Những đặc điểm của đô thị ở Việt Nam hiện nay
ThS.Phan Anh Hồng –GV HVHCQG
1. Quá trình phát triển đô thị ở Việt Nam
Hệ thống đô thị của Việt Nam được hình thành và phát triển trải qua từng thời kỳ nhất
định. Trải qua mỗi giai đoạn khác nhau hệ thống các đô thị mang những đặc điểm khác
nhau.
Những năm đô hộ của phong kiến phương Bắc là thời kỳ hình thành các đô thị Việt Nam,
các thế lực phương Bắc đã tập trung lực lượng kinh tế và quân sự dưới các hình thức sở
(cấp tỉnh), lỵ (cấp huyện). Hoạt động thủ công nghiệp phát triển với những cảng sông để
thiết lập các trạm dịch, các đầu mối giao lưu kinh tế như Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc
Ninh), Long Biên, Đại La (Hà Nội), Lạch Trường (Thanh Hóa). Cùng với các cảng sông
là các đồn trú của quân đội, và các thương gia. Hoạt động buôn bán phát triển như cảng
Hội An (Quảng Nam), Phố Hiến (Hưng Yên)... đã làm cho hình thức cư trú đô thị xuất
hiện một cách nhanh chóng. Các đô thị như Huế, Đại La, và Thăng Long hình thành vào
thời kỳ này.
Khi nước Đại Việt giành được tự chủ, trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của các triều
đại phong kiến Đinh, Lý, Trần đã trải qua nhiều lần di chuyển do sự thay đổi của các triều
đại. Các đô thị thương mại kiểu trạm dịch, cảng sông vẫn tiếp tục hình thành và phát triển
cùng với sự hình thành các đồn biên phòng để bảo vệ nền tự chủ của dân tộc. Tiêu biểu
cho các đô thị này là các đô thị Vĩnh Bình (Lạng Sơn), Vân Đồn (Quảng Ninh) thế kỷ XI
- XIV; cảng thị như Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam) vươn lên hoạt động
nhộn nhịp phồn vinh với những đòi hỏi giao lưu, buôn bán ngày càng đông. Đến thế kỷ
XVII các đô thị Việt Nam trong thời kỳ này là dựa vào các trung tâm hành chính, chính
trị kết hợp với các đồn trú để tạo nên thành trì bảo vệ quyền lợi của các thế lực phong
kiến. Ở thời kỳ này là sự xuất hiện của các đô thị - cảng mới như Hải Phòng và Đà Nẵng
với sức trẻ đang trỗi dậy mạnh, và sự tiếp tục phát triển của các đô thị cổ có từ trước như
Thăng Long, Nam Định, Quy Nhơn, Sài Gòn - Gia Định, Hà Tiên... Đặc biệt là sự phát
triển vượt trội của Huế - kinh tế nhà Nguyễn, cũng như sự bắt đầu phát triển của các đô
thị như Thanh Hóa, Hải Dương, Vinh... làm cho bức tranh khái quát về các đô thị Việt
Nam vẫn phản ánh được dáng vẻ, nhịp độ phát triển của đô thị cổ Việt Nam của các thế
kỷ trước đó[3, tr 15].
Đặc điểm chung của đô thị Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu gắn liền với mục đích
hành chính - chính trị. Vì thế, phần "đô" xuất hiện trước, kéo theo nó là phần "thị" xuất
hiện nhằm phục vụ trước tiên cho bản thân gia đình những vua chúa, quan lại, tầng lớp
trên trong xã hội. Yếu tố "Đô" trong đô thị Việt Nam luôn gắn liền với "Thành", "Dinh",
"Trấn" là những trung tâm cai trị của chính quyền nhà nước quân chủ, được xây dựng do
ý trí chủ quan của lực lượng cầm quyền trong xã hội. Mặt khác, do nhu cầu phát triển
kinh tế, cũng có các đô thị được hình thành - đây là nơi giao lưu của các luồng hàng trong
quan hệ thương mại, nơi tập trung các cư dân buôn bán, tạo thành các "thị"; sau đó do
nhu cầu quản lý, nhà nước phong kiến đặt các cơ sở kiểm soát, các nhiệm sở của mình,
dần hình thành lên đô thị, chẳng hạn như Hội An (Quảng Nam) hay Vĩnh Bình (Lạng
Sơn). Phần "đô" luôn điều hành, quản trị phần "thị". Các tầng lớp thị dân trong phần "thị"
luôn bị chi phối bởi tầng lớp trên là các tầng lớp quan lại, quý tộc. Nhìn chung ở Việt
Nam trong các giai đoạn đó, sự phát triển hay lụi tàn của các đô thị luôn gắn liền với sự
thăng trầm của các triều đại phong kiến.
Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị nên tổ chức mạng
lưới đô thị hành chính cùng với các đồn trú rải đều trên khắp lãnh thổ nước ta. Các đô thị
này thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu, còn kinh tế kém phát triển. Sự nổi bật
của thời kỳ này là hệ thống quản lý đô thị kiểu Pháp được hình thành. Nhà cửa và cơ sở
hạ tầng được quy hoạch, đường sá được mở mang, môi trường được cải thiện. Các hoạt
động thương mại và sản xuất đi vào chuyên môn hóa cao hơn. Các tầng lớp xã hội đô thị
hình thành rõ nét như thương nhân, trí thức, viên chức.
Từ sau 1954, đất nước ta tạm thời chia làm 2 miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Sự
phát triển kinh tế ở miền Bắc được tiến hành theo hướng "ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ...". Các đô thị được xây dựng theo kiểu tầng
bậc rải đều trên khắp lãnh thổ nhằm xóa bỏ dần sự cách biệt giữa các vùng, giữa nông
thôn và thành thị, miền xuôi và miền ngược... Chiến lược phát triển đô thị là kết hợp chặt
chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Thời kỳ này tại các đô thị, hệ
thống công trình phúc lợi công cộng tương đối hoàn chỉnh như trường học, bệnh viện,
công viên, nhà máy sản xuất nước sạch, viện bảo tàng, nhà hát... Những thành phố mới
được xây dựng trong thời kỳ chống Mỹ như Việt Trì, Thái Nguyên, Uông Bí...
Trong khi đó miền Nam đi theo một chiến lược đô thị khác. Các đô thị miền Nam hình
thành nhanh chóng nhờ có sự viện trợ của Mỹ cùng với những căn cứ quân sự, các thị tứ
hình thành cùng với các ấp chiến lược. Mục tiêu chủ yếu của các đô thị là phục vụ cho bộ
máy quân sự của Mỹ. Khu công nghiệp duy nhất là khu công nghiệp Biên Hòa. Thành
phố được đầu tư chủ yếu là Sài Gòn với đầy đủ các công trình phúc lợi. Các đô thị khác
thực chất là các đô thị quân sự và hành chính.
Sau 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, hệ thống đô thị hai miền Nam - Bắc có
những khác nhau về cấu trúc đô thị. Để phù hợp với tiến trình chung của cả nước, chúng
ta phải tiến hành điều chỉnh từ sự phân bố các khu công nghiệp cho đến phân bố dân cư
trên lãnh thổ nhằm đạt được sự phân bố lực lượng sản xuất hợp lý. Hệ thống đô thị hình
thành, chức năng từng đô thị được xác định nhằm khai thác tiềm năng của từng đô thị.
Đánh giá chung là hệ thống đô thị của ta rải đều trên khắp lãnh thổ với đủ các loại hình:
đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp, song
quy mô còn nhỏ bé.
Hiện nay, mạng lưới đô thị cả nước được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị
trung tâm, gồm 5 thành phố trung tâm cấp quốc gia như: Thủ đô Hà Nội, các thành phố
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; 14 thành phố trung tâm cấp vùng như: các
thành phố Mỹ Tho, Biên Hoà, Vũng Tầu, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Quy
Nhơn, Huế, Vinh, Thanh Hóa, Nam Định, Hạ Long, Việt Trì, Thái Nguyên; các thành
phố, thị xã tỉnh lỵ khác; các đô thị trung tâm cấp huyện, bao gồm các thị trấn huyện lỵ và
các thị xã là vùng trung tâm chuyên ngành của tỉnh và các đô thị trung tâm cấp tiểu vùng,
bao gồm các thị trấn là trung tâm các cụm khu dân cư nông thôn hoặc là các đô thị vệ
tinh trong các vùng ảnh hưởng của đô thị lớn.
Các đô thị trung tâm các cấp được phân bố hợp lý trên 10 vùng đô thị hoá đặc trưng của
cả nước là: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng; vùng kinh tế trọng
điểm Nam Bộ và Đông Nam bộ; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Trung Trung
Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng Nam Trung Bộ (Bình Định - Phú Yên, Ninh
Thuận, Bình Thuận); vùng Tây Nguyên; vùng Bắc trung bộ (Thanh Hoá - Nghệ An - Hà
Tĩnh); vùng Cao Bằng – Bắc Cạn – Thái Nguyên - Lạng Sơn - Bắc Giang - Bắc Ninh;
vùng Lào Cai, Yên Bái - Hà Giang - Tuyên Quang - Vĩnh Phú và vùng Tây Bắc [3, tr 18].
2. Những đặc điểm của đô thị ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra ngày càng nhanh hơn,
mạnh hơn. Hệ thống các đô thị không chỉ tăng về số lượng mà xu hướng liên kết giữa các
đô thị để mở rộng phạm vi hoạt động, giải quyết những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội
mà trước hết là các hoạt động thương mại, dịch vụ, bảo vệ môi trường, tổ chức cung ứng
dịch vụ công... cũng đanh phát triển mạnh. Sự khẳng định hệ thống đô thị trong văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước; sự tồn tại phát triển thực tế của Hiệp hội đô thị Việt
Nam là những minh chứng trong số rất nhiều những minh chứng sống động cho xu
hướng liên kết này. Kể từ những đô thị đầu tiên ra đời cho đến nay, các đô thị đã và đang
ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong hệ thống các đơn vị hành chính
ở nước ta. Nhiều đô thị không chỉ nổi tiếng về sự cổ kính hay nét văn hóa thanh lịch đã
được ghi nhận trong sử sách bởi những đường nét độc đáo của kiến trúc hay hàm chứa
trong nó di sản văn hóa thế giới mà còn nổi tiếng bởi nơi đó đã được chọn làm nơi tổ
chức những hội nghị quốc tế quan trọng, nơi diễn ra những hoạt động văn hóa, thể thao
sôi động của khu vực và châu lục. Đô thị Việt Nam mang những đặc điểm chính sau đây:
Một là, các đô thị là trung tâm chính trị, trung tâm kinh tế, hoặc trung tâm văn hóa, giáo
dục, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao thông quan trọng... của cả nước, của khu vực, của
một tỉnh, một huyện. Đô thị cũng là nơi tập trung các cơ quan nhà nước từ trung ương
xuống địa phương, là đầu mối của nhiều cấp, nhiều ngành quản lý đồng thời tồn tại
nhưng thiếu sự phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước và chưa đáp ứng được yêu cầu
và phương thức quản lý hành chính đô thị.
Hai là, đô thị là nơi tập trung dân cư đông đúc hơn so với khu vực nông thôn và dân đô
thị là dân tứ xứ được tụ tập từ nhiều vùng, miền khác nhau vì những mục tiêu khác nhau,
có cuộc sống khá độc lập với nhau, điều này khác với nông thôn.
Ba là, dân cư phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ không lớn lắm;
Bốn là, đô thị là nơi tập trung các cơ sở hạ tầng vật chất quan trọng, như giao thông, liên
lạc, viễn thông, điện nước, công trình xây dựng... Tuy nhiên, so với sự phát triển của đô
thị hiện đại trên thế giới thì cơ sở hạ tầng của nhiều thành phố, thị xã vẫn chưa ngang tầm
với các đô thị trên thế giới.
Năm là, lối sống đô thị là lối sống hợp cư, luôn biến động, hầu như không có sự liên kết
về huyết thống, tập quán, truyền thống... luôn tôn trọng những chuẩn mực có tính pháp lý
hơn là những quy tắc có tính cộng đồng.
Sáu là, người dân đô thị có trình độ chuyên môn cao hơn nông thôn;
Bẩy là, phân chia địa giới hành chính trong các đô thị không có ý nghĩa lớn đối với dân
cư, người dân có thể ở một nơi làm việc ở nơi khác.
Tám là, bên cạnh đó, đô thị cũng là nơi phát sinh nhiều vấn đề xã hội, thất nghiệp, tình
trạng tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội và hàng loạt vấn đề xã hội khác luôn nảy sinh, luôn
quá tải của các trường học, bệnh viện, giao thông đô thị...
Từ những đặc điểm chính nêu trên, mỗi đô thị ở Việt Nam dù nhỏ hay lớn đều là một đơn
vị hành chính lãnh thổ thống nhất, không thể chia cắt về mặt lãnh thổ, kết cấu hạ tầng và
các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn mỗi đô thị. Đặc điểm này quy định nội dung,
phương thức quản lý nhà nước ở đô thị và do đó chi phối trực tiếp mô hình tổ chức chính
quyền đô thị theo hướng tập trung, thống nhất, không được phân cắt thành nhiều tầng,
cấp khác nhau; quản lý điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội phải thống nhất, xuyên
suốt, nhanh nhạy, có hiệu lực cao.
Hơn nữa, chất lượng dịch vụ ở đô thị thường tốt hơn ở nông thôn; dân cư đô thị được hợp
thành từ nhiều vùng, miền khác nhau, không có sự gắn kết chặt chẽ theo dòng tộc, cộng
đồng tự quản như ở nông thôn; trong sinh hoạt và làm ăn hàng ngày, họ không bị giới hạn
khép kín theo phạm vi đơn vị hành chính quận, phường. Do đó chính quyền đô thị phải
thể hiện được ý chí, nguyện vọng và quyền quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội trên
phạm vi toàn đô thị.
Mặt khác, ở tại các đô thị vẫn có sự đan xen giữa khu vực đã đô thị hóa với các khu vực
ngoại vi (đang được đô thị hóa) vẫn còn mang nhiều nét, nhiều yếu tố nông thôn (về kết
cấu hạ tầng, kiến trúc xây dựng, hoạt động kinh tế xã hội, cách sinh hoạt, lối sống...),
hoặc là các đơn vị hành chính nông thôn trực thuộc. Nên tại các đô thị cần phải phân biệt
sự khác nhau về mô hình tổ chức và phương thức quản lý của bộ máy chính quyền đô thị
ở những khu vực này.
Trong những năm gần đây, nhìn chung số lượng đô thị ở Việt Nam tăng nhanh ở tất cả
các loại đô thị, nhất là các thành phố thuộc tỉnh và thị trấn. Tuy nhiên các tiêu chí về quy
mô đô thị, kinh tế xã hội, cơ cấu kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật,... chưa đạt được
các tiêu chí xếp loại về đô thị. Với tốc độ tăng dân số, đặc biệt là dân số tăng cơ học lớn
đã làm cho hệ thống giao thông công cộng, điện nước, điện thoại trở lên bất cập, tình
trạng ô nhiễm tại các đô thị diễn ra ngày một nghiêm trọng. Cùng một loại đô thị thì diện
tích của các loại đô thị là rất khác nhau. Nhiều loại đô thị loại thấp có diện tích lớn gấp
nhiều lần các đô thị ở loại cao, không chỉ ở loại liền kề mà thậm chí cả với các đô thị loại
cao hơn...
Một số vấn đề về đô thị hóa và quá trình đô thị hóa
ThS. Phan Anh Hồng –GV HVHCQG
1. Vài nét về Phân loại đô thị
Ngày nay, có nhiều cách tiếp cận đối với việc phân loại đô thị tùy thuộc vào các mục tiêu,
mục đích khác nhau của việc phân loại đô thị. Theo cách tiếp cận của các nhà quản lý,
phân loại đô thị là họat động của các cơ quan chức năng của nhà nước, nghiên cứu, đánh
giá các yếu tố cấu thành tạo nên đô thị theo một tiêu chuẩn nhất định, nhằm xếp loại các
đô thị trong mạng lưới đô thị quốc gia. Mục đích của hoạt động này nhằm xác lập cơ sở
cho việc tổ chức, sắp xếp và phát triển hệ thống đô thị trong cả nước; phân cấp quản lý
đô thị; lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị và xây dựng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật, các tiêu chuẩn, chính sách và cơ chế quản lý phát triển đô thị.
Việc phân loại đô thị dựa trên các tiêu chí: quy mô dân số, vị trí của các đô thị trong hệ
thống đô thị quốc gia; theo chức năng hành chính – chính trị; theo cấp hành chính – chính
trị; theo tính chất sản xuất, thương mại, du lịch; hoặc theo tổng hợp.
- Phân loại đô thị theo quy mô dân số: Đô thị nhỏ (2000 – 4000 người), đô thị trung bình
(20000 – 100000 người), đô thị lớn (100.000 – 500.000 người), đô thị loại rất lớn (trên 1
triệu người), siêu đô thị (trên 10 triệu người).
- Dựa vào chức năng hành chính – chính trị mà đô thị phân thành: Thủ đô (quốc gia hay
bang), thủ phủ bang, tỉnh lỵ, huyện lỵ.
- Phân loại theo cấp hành chính – chính trị có thể là:
+ Đô thị loại đặc biệt – là thủ đô hay thành phố có sự phát triển nhanh và có vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Đô thị cấp tỉnh;
+ Đô thị cấp huyện;
+ Đô thị cấp xã.
Tuy nhiên, do tính chất tập trung hay phân chia quyền lực của cấp chính quyền khác nhau
của các nước; hoặc do thể chế chính trị – hành chính của các quốc gia khác nhau quy
định, các đô thị cấp nhỏ hơn có thể trực thuộc hoặc không trực thuộc vào cấp hành chính
địa phương lớn hơn.
- Phân loại theo tính chất sản xuất có thể có đô thị công nghiệp, đô thị thương mại, đô thị
tài chính, đô thị văn hóa, đô thị du lịch...
- Phân loại theo vị trí vai trò và mức độ ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế – xã hội:
+ Đô thị có vai trò ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, đào tạo, du lịch dịch vụ, đầu mối giao
thông giao lưu trong nước và quốc tế.
+ Đô thị có vai trò thúc đẩy kinh tế – xã hội của vùng, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu
trong và ngoài nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế – xã hội của một vùng
lãnh thổ, liên tỉnh hoặc cả nước.
+ Đô thị có vai trò thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với
vùng liên tỉnh.
+ Đô thị có vai trò thúc đẩy nền kinh tế – xã hội của một vùng, một địa phương, một số
lĩnh vực liên địa phương hoặc trung tâm phát triển tổng hợp của một địa phương.
Phân loại đô thị tổng hợp là sự phân loại dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau như vai trò
trung tâm (chủ yếu), tiêu chí dân số, lao động phi nông nghiệp, hạ tầng cơ sở, mật độ cư
trú.
Ở Việt Nam, dựa vào các tiêu chí trên, theo Nghị định 72/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của
Chính phủ về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, các đô thị được phân ra thành 6
loại khác nhau, mỗi đô thị (trừ đô thị loại 5) đều có vùng ngoại ô là một phần đất đai của
đô thị nằm trong giới hạn hành chính của đô thị.
Những yếu tố để phân loại đô thị ở Việt Nam theo Nghị định 72/NĐ-CP ngày 05/10/2001
của Chính phủ cụ thể như sau:
- Chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động tối thiểu là 65%;
- Cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn,
quy chuẩn quy định đối với từng loại đô thị;
- Quy mô dân số ít nhất là 4.000 người;
- Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị.
Trên cơ sở 5 yếu tố cơ bản để phân loại đô thị, theo Nghị định 72, các đô thị Việt Nam
hiện nay được phân thành 6 loại, gồm: Đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I, đô thị loại II, đô
thị loại III, đô thị loại IV và đô thị loại V.
Về cấp quản lý đô thị gồm:
- Thành phố trực thuộc Trung ương;
- Thành phố thuộc tỉnh; thị xã thuộc tỉnh hoặc thị xã thuộc thành phố trực thuộc Trung
ương;
- Thị trấn thuộc huyện.
Theo quy định tại Nghị định này, các thành phố trực thuộc trung ương là đô thị đặc biệt
hoặc đô thị loại I; các thành phố thuộc tỉnh là đô thị loại II hoặc loại III; các thị xã thuộc
tỉnh hoặc thuộc thành phố trực thuộc trung ương phải là đô thị loại III hoặc đô thị loại IV;
các thị trấn thuộc huyện phải là đô thị loại IV hoặc đô thị loại V.
2. Đô thị hóa và quá trình đô thị hóa
Đô thị hóa là một quá trình biến đổi các khu vực lãnh thổ trở thành đô thị. Đô thị hóa là
quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình thành nhanh chóng các điểm dân cư
đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời sống. Việc tập trung dân cư vào các đô thị, mở
rộng mạng lưới đô thị trên quy mô lớn đến các vùng ngoại ô nông thôn để nhằm biến đổi
cuộc sống thành thị theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển
thương mại và giao lưu quốc tế. Đô thị hóa gắn liền với nhu cầu phát triển lực lượng sản
xuất, thay đổi các hình thái quan hệ xã hội, với tiến bộ của cách mạng khoa học kỹ thuật.
Sự phát triển đô thị, một mặt mở rộng quy mô, số lượng dân số, mặt khác gắn liền với
những biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội ở đô thị trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao
thông vận tải, xây dựng, dịch vụ.
Quá trình đô thị hóa là quá trình gắn bó chặt chẽ với quá trình công nghiệp hóa đất nước,
do vậy đô thị hóa thường được coi là bạn đồng hành của công nghiệp hóa. Quá trình đô
thị hóa làm biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh
hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc xây dựng từ dạng nông thôn sang thành
thị.
Mức độ đô thị hóa được tình bằng tỷ lệ phần trăm số dân đô thị so với tổng số dân trên
phạm vi toàn quốc hoặc trong vùng. Đồng thời, còn được tính bằng mức độ nâng cao chất
lượng cuộc sống của cư dân đô thị, chất lượng môi trường đô thị, chất lượng dịch vụ đô
thị.
Tốc độ đô thị hóa của một thời kỳ được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên một năm kết qủa
của số dân đô thị cuối kỳ trừ đi số dân đô thị đầu kỳ so với số dân đô thị đầu kỳ nhân với
số năm giữa hai kỳ kỳ thống kê.
Đối với các nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, khoa học, công nghiệp, chất lượng
đô thị hóa được phát triển theo chiều sâu. Cuộc sống của cư dân đô thị được nâng cao về
mọi mặt, với chất lượng bảo đảm, ổn định, môi trường đô thị được sạch sẽ, trong lành,
các tiêu cực hạn chế ở mức tối thiểu. Do đó, mức độ tăng trưởng của đô thị hóa tương
ứng với phát triển công nghiệp. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, một trong những
đặc trưng của đô thị hóa là sự tăng nhanh dân số đô thị chủ yếu mang tính cơ học, không
hoàn toàn dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp, dịch vụ; sự gia tăng dân số nhanh trong
sự phát triển chậm chạp, yếu kém của công nghiệp làm cho quá trình đô thị hóa và công
nghiệp hóa mất cân đối, sự mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn tăng lên. Giữa đô thị và
nông thôn có sự chênh lệch rất khác nhau về đời sống, tạo ra sức hút mạnh mẽ từ đô thị
đối với cư dân nông thôn, dẫn đến việc di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị, đặt biệt là
các đô thị lớn, làm cho các đô thị này trở lên quá tải, gây mất cân đối trong phát triển hệ
thống dân cư, tạo ra những khó khăn trở ngại to lớn trong hoạt động quản lý của chính
quyền đô thị về mọi phương diện.
Đô thị hóa gắn liền với tăng trưởng đô thị. Tăng trưởng đô thị được định nghĩa là sự tăng
dân số của các thành phố. Đối với mỗi thành phố xác định, tốc độ đô thị hóa cũng chính
là tốc độ tăng trưởng đô thị hay cũng chính là tốc độ tăng dân số đô thị. Nếu năm 1800
chỉ có 3,2% dân số thế giới sống trong các đô thị, năm 1900 có 14%, năm 1980 là 46,2%,
năm 2008 dự kiến là khoảng 3,3 tỷ người (hơn 50% dân số thế giới) sẽ tới sinh sống tại
các đô thị.
Sự quá tải tại các đô thị do sức ép dân số tạo ra đã làm cho các vấn đề kinh tế xã hội của
đô thị chuyển biến phức tạp, làm cho hạ tầng xuống cấp nhanh chóng, đặc biệt là sự quá
tải về nhà ở, đất ở, nước sạch, và vệ sinh môi trường ngày càng trầm trọng. Nhưng do
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển trên quy mô lớn ở đô thị đòi hỏi phải mở
rộng quy mô các thành phố cũ hoặc xây dựng thêm các thành phố mới để phát triển sản
xuất và giao lưu buôn bán với bên ngoài, đô thị hút được nhiều sức lao động trong nông
nghiệp để chuyển vào thành thị tham gia vào các hoạt động phát triển công nghiệp, dịch
vụ, thương mại. Quá trình đô thị hóa có tác dụng thúc đẩy nền sản xuất hiện đại và nhu
cầu dịch vụ tại các đô thị. Đây là một quá trình tiến bộ vì nó đưa con người tiếp cận được
với xã hội văn minh hiện đại tại các đô thị, nâng cao trình độ dân trí và ý thức con người
lên một tầm nhận thức mới.
Phân loại đô thị ở Việt Nam
ThS.Phan Anh Hồng – GV HVHCQG
Theo Nghị định 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ về việc Phân loại đô thị
và cấp quản lý đô thị. Các đô thị của Việt Nam được phân loại theo những tiêu chuẩn như
sau:
Đô thị loại đặc biệt phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây:
- Thủ đô hoặc đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ
thuật, đào tạo, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có
vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 90% trở lên;
- Có cơ sở hạ tầng được xây dựng về cơ bản đồng bộ và hoàn chỉnh;
- Quy mô dân số từ 1,5 triệu người trở lên;
- Mật độ dân số bình quân từ 15.000người/km2 trở lên.
Đô thị loại I phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây :
- Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch,
dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc của cả nước;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 85% trở lên;
- Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt đồng bộ và hoàn chỉnh;
- Quy mô dân số từ 50 vạn người trở lên;
- Mật độ dân số bình quân từ 12.000 người/km2 trở lên.
Đô thị loại II phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây :
- Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch,
dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai
trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh
vực đối với cả nước;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80% trở lên;
- Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh;
- Quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên;
- Mật độ dân số bình quân từ 10.000 người/km2 trở lên.
Đô thị loại III phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây :
- Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, dịch vụ,
đầu mối giao thông, giao lưu trong tỉnh hoặc vùng liên tỉnh, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 75% trở lên;
- Có cơ sở hạ tầng được xây dựng từng mặt đồng bộ và hoàn chỉnh;
- Quy mô dân số từ 10 vạn người trở lên;
- Mật độ dân số bình quân từ 8.000 người/km2 trở lên.
Đô thị loại IV phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây :
- Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành về chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong tỉnh, có vai trò thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một vùng trong tỉnh;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 70% trở lên;
- Có cơ sở hạ tầng đã hoặc đang được xây dựng từng mặt đồng bộ và hoàn chỉnh;
- Quy mô dân số từ 5 vạn người trở lên;
- Mật độ dân số bình quân từ 6.000 người/km2 trở lên.
Đô thị loại V phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau đây :
- Đô thị với chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành về chính trị, kinh tế, văn
hoá và dịch vụ, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một huyện hoặc một
cụm xã;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 65% trở lên;
- Có cơ sở hạ tầng đã hoặc đang được xây dựng nhưng chưa đồng bộ và hoàn chỉnh;
- Quy mô dân số từ 4.000 người trở lên;
- Mật độ dân số bình quân từ 2.000 người/km2 trở lên.
Theo số liệu điều tra tính đến tháng 5 năm 2006, Việt Nam có 681 đô thị gồm 5 thành
phố trực thuộc Trung ương; 30 thành phố thuộc tỉnh, 58 thị xã; và 588 thị trấn [11, tr 9].
Phân loại đô thị theo loại đô thị:
- Đô thị loại đặc biệt, có 2 thành phố là: Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Đô thị loại I, có 3 thành phố là: Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế.
- Đô thị loại II, có 14 thành phố là: Cần Thơ; Thái Nguyên; Hạ Long; Việt Trì; Nam
Định; Thanh Hóa; Vinh; Quy Nhơn; Nha Trang; Buôn Mê Thuột; Đà Lạt; Biên Hòa;
Vũng Tàu; Mỹ Tho.
- Đô thị loại III có 31 là các thành phố, thị xã: Lào Cai; Điện Biên Phủ; Yên Bái; Lạng
Sơn; Bắc Giang; Bắc Ninh; Hà Đông; Hải Dương; Thái Bình; Ninh Bình; Đồng Hới;
Quảng Ngãi; Tuy Hòa; Phan Rang; Phan Thiết; Pleiku; Long Xuyên; Sóc Trăng; Rạch
Giá; Cà Mau; Sơn La; Hòa Bình; Cẩm Phả; Vĩnh Yên; Sơn Tây; Đông Hà; Tam Kỳ; Hội
An; Kon Tum; Cao Lãnh; Sa Đéc.
- Đô thị loại IV có 41 thị xã và 01 thị trấn
- Đô thị loại V có 587 thị trấn.
Phân loại theo đơn vị hành chính lãnh thổ:
- Đơn vị hành chính lãnh thổ cấp tỉnh. Hiện có 3 loại đô thị là các thành phố trực thuộc
Trung ương:
+ Đô thị loại đặc biệt: 2 thành phố là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đô thị loại 1: 2 thành phố Hải Phòng và Đà Nẵng.
+ Đô thị loại 2: 1 thành phố là Cần Thơ.
+ Các thị xã và thành phố thuộc tỉnh:
- Đơn vị hành chính lãnh thổ cấp huyện. Hiện có 4 loại đô thị là các thành phố, thị xã
thuộc tỉnh:
+ Đô thị loại 1: có 1 thành phố Huế.
+ Đô thị loại 2: có 13 thành phố: Thái Nguyên; Hạ Long; Việt Trì; Nam Định; Thanh
Hóa; Vinh; Quy Nhơn; Nha Trang; Buôn Mê Thuột; Đà Lạt; Biên Hòa; Vũng Tàu; Mỹ
Tho.
+ Đô thị loại 3: Có 31 đô thị gồm 17 thành phố và 14 thị xã.
+ Đô thị loại 4: có 43 đô thị là thị xã.
- Đơn vị hành chính lãnh thổ cấp xã. Hiện có 2 loại đô thị là các thị trấn:
+ Đô thị loại 4: có 1 đô thị đó là thị trấn Hồng Ngự
+ Đô thị loại 5: có 587 đô thị bao gồm các thị trấn đã có quyết định xếp loại và chưa có
quyết định xếp loại.
Nhìn chung, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại nhiều cách xếp loại đô thị, trong đó có
những cách xếp loại không có tiêu chí rõ ràng, dẫn đến sự chồng chéo, lộn xộn, cụ thể là
sự phân loại đô thị là thị xã và thành phố thuộc tỉnh. Cùng là đô thị loại III, nhưng có đô
thị là thị xã, có đô thị là thành phố. Liên quan đến cấp quản lý thì cùng là đô thị loại II, có
đô thị là thành phố thuộc trung ương, có đô thị là thành phố thuộc tỉnh; hoặc cùng là đô
thị loại I, có đô thị là thuộc Trung ương quản lý, có đô thị thuộc tỉnh quản lý (thành phố
Huế).
Một số vấn đề về Đô thị loại II ở Việt Nam
ThS.Phan Anh Hồng – GV HVHCQG
1. Khái quát về đô thị loại II ở Việt Nam
Mạng lưới đô thị loại II ở Việt Nam hiện có 14 đô thị, nằm rải rác từ Bắc vào Nam. Các
đô thị loại II đều trở thành các đô thị trung tâm cấp vùng như: các thành phố Cần Thơ,
Biên Hoà, Vũng Tầu, Nha Trang, Buôn Mê Thuột, Đà Lạt, Vinh, Nam Định, Hạ Long,
Việt Trì, Thái Nguyên; Các đô thị cấp được phân bố hợp lý trên 10 vùng đô thị hoá đặc
trưng của các nước là: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng; vùng
kinh tế trọng điểm Nam Bộ và Đông Nam bộ; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và
Trung Trung Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng Nam Trung Bộ (Bình Định - Phú
Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận); vùng Tây Nguyên; vùng Bắc trung bộ (Thanh Hoá Nghệ An - Hà Tĩnh); vùng Cao Bằng - Lạng Sơn - Hà Bắc - Bắc Thái; vùng Lào Cai, Yên
Bái - Hà Giang - Tuyên Quang - Vĩnh Phú và vùng Tây Bắc.
2. Những đặc trưng cơ bản về cấp chính quyền
Đô thị loại II là cấp chính quyền tỉnh: Hiện nay, ở Việt Nam có một đô thị loại II là thành
phố trực thuộc trung ương (thành phố Cần Thơ). Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003, tổ chức bộ máy chính quyền thành phố được tổ chức thành 3 cấp, có cơ cấu
hoàn chỉnh (gồm HĐND và UBND) ở cả nội thành và ngoại thành là thành phố, quận,
phường trong nội thành và huyện, xã, thị trấn ở ngoại thành. Số lượng các đơn vị hành
chính của thành phố Cần thơ hiện nay gồm 4 quận nội thành và 4 huyện ngoại thành với
tổng số 30 phường, 4 thị trấn và 33 xã. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố
có tên gọi là các sở, ban, ủy ban, văn phòng được tổ chức và hoạt động theo các quy định
tại Nghị định 171/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Các cơ quan chuyên môn của UBND
quận, huyện có tên gọi là phòng, ban, ủy ban, văn phòng được tổ chức và hoạt động theo
các quy định tại Nghị định 172/2004/NĐ-CP. Việc tổ chức ra bộ máy quản lý ở đô thị
loại II – là thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào cấp hành chính mà không căn cứ
vào loại đô thị. Tại các đô thị này, cấp xã (xã, phường, thị trấn) là cấp cơ sở, cấp toàn
thành phố chỉ đạo, quản lý cấp cơ sở thông qua cấp chính quyền huyện (quận trong nội
đô và huyện ở ngoại thành).
Đô thị loại II là cấp chính quyền tương đương huyện được tổ chức thành 2 cấp là cấp toàn
thành phố và cấp xã (xã ở ngoại thành và phường ở trong nội thị) với cơ cấu hoàn chỉnh
(HĐND và UBND). Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố căn cứ
dựa trên các quy định tại Nghị định 172/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Các cơ quan
chuyên môn của UBND thành phố được thiết lập với tên gọi là các phòng, ủy ban, thanh
tra, văn phòng, với tổng số không vượt quá 15 đầu mối. Chính quyền toàn thành phố trực
tiếp chỉ đạo, quản lý đối với cấp cơ sở.
3. Đặc trưng cơ bản của đô thị loại II
- Về quy mô diện tích:
Các thành phố - đô thị loại II, có diện tích chênh lệch nhau, diện tích lớn nhất là thành
phố Cần Thơ với 1390 km2, Hạ Long với 636,11 km2, bé nhất là thành phố Nam Định
46,33 km2.
Như vậy, cùng là đô thị loại II nhưng diện tích của các đô thị rất khác nhau. Có sự chênh
lệch rất lớn về diện tích giữa các đô thị này. Sự chênh lệch về diện tích của các đô thị
được thể hiện rõ rệt giữa miền Bắc và miền Nam. Các đô thị Tây Nguyên và miền Nam
có diện tích lớn hơn các đô thị ở miền Bắc.
Mặc dù diện tích không phải là tiêu chí để xếp loại đô thị, nhưng những đô thị có diện
tích quá nhỏ không tương xứng với loại đô thị, sẽ ảnh hưởng tới xu hướng phát triển của
đô thị trong tương lai và tới vị trí chức năng của đô thị đối với vùng lãnh thổ xung quanh.
Đây là vấn đề cần được xem xét để điều chỉnh cho phù hợp với loại đô thị khi thành lập,
nâng cấp và phát triển đô thị, cũng như khi xếp loại đô thị, thiết lập bộ máy quản lý của
đô thị sao cho có hiệu lực hiệu quả cao nhất.
- Về quy mô dân số đô thị:
Dân số ở Việt Nam hiện nay khoảng trên 83 triệu người, trong đó dân số đô thị chiếm
trên 22,4%. Năm 2002 tỷ lệ dân số đô thị là 20%, năm 2003 là 20,9%, năm 2004 là
21,7% và năm 2005 là 22,4%. Như vậy tỷ lệ tăng dân số trung bình ở đô thị là khoảng
0,8%/năm.
Có 8 thành phố trong tổng số 14 thành phố có số dân trên 250.000 dân, chiếm tỷ lệ
57,14%, trong đó có những đô thị có số dân lớn như: thành phố Cần Thơ với 1.141.653
người, thành phố Biên Hòa với 541.495 dân, thành phố Nha Trang với 360.496 dân,
Buôn Ma Thuột với 320.362 dân. Có 3 thành phố có số dân từ 200.000 đến dưới 250.000
dân chiếm tỷ lệ 21,43%, còn lại là các thành phố có số dân dưới 200.000 dân. Với quy
mô dân số như trên, các thành phố trực thuộc trung ương đạt được tiêu chí về dân số theo
kết quả loại đô thị đang được xếp hạng.
- Mật độ dân số:
Đối với đô thị loại II là Cần Thơ là 811 người/km 2 trong đó mật độ dân số nội thị là 3.498
người/km2; Mỹ Tho có mật độ dân số nội thị là 14.182 người/km 2; Thanh Hóa có mật độ
dân số nội thị là 15000 người/km 2; Việt Trì có mật độ dân số nội thị 1979 người/km 2; Hạ
Long có mật độ dân số nội thị 884 người/km2; Vũng Tàu là 1740 người/km2; Biên Hòa có
mật độ 3471 người/km2; Đà Lạt là 486 người/km2; Buôn Ma Thuột là 862 người/km2;
Nha Trang là 1436 người/km 2; Quy Nhơn 1175 người/km 2; Vinh 4063 người/km2; Nam
Định 5295 người/km2; Thái Nguyên là 1456 người/km2;
Theo quy định của Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2001 của Chính
phủ thì các đô thị loại II là trên 10.000 người/km 2. Căn cứ vào số lượng nêu trên, chỉ có
Mỹ Tho và Thanh Hóa là đạt tiêu tiêu chí xếp loại về mật độ dân số, các thành phố còn
lại đều không đạt tiêu chí này. Các đơn vị còn lại do chưa tách được phần mật độ dân số
nội thị nên khó đánh giá. Tuy nhiên việc tách riêng phần mật độ dân số nội thị để lấy làm
tiêu chí xếp loại đô thị là chưa hợp lý, bởi các đô thị hiện đại, phần nội thị và ngoại thành
có mối quan hệ hữu cơ với nhau khó có thể tách rời. Trong điều kiện hiện đại, ở nhiều
thành phố hiện nay các cư dân sinh sống trong nội thị đang có xu hướng dịch chuyển ra
sống ở ngoại thành, nên việc đưa tiêu chí mật đô dân cư mà chỉ tính nội thị là sẽ không
còn thích hợp.
Từ số liệu điều tra cho thấy, có những đô thị không đạt tiêu chí xếp loại đô thị về quy mô
dân số hoặc mật độ dân số đô thị, thậm chí có những đô thị không đạt cả hai tiêu chí này.
Mặt khác, theo Thông tư liên tịch số 02/2002/TTLT-BXD-BTCCBCP hướng dẫn xếp
loại đô thị thì tỷ lệ tăng dân số của mỗi đô thị đã được ấn định và với lời yêu cầu là "mức
tăng dân số tự nhiên phải đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch hóa phát triển dân số của mối địa
phương". Với quy định như vậy các thành phố đạt mức độ tăng dân số cao hơn các tỷ lệ
đã ấn định thì đạt tiêu chí xếp loại. Điều này đã vô hình chung khuyến khích việc tăng
dân số tự nhiên của các đô thị, trái với chủ trương thực hiện sinh đẻ có kế hoạch của Nhà
nước.
- Về quy mô đơn vị hành chính:
Đô thị loại II là thành phố trực thuộc trung ương: thành phố Cần Thơ có 4 quận, 4 huyện
với tổng số 30 phường, 4 thị trấn và 33 xã.
Đối với đô thị loại II là thành phố thuộc tỉnh đều có trên 10 đơn vị hành chính trực thuộc,
trong đó có 10 đô thị có 20 đơn vị hành chính trực thuộc trở lên như thị xã Cam Ranh có
27 đơn vị, thành phố Nha Trang có 27 đơn vị, thành phố Biên Hòa có 26 đơn vị. Các đơn
vị hành chính trực thuộc các đô thị loại II là thành phố trực thuộc tỉnh gồm các đơn vị
hành chính đô thị - phường và đơn vị hành chính nông thôn - xã. Cụ thể gồm 13 thành
phố có số phường là 190 chiếm 71,16% và số xã là 77 chiếm 28,84%.
Đa số các đô thị loại II vẫn còn số đơn vị hành chính nông thôn tương đối lớn. Đây là vấn
đề cần lưu ý trong việc tổ chức bộ máy quản lý và công tác quản lý của các thành phố.
Bởi vì sự tồn tại của các đơn vị hành chính này kéo theo nhiều vấn đề đặc thù có ảnh
hưởng tới tổ chức bộ máy và công tác quản lý, đánh giá phân loại đô thị. Việc tồn tại các
đơn vị hành chính nông thôn đã làm cho việc quản lý các đô thị trở lên đan xen, không
thuần nhất, khá phức tạp và mang nặng dấu ấn của quản lý nông thôn. Dẫn đến trong việc
thiết kế bộ máy tổ chức quản lý, cũng như các hoạt động quản lý tại các đô thị hiện nay
gặp nhiều khó khăn, không tạo được các động lực cần thiết trong việc phát triển đô thị.
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
Các thành phố đô thị loại II có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên có 11 thành
phố, chiếm 78,57%; các thành phố có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp dưới 80% có 3
thành phố, chiếm 21,43%, bao gồm Quy Nhơn, Việt Trì, Thái Nguyên.
Tuy nhiên nếu tách riêng phần nội thị thì tỷ lệ này có thể sẽ đạt rất cao, thậm chí sẽ đạt
được 100%, bởi các thành phố này đều là các thành phố phát triển, không còn quỹ đất
dành cho sản xuất nông nghiệp, nên không thể có lao động nông nghiệp được. Chính vì
vậy, trong điều kiện đô thị phát triển, cách tính tỷ lệ lao động phi nông nghiệp theo
Thông tư số 02/TTLT-BXD-BTCCBCP, để xem như một tiêu chí phân loại đô thị là
không còn hợp lý.
Từ các số liệu được phân tích ở trên cho thấy tỷ lệ các đô thị đạt tiêu chí về tỷ lệ phi nông
nghiệp theo các loại đô thị là chưa cao. Số lượng đô thị chưa đạt được tiêu chí này theo
quy định là 21,43%. Số các đô thị không đạt tiêu chí này là khá cao. Kết hợp với tiêu chí
quy mô dân số và mật độ dân số, cho thấy có khá nhiều đô thị đã được xếp loại nhưng
trên thực tế đã không đạt được các tiêu chí xếp loại so với loại đô thị được xếp.
- Thu nhập bình quân đầu người
Nhìn chung thu nhập bình quân đầu người của các thành phố là đô thị loại II đều đạt ở
những vị trí cao đối với các đô thị trong toàn quốc. Tuy nhiên so với tiêu chí xếp loại (các
thành phố là đô thị loại II phải đạt mức thu nhập bình quân đầu người 600 USD), thì hiện
có 13/14 thành phố đạt và vượt tiêu chí này, chiếm 92,85%, chỉ có thành phố Đà Lạt mới
đạt 8,8 triệu/người/năm, tương đương với 550 USD.
- Về tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tất cả các thành phố là đô thị loại II đều đạt tốc độ tăng trưởng trên 10%, trong đó điển
hình có thành phố Thanh Hóa đạt mức tăng trưởng kinh tế 20%; Cần Thơ đạt mức
16,18%; Vinh đạt mức tăng trưởng 15,5%; các thành phố Hạ Long, Biên Hòa, Buôn Ma
Thuột đạt mức tăng trưởng từ 14% đến dưới 15%; các thành phố khác đều đạt từ 11% trở
lên, riêng với thành phố Nam Định thì chỉ có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,75%.
- Cơ sở hạ tầng
- Nhìn chung đối với các đô thị của Việt Nam hiện nay thì hệ thống hạ tầng kỹ thuật chưa
đáp ứng được kịp yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đời sống dân sinh. Hệ thống giao
thông công cộng, điện, nước sinh hoạt, thoát nước, xử lý nước thải,... trở lên bất cập. Các
hạng mục hạ tầng phải sửa chữa, chắp vá nhiều vừa gây ra tình trạng lãng phí ngân sách,
vừa gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông...
Một tỷ lệ không nhỏ người dân sinh sống tại các đô thị, thậm chí ở cả các thành phố trực
thuộc trung ương vẫn chưa được dùng nước sạch. Tình trạng ngập úng cục bộ trên các
tuyến phố tại các đô thị vẫn thường xuyên xảy ra. Hệ thống dây tải điện, điện thoại,
truyền hình chằng chịt gây mất mỹ quan đô thị và gây nguy hiểm cho tính mạng của nhân
dân.
Việc xây dựng của nhân dân không được quản lý tốt, phá vỡ quy hoạch và cảnh quan
kiến trúc. Chất lượng các công trình xây dựng không được quản lý chặt chẽ trong đó có
chất lượng nhà chung cư, nhà riêng của nhân dân... là những nguy cơ tiềm tàng trước
những biến động của thiên tai sau này.
Tổng quan đặc điểm đô thị hóa vùng ven Thành phố Hồ Chí Minh
Hồng Quế - ĐH KHXH & NV
TP. HCM là một trung tâm KT - VH lớn của cả nước và là một cánh cửa lớn thông
thương với thế giới bên ngoài. Thành phố là nơi tập trung các đầu mối giao thông quan
trọng như sân bay, bến cảng có thể liên thông với bên ngoài qua đường bộ, hàng không,
đường biển một cách dễ dàng và thuận lợi.
So với các thành phố khác trong nước thì hiện nay TP. HCM có chỉ số đô thị hoá cao
nhất (46%). Theo kết quả điều tra dân số trên địa bàn TP. HCM ngày 1/10/2004, dân số
thường trú trên địa bàn thành phố là 6.117.251 người chiếm 7% dân số cả nước. Trong đó
dân số của 19 quận là 5.140.412 người chiếm 84,03% dân số thành phố và dân số của 5
huyện ngoại thành là 976.839 người, chiếm 15,97%. Mật độ dân số của thành phố hiện
nay 2.920 người/km2 tăng 21,4% so với mật độ dân số thành phố năm 1999. Mật độ dân
cư phân bổ không đều giữa các quận, huyện. Có 5 quận mật độ cao trên 40.000
người/km2, 3 quận mật độ từ 20.000 đến 40.000 người; 4 quận mật độ từ 10.000 đến
dưới 20.000 người; 7 quận, huyện mật độ dưới 10.000 và trên 1.000 người; và 3 huyện có
mật độ dưới 1000 người/km2.
Trung bình từ năm 1999 đến năm 2004 tốc độ tăng dân số bình quân tại thành phố là
3,6%. Tốc độ tăng dân số lần này cao hơn hẳn so với các kỳ điều tra trước. Mức tăng
dân số thời kỳ 1999 - 2004 bằng mức tăng dân số trong 10 năm từ 1989 đến 1999 và
xấp xỉ bằng 2 lần mức tăng dân số trong 10 năm từ 1979 -1989. Toàn thành phố có
3.311.530 người trong độ tuổi lao động, tăng 45,6% với năm 1989, mỗi năm tăng 3,8%,
cao hơn tốc độ tăng dân số (2,4%). Gia tăng dân số ở TP. HCM không phải chủ yếu do
tỉ lệ tăng tự nhiên mà là gia tăng cơ học.
Dần dần, các quận nội thành ô tô trở nên quá tải, di dân nông thôn – thành thị bành
trướng về các quận ven. Trong 600.000 người nhập cư năm 1996 có 65.609 người tạm trú
ở Thủ Đức, tập trung tại một số phường như Phước Bình: 2.426 người, Hiệp Bình Chánh:
5.816 người. Phường 26 quận Bình Thạnh có 4.283 người; phường 12 (Bình Thạnh) có
7.576 người.
Ngoài bộ phận dân nhập cư từ nông thôn đến, ven đô còn là nơi giãn dân của nội thành.
Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch của thành
phố, ven đô đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra. Sau
đó là những người dân giàu có từ các quận trung tâm cũng tìm đến ven đô để mua đất,
mua nhà xây dựng biệt thực làm nơi thư giãn cuối tuần hoặc vào các ngày tết, lễ.
Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở công nghiệp, xí nghiệp liên doanh
với nước ngoài ở vùng ven càng nhiều. Chủ yếu là dân di cư từ nông thôn ra thành thị làm các
nghề thợ hồ, may mặc, dệt da, chế biến lương thực, thực phẩm. Tất cả những yếu tố trên đã góp
phần làm cho dân số ven đô tăng lên nhanh chóng.
Trong công nghiệp, số lượng cơ sở sản xuất ngày càng tăng, máy móc trang thiết bị ngày
càng hiện đại. Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng. Ngoài sự hợp tác với các cơ sở sản xuất
trong nước còn có sự liên doanh liên kết với nước ngoài và hình thành khu công nghiệp lớn
như khu công nghiệp Bình Hoà (Bình Thạnh), khu chế xuất Linh Trung (Thủ Đức), khu chế
xuất Tân Thuận (Nhà Bè). Khu công nghiệp Tân Thới Hiệp (Quận 12). Tốc độ tăng trưởng
của các giá trị sản lượng công nghiệp - dịch vụ ngày càng cao và giữ vị trí then chốt trong
toàn bộ nền kinh tế của các quận ven.
Do tăng trưởng trong khu vực công nghiệp - TTCN và TM - DV cao, thu nhập của người lao
động trong khu vực này cũng cao hơn hẳn so với lao động ở khu vực nông nghiệp. Theo số
liệu điều tra mức sống của dân Việt Nam năm 1997, những người lao động trong khu vực
TM - DV có thu nhập gấp 10-15 lần so với những người lao động trong khu vực nông
nghiệp. Chính vì vậy đã tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với lao động khu vực phi sản xuất nông
nghiệp. Trong khi lao động nông nghiệp giảm, lao động khu vực CN – TTCN, TM - DV
tăng.
Với những chuyển biến về kinh tế xã hội như đã nêu, quận ven đã dần chuyển hoá thành nội
ô, các huyện ngoại thành chuyển biến thành vùng ven. Đến năm 1997 một số quận mới được
hình thành, bao gồm: Quận 12 được tách ra từ huyện Hóc Môn, quận 7 được tách ra từ huyện
Nhà Bè, quận 2, quận 9 tách ra từ quận TĐ.
Tại quận 12, năm 1998 diện tích trồng lúa giảm 178 ha, diện tích trồng rau xanh giảm 474 ha,
diện tích trồng cây công nghiệp giảm 274 ha, diện tích trồng hoa kiểng tăng. Riêng năm 1998
quận 12 có hơn 187 ha trồng hoa kiểng. Ở Gò Vấp năm 1976 có 50 ha trồng hoa, năm 1985 có
73 ha, năm 1998 có 98 ha và năm 1999 lên tới 116 ha. Điều đáng phấn khởi là chăn nuôi phát
triển theo chiều hướng mới. Ngoài chăn nuôi heo bò, nông dân đã tiếp cận với khoa học kỹ
thuật chăn nuôi cá giống, cá kiểng, ba ba, cá sấu. Có những gia đình nông dân đã thu nhập rất
cao từ những nghề này.
Huyện Nhà Bè là địa phương có tốc độ ĐTH cao với hai khu vực tiêu biểu là: Một là
công ty GIS đầu tư phát triển vành đai Tân Sơn Nhất - Bình Lợi dài 14km, với tổng vốn
đầu tư hơn 314 triệu USD; hai là phát triển ĐTH thể hiện qua việc quy hoạch khu công
nghiệp Hiệp Phước người dân và nhà nước cùng làm đáng chú ý ở đây là biện pháp phát
hành cổ phiếu và tái định cư tại chỗ.
Quận 9: Với việc phát triển khu công nghệ cao Long Phước, Trường Thanh và Đông Tân
Long với vốn đầu tư một tỷ USD đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người dân nhất
là do chính sách đền bù không hợp lý. Sở dĩ như vậy là vì diện tích đất được quy hoạch
được đền bù theo giá tổng thể quy định chung nhưng thực tế chỉ khai thác ½ để phát triển
khu công nghệ còn lại là để phát triển đường sá cơ sở hạ tầng, mở các trường dạy nghề tái
sử dụng lao động, xây dựng công viên cây xanh, nhà ở dân dụng cho người lao động
thấp.
Quận 2: Sau khi ĐTH quá trình quy hoạch đã đền bù bồi thường đất cho các hộ giải tỏa nhưng nhiều
hộ dân đã không có kế hoạch chi tiêu hợp lý, xài hết tiền lâm vào tình trạng tái nghèo vấn đề đặt ra là
tạo việc làm cho số lao động thất nghiệp bằng cách đào tạo nâng cao trình độ học vấn cho người dân,
đâu tư cơ sở hạ tầng từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống.
Huyện Bình Chánh: đây là một vùng ĐTH điển hình với việc hình thành các khu công
nghiệp Lê Minh Xuân, Tân Tạo và hình thành khu công nghiệp mới. Kết quả cho đến nay
80% hộ dân đã được đền bù giải tỏa tương tự như ở khu vực Nam Sài Gòn. Bên cạnh đó
việc thực hiện dự án đại lộ Đông – Tây sau bốn năm đã giải quyết đền bù 100% và đã thi
công 20% công trình.
Huyện Cần Giờ: ĐTH thể hiện qua hai dự án lớn là khu lấn biển Cần Giờ và mở rộng đường từ phà
Bình Khánh đến Cần Giờ rộng 60m tuy nhiên quá trình ĐTH này chỉ ảnh hưởng tới môi trường an
sinh cảnh quan và phát triển du lịch không ảnh hưởng nhiều đến lối sống của người dân mà
ngược lại còn có tác động tích cực rõ rệt. Sỡ dĩ như vậy vì đây là vùng khu dân cư thu nhập
thấp trước đây phát triển nghề làm muối và trồng lúa nay đã phát triển dịch vụ thương mại thay
đổi lối sống nâng cao chất lượng cuộc sống người dân..
Huyện Hoóc Môn: vừa phát triển khu công nghiệp vừa phát triển khu dân cư nhà vườn không
ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của người dân. Đáng chú ý của quá trình ĐTH ở đây là việc
phát triển dự án biệt thự và làng nghề trồng rau truyền thống.
Huyện Củ Chi: phát triển khu công nghiệp Tây Bắc I, II; khu du lich nhà vườn kết hợp
với địa đạo Củ Chi.
Quận Thủ Đức: ĐTH thể hiện trên ba khu vực phát triển khu công nghiệp như phường
Bình Chiểu, Linh Chiểu, Linh Xuân, Linh Trung và Tam Bình; phát triển khu dân cư và
nhà ở điển hình như phường Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước và Linh Đông thêm vào
đó là khu vực phường Bình Thọ kết hợp giữa phát triển công nghiệp, khu dân cư và trung
tâm hành chính. Việc phát triển khu dân cư nhà ở do nhà đầu tư bỏ tiền mua và đền bù
giải tỏa đất cho người dân hiện còn chưa thỏa đáng và triệt để và chính sách nhà ở thì
chưa rõ ràng. Việc phát triển khu công nghiệp với hệ thống xử lý chất thải yếu kém đã
ảnh hưởng tới vấn đề ô nhiễm môi trường tại cộng đồng dân cư. Trên địa bàn quận Thủ
Đức thì phường Hiệp Bình Chánh có tốc độ ĐTH nhanh nhất và mạnh nhất do có mật độ
dự án nhiều nhất và dàn trải đều, nhiều dự án có tính khả thi đã được duyệt và triển khai
từ năm 1997