tộc học số 6 với dung
lượng 11 trang. Trong bài viết này, dưới góc nhìn nhân học kinh tế, tác giả đã mô tả,
đánh giá sâu sắc các hoạt động sinh kế của người Pà Thẻn ở huyện Quảng Bình, tỉnh
Hà Giang trong truyền thống và hiện tại.

Tài liệu hội thảo “Tái định cư trong các dự án thủy điện cuộc sống người dân
có tốt hơn?” (2011) của Viện Tư vấn phát triển – CODE đã có những đánh giá sâu
sắc về những tác động đến mọi mặt đời sống của người dân, trong đó có vấn đề sinh
kế. Tài liệu hội thảo có dung lượng 103 trang với 10 bài viết. Đáng chú ý là “Sinh kế
bền vững cho người dân bị ảnh hưởng bởi dự án thủy điện Sông Bung 4” của Nguyễn
Hồng Vũ. Tác giả đã chỉ ra rất rõ những tác động của dự án điện Sông Bung 4 đến
sinh kế của người dân bằng những số liệu thực địa. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất
những chương trình, dự án mà Nhà nước cần triển khai nhằm đảm bảo sinh kế bền
vững cho người dân ở những vùng xây dựng thủy điện.
Hoạt động mưu sinh như một cách nhìn về sinh kế cũng được giới thiệu trong
luận án tiến sĩ “Hoạt động mưu sinh của người Kháng ở xã Chiềng Bôm, huyện
Thuận Châu, tỉnh Sơn La” (2013) của Bùi Thị Bích Lan. Luận án đã cung cấp các tư
liệu mới về hoạt động mưu sinh của dân tộc Kháng ở Chiềng Bôm trước và sau Đổi

12


mới đến nay. Đồng thời, luận án phân tích một cách có hệ thống và toàn diện về sự
tác động của hoạt động mưu sinh tới phát triển bền vững, từ đó tìm ra những bất cập
trong phát triển sinh kế của người Kháng trong giai đoạn hiện nay.
Trong mối liên hệ giữa sinh kế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác phẩm
“Công nghiệp hóa, đô thị hóa và biến đổi sinh kế ở ven đô Hà Nội” (2014) của
Nguyễn Văn Sửu gồm 5 chương với 199 trang, đã cung cấp nguồn tư liệu phong
phú, đang dạng về sinh kế của người nông dân ở vùng ven đô Hà Nội trong bối
cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa hiện nay. Mặc dù chỉ khảo sát tại hai làng Phú
Điền và Gia Minh nhưng tác phẩm đã khái quát hóa và chỉ ra được những biến đổi
về sinh kế của người nông dân do tác động của quá trình công nghiệp hóa và đô
thị hóa.
Nông nghiệp và nhiều vấn đề liên quan đến nông nghiệp lại một lần nữa được
quan tâm và đề cập trong luận án tiến sĩ “Những biến đổi trong sản xuất nông nghiệp

của người Mạ tỉnh Lâm Đồng” (2015) của Trần Minh Đức. Tác giả đã mô tả khá đầy
đủ những biến đổi về giống, kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi... của người Mạ tại hai
điểm nghiên cứu là xã Đinh Trang Thượng và thị trấn Lộc Thắng của tỉnh Lâm Đồng.
Trong luận án này, tác giả cũng chỉ ra những vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến đời
sống của người Mạ do quá trình biến đổi trong sản xuất nông nghiệp.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, đến
sinh kế, biến đổi sinh kế của người nông dân do tác động của quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa; mô tả, xem xét, đánh giá nhiều góc độ khác nhau của sinh kế và biến
đổi sinh kế; từ đó, cung cấp một bức tranh đa chiều về hoạt động sinh kế của người
dân trong bối cảnh công nghiệp hóa và đô thị hóa. Tuy nhiên, các công trình đó chủ
yếu phân tích, đánh giá một hoặc một vài yếu tố của các nguồn vốn trong khung
sinh kế bền vững hoặc mới chỉ tập trung vào vùng sâu vùng xa, vùng biên giới.
Một số tác phẩm đã đề cập trực tiếp đến biến đổi sinh kế của người nông dân
nhưng lại được tiếp cận dưới góc nhìn truyền thống, tức thiên về mô tả các hoạt
động mưu sinh là chính hoặc góc nhìn không phải của Dân tộc học. Trong bối
cảnh biến đổi của các tư liệu sản xuất do tác động của quá trình công nghiệp hóa
và đô thị hóa, sự xem xét, đánh giá một cách có hệ thống sinh kế của người nông
dân, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho người nông
dân là rất cần thiết. Có thể nói, các công trình nghiên cứu trước đó liên quan đến
sinh kế là nguồn tư liệu có giá trị để tác giả tham khảo và kế thừa.

13


Có thể khẳng định rằng, kể từ khi đất nước đổi mới đến nay, chưa có đề tài khoa
học, bài viết hay công trình khoa học nào nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về sự biến đổi
sinh kế của người nông dân ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Do đó, nghiên cứu về vấn
đề này ở huyện Gia Lộc là mới và cần thiết. Trong quá trình thực hiện đề tài này, những
nghiên cứu vừa kể trên là một nguồn tư liệu vô cùng quý báu để chúng tôi có thể trang
bị, bổ sung những khung lý thuyết có liên quan đến đề tài và những thực tế ở các địa

phương khác nhau cũng như ứng dụng chúng trong nghiên cứu của mình.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
* Biến đổi
Xã hội luôn vận động, biến đổi không ngừng. Quá trình vận động, biến đổi có thể
mang lại những giá trị tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát triển nhưng cũng có thể tạo ra những
hệ lụy tiêu cực, tạo ra những bất ổn. Ở những xã hội đang phát triển như Việt Nam,
những tác nhân tác động và thúc đẩy sự biến đổi xuất hiện ngày càng nhiều, làm cho quá
trình biến đổi diễn ra càng mạnh mẽ. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng như hiện nay đã tác động rất lớn đến quá trình biến đổi xã hội mà trước hết
và sâu sắc nhất là khu vực nông thôn với đối tượng trung tâm là người nông dân. Để
quản lý và điều chỉnh quá trình này, trước hết cần hiểu rõ bản chất của sự biến đổi. Khái
niệm biến đổi được sử dụng khá phổ biến trong quản lý xã hội và xã hội học.
Theo tác giả Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành trong cuốn “Từ
điển tiếng Việt thông dụng”, “Biến đổi: thay đổi làm cho khác trước” [128, 91].
Tương tự như vậy, theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do tác giả Hoàng Phê
làm chủ biên, “Biến đổi là thay đổi thành khác trước” [84, 95]. Trong khi đó, dưới
góc độ xã hội, sự biến đổi thường được quan niệm là biến đổi xã hội, “là việc chuyển
đổi xã hội từ trạng thái này sang trạng thái khác, mà trạng thái chính là bộ mặt xã
hội với những yếu tố hoạt động xã hội và quan hệ xã hội đạt được ở một mức độ nào
đó (cao, thấp, tốt, xấu…)” [100, 14].
Trong luận án này, biến đổi được nhìn nhận là quá trình thay đổi tất yếu, diễn
ra ở mọi sự vật, hiện tượng, trong đó những thay đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ và toàn
diện nhất. Sự biến đổi sẽ dẫn đến một trạng thái khác trước (có thể cao hơn hoặc thấp
hơn, tốt hơn hoặc xấu hơn…). Khi xem xét sự biến đổi, luận án sẽ chỉ tập trung xem
xét biến đổi sinh kế của người nông dân, trong đó trọng tâm là sự biến đổi các nguồn
lực đảm bảo sinh kế.

14



* Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa là một quá trình tất yếu của sự phát triển, thể hiện sự chuyển
dịch, chủ yếu là kinh tế, theo hướng đi lên của mỗi quốc gia. Quá trình này sẽ làm
cho nền kinh tế chuyển dịch từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, thủ công là chủ yếu
sang nền sản xuất công nghiệp với mức độ tập trung lớn, ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào trong sản xuất. Quá trình công nghiệp hóa sẽ làm tăng giá trị của hàng hóa, giải
phóng sức lao động chân tay cho con người.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, “công nghiệp hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra năng suất
lao động xã hội cao. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật xây dựng nền đại
công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo (trước hết là nông nghiệp và toàn bộ nền kinh
tế quốc dân) nhằm biến một nước chậm phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến sang nền
sản xuất lớn chuyên môn hóa. Hiện đại hóa là quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế mới
mà nòng cốt là cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại” [2].
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, “công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
và công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động cao” [43, 241]. Theo đó, Đảng ta đã
xác định nội hàm của quá trình công nghiệp hóa rộng hơn các quan điểm trước đó.
Quá trình này không chỉ bó hẹp trong phạm vi nâng cao trình độ của lực lượng sản
xuất, kỹ thuật đơn thuần mà còn bao gồm cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ xã hội và được sử dụng bằng các phương tiện tiên tiến hiện đại với công
nghệ cao.
Trong luận án này, quan điểm về công nghiệp hóa của Đảng được sử dụng làm

cơ sở lý luận xuyên suốt. Quan điểm của Đảng mang tính toàn diện, thể hiện được
bản chất của quá trình công nghiệp hóa với sự biến đổi từ sản xuất, kinh doanh dịch
vụ, khoa học kỹ thuật đến quản lý kinh tế, xã hội…
15


* Đô thị và Đô thị hóa
Cũng như công nghiệp hóa, đô thị hóa là quá trình tất yếu của sự phát triển,
luôn gắn liền với công nghiệp hóa. Quá trình công nghiệp hóa diễn ra sẽ kéo theo đô
thị hóa bởi đất nông nghiệp sẽ được chuyển đổi mục đích sử dụng cho công nghiệp,
người nông dân sẽ bị mất đất và trở thành người thành thị một cách bắt buộc, các
vùng nông thôn sẽ trở thành đô thị.
Trước khi đi tìm hiểu quá trình đô thị hóa, cần làm rõ khái niệm đô thị. Khái
niệm đô thị khá phổ biến hiện nay và được dùng trong nhiều công trình nghiên cứu và
văn bản quản lý nhà nước. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, đô thị là “(cg.
điểm dân cư đô thị), không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt
động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp. Đô thị được phân loại theo các
chức năng kinh tế, xã hội như: Đô thị công nghiệp, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô
thị cảnh quan, v.v, đồng thời được phân loại theo quy mô số dân. Ở Việt Nam, đô thị
được phân thành 4 loại: đô thị rất lớn (trên một triệu dân), đô thị lớn (35 vạn - 1 triệu
dân), đô thị trung bình (3 vạn - 10 vạn dân), đô thị nhỏ (dưới 3 vạn dân)” [2]. Trong
khi đó, theo tác giả Nguyễn Lân trong cuốn “Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam” đã định
nghĩa đô thị như sau: “Đô thị: chỗ tụ họp buôn bán đông đúc, sầm uất” [73, 653].
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng nội hàm của khái niệm đô thị
cơ bản thống nhất rằng: Đô thị là không gian sống tập trung của một bộ phận dân cư
với chủ yếu các hoạt động phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng phát triển, lối sống mang
tính chất thành thị. Trong luận án này, khái niệm đô thị được hiểu theo hướng này.
Cũng như khái niệm đô thị, khái niệm đô thị hóa cũng có nhiều cách diễn đạt
khác nhau. Cụ thể là: Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, “đô thị hóa là quá
trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải

đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp,
thương mại, dịch vụ... thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc,
làm cho tỉ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển
giao thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác; phát triển văn hoá
và sự phân công lao động theo lãnh thổ, tăng cường thành phần công nhân, tiểu thủ
công, trí thức, thương nhân, kĩ thuật viên, v.v…” [2]. Theo quan điểm này, đô thị hóa là
chuyển biến và thay đổi một cách căn bản và toàn diện mọi mặt khu vực nông thôn từ cơ
cấu kinh tế, cơ sở hạ tầng đến nhân lực, cơ cấu việc làm… Quá trình này sẽ kéo theo sự
thay đổi về tư duy, lối sống, cách ứng xử và các mối quan hệ xã hội.

16


Tác giả Nguyễn Lân trong cuốn “Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam” đã định nghĩa
đô thị hóa như sau: “Đô thị hóa (hóa: làm thành) biến thành đô thị” [73, 653]. Theo
đó, tác giả chú trọng và quan tâm đến việc bóc tách từ ngữ của cụm từ “đô thị hóa”
nên chưa phản ánh hết được nội dung của quá trình đô thị hóa hiện nay. Song, dù
nhìn nhận theo cách nào, quá trình đô thị hóa cũng có tác động và ảnh hưởng mạnh
mẽ đến đời sống của người dân, trực tiếp là người nông dân.
Đánh giá về sự biến đổi do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, Giáo sư xã hội
học nổi tiếng người Mỹ Louis Wirth đã phân tích trong bài viết nổi tiếng “Đô thị hóa
như một lối sống” vào năm 1938 rằng đô thị hóa sẽ làm rạn vỡ các mối quan hệ gắn
bó từng là cơ sở cho cả hai lối sống: nông thôn và thành thị; nó làm biến dạng cộng
đồng nông thôn và ngược lại, càng làm méo mó các quy chuẩn của cộng đồng thành
thị nói theo ngôn ngữ hiện đại là nông thôn hóa thành thị và thành thị hóa nông thôn.
Trong sự đa dạng về nhận thức và định nghĩa về đô thị hóa như vừa nêu trên,
luận án xem xét và tiếp cận khái niệm đô thị hóa như sau: Đô thị hóa là quá trình
biến đổi các vùng nông thôn thành đô thị. Quá trình đô thị hóa sẽ làm biến đổi toàn
diện, mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, các mối quan hệ trong
gia đình, cộng đồng, làng xóm, xu hướng phân bố dân cư, phân bố lao động ở khu

vực nông thôn… theo hướng đô thị. Với cách tiếp cận trên, luận án sẽ nhấn mạnh
đến quá trình biến đổi ở khu vực nông thôn.
* Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
- Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng, đảm bảo nhu cầu
lương thực cho con người. Đây cũng là ngành ra đời từ rất sớm gắn liền với quá trình
hình thành loài người. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, “nông nghiệp là
một ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn
nuôi; khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để
tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Là một ngành
sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản;
theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp, thuỷ sản” [2]. Trong nông nghiệp, đất
đai là nguồn tư liệu chính và chủ yếu; quá trình sản xuất nông nghiệp luôn gắn với đất
đai. Ngành kinh tế nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
vì nó liên quan đến an ninh lương thực của mỗi quốc gia.
Theo quan điểm của Đảng, “nông nghiệp là khái niệm chỉ ngành nghề hay sản
nghiệp phân biệt với công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp là tên chung chỉ những

17


×