Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

KHU DU TRU SINH QUYEN CAT BA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.73 MB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐỊA LÝ

Bài tiểu luận:

GVHD: Ths.
SVTH:

Trần Đức Minh
Hà Hải Vân (34603108)


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

TP HỒ CHÍ MINH THÁNG 11 NĂM 2009

Hà Hải Vân

Trang 2


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐỊA LÝ

Bài tiểu luận:



GVHD: Ths.
SVTH:

Trần Đức Minh
Hà Hải Vân (34603108)

TP HỒ CHÍ MINH THÁNG 11 NĂM 2009
Hà Hải Vân

Trang 3


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................... 4
A. KHÁI QUÁT VỀ KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN.......................................6
B. KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN QUẦN ĐẢO CÁT BÀ...............................7
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 26

Hà Hải Vân

Trang 4


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà


GVHD: Th.s Trần Đức Minh

LỜI MỞ ĐẦU

Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vó, nó được
mệnh danh là Hòn Ngọc của Vònh Bắc. Nếu như Cần
Giờ là vùng ngập mặn cửa sông, Cát Tiên là vùng rừng
trên cạn, thì Cát Bà hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới
trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm
rong - cỏ biển, và đặc biệt là hệ thống hang động, tùng
áng. Có thể nói, quần đảo Cát Bà hội tụ đầy đủ các hệ
sinh thái tiêu biểu nhất của Việt Nam Bộ. Thiên nhiên ở
đây hoang sơ, rừng, biển, sông, suối, núi, đồi, thung lũng,
bãi cát, hang động, xen kẽ gắn kết với nhau tạo nên nhiều
cảnh đẹp kỳ thú.. Ở đây có khu rừng nguyên sinh nhiệt
đới rộng lớn với hệ thống động thực vật vô cùng phong
phú đặc trưng là loài Voọc Cát Bà và cây Kim Giao.
Đảo Cát Bà một tấm thảm xanh khổng lồ chứa
đựng nhiều bí ẩn, hấp dẫn. Cát Bà xứng đáng là khu dự
trữ sinh quyển thứ ba của Việt Nam .
Sinh viên thực hiện

Hà Hải Vân

Trang 5


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh


A. KHÁ I QUÁ T VỀ KHU DỰ TRỮ SINH
QUYỂ N

I. Khái niệm
Khu dự trữ sinh quyển là hệ thống những vùng có các hệ sinh thái
trên cạn, hệ sinh thái ven biển, các hệ sinh thái biển hoặc kết hợp của tất
cả các thành phần đó và được quốc tế công nhận trong phạm vi chương
trình của UNESCO về con người và sinh quyển.
Tất cả các khu dự trữ sinh quyển hình thành một mạng lưới trên toàn
thế giới và trong đó các thành viên đều mang tính tự nguyện. Hệ thống các
khu dự trữ sinh quyển thế giới gồm 459 khu thuộc 97 quốc gia.

II. Nguồn gốc
Khái niệm KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN do Chương trình Con
người và Sinh quyển (Man and Biosphere Program) của Tổ chức Văn
hóa – Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) lần đầu tiên được đưa ra ở
Hội nghò khoa học “Sử dụng hợp lý và bảo tồn tài nguyên của sinh
quyển” tổ chức tại Pari vào tháng 9 năm 1968.
Hội nghò với sự tham gia của 236 đại biểu đến từ 65 nước và 88 đại
diện của các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ của nhiều ngành khoa
học khác nhau, các nhà quản lý và ngoại giao. Sau này hội nghò này được gọi
là “Hội nghò sinh quyển” do UNESCO tổ chức với sự ủng hộ tích cực của
FAO, Tổ chức y tế thế giới WHO, các tổ chức bảo tồn và chương trình sinh
học quốc tế thuộc hội đồng khoa học quốc tế.

III. Mục tiêu
Hà Hải Vân

Trang 6



Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Ý tưởng xây dựng khu dự trữ sinh quyển nhằm giải quyết một trong
những vấn đề thực tiễn quan trọng mà con người đang đối mặt hiện nay là
làm thế nào để có thể tạo nên sự cân bằng trong bảo tồn sinh học, các
nguồn tài nguyên thiên nhiên với sự thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, duy
trì các giá trò văn hóa truyền thống đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con
người.
Mô hình khu dự trữ sinh quyển vừa cung cấp cơ sở lý luận vừa là công
cụ thực hiện chương trình nghiên cứu đa quốc gia về con người và sinh quyển
thể hiện phương pháp luận và cách tiếp cận cơ bản là “Con người là một
phần của Sinh quyển” hay “Công dân sinh thái”.

IV. Nhiệm vụ
Việc thiết lập khu dự trữ sinh quyển nhằm thực hiện chức năng bảo tồn
đa dạng di truyền, hệ sinh thái và cảnh quan. Khu dự trữ sinh quyển còn thực
hiện chức năng phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững về sinh thái
cũng như các giá trò văn hoá truyền thống. Ngoài ra, nó còn trợ giúp nghiên
cứu, giám sát, giáo dục, trao đổi thông tin giữa các đòa phương, quốc gia,
quốc tế về bảo tồn và phát triển bền vững.

B. KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂ N QUẦ N ĐẢ O
CÁ T BÀ

I. Điều kiện tự nhiên
1. Vò trí đòa lý

Quần đảo Cát Bà là một
quần đảo có 366 đảo lớn nhỏ như
đảo Cát Ông, hòn Mây, hòn Quai
Xanh, hòn Tai Ké… nằm ở phía tây
nam vònh Hạ Long và vònh Bái Tử
Long trong đó Cát Bà là đảo lớn

Hà Hải Vân

Trang 7


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

nhất thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng cách trung tâm thành phố
Hải Phòng 30 km.

Bản đồ đảo Cát Bà

Quần đảo Cát Bà là khu rừng đặc dụng của Việt Nam, là Khu dự trữ
sinh quyển thế giới nằm ở toạ độ đòa lý:
• 106o 58’ 20” – 107o 10’ 50” Đ
• 20o 43’ 50” – 20o 51’ 29”.
Với sự đa dạng về Hệ sinh thái và phong phú đặc sắc về Hệ động thực
vật tại kỳ họp thứ 18 của Ủy ban Quốc tế chương trình Con người và Sinh
quyển (MAB) của UNESCO ngày 2/12/2004 trên cơ sở Vườn quốc gia Cát Bà
đã được công nhận là Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà với tổng diện
tích hơn 26.200 ha gồm:

• 2 vùng lõi (8.500 ha) được bảo tồn nghiêm ngặt không có sự tác
động của con người.
• 2 vùng đệm (7.741 ha) cho phép phát triển kinh tế hạn chế song
kết hợp bảo tồn.
• 2 vùng chuyển tiếp (10.000 ha) được phép phát triển kinh tế.

2. Đòa hình – Đòa chất
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà là vùng núi non hiểm trở có độ
cao trung bình từ 50 – 200 m, đỉnh cao nhất là đỉnh Cao Vọng (322 m).

Cát Bà nhìn
từ đỉnh
Cao Vọng

Hà Hải Vân

Trang 8


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Trong vùng còn có một hệ thống đáng kể các hang động karst trong đó
nổi tiếng nhất là các hang động:
Động Trung Trang: Nằm cách thò trấn 15km cạnh đường xuyên đảo,
có nhiều nhũ đá thiên nhiên như hình ảnh của chốn bồng lai tiên cảnh. Động
này có thể chứa đựng cả trăm người.
Động Hùng Sơn: Cách thò trấn 13km, trên đường xuyên đảo. Động
còn có tên Động quân y vì trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của đế

quốc Mỹ, người ta đã xây cả một bệnh viện hàng trăm giường nằm ở trong
lòng núi. Công trình còn đó ghi sâu chiến công về lòng dũng cảm của con
người.
Động Phù Long (Cái Viềng) mới tìm ra, đẹp hơn cả động Trung
Trang. Ở đây nhũ đá và hơi nước ẩm quanh năm gợi cho ta tưởng tượng ra
đường lên trời, đường xuống biển và nhiều vòm tinh tú, núi vàng, núi bạc...
Các núi đá vôi chạy xen kẽ nhiều thung lũng hẹp như Khe San, Đồng
Tép, Tùng ng, Gia Luân… chạy dài hướng Đông Bắc – Tây Nam.
Cấu tạo đòa chất chủ yếu là đá vôi và đá phiến thạch.

3. Khí hậu
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà nằm trong khu vực nhiệt đới
gió mùa chòu ảnh hưởng của đại dương nên các chỉ số trung bình về nhiệt độ,
độ ẩm, lượng mưa cũng tương tự các khu vực xung quanh tuy nhiên nhờ có
đại dương nên mùa đông ít lạnh hơn và mùa hè ít nóng hơn so với đất liền.

Biển đảo Cát Bà

Hà Hải Vân

Trang 9


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Lượng mưa: 1700 – 1800 mm/ năm dao động theo mùa. Mùa mưa
chủ yếu vào tháng 7, tháng 8.


Nhiệt độ trung bình: 25 – 28oC. Mùa hè có thể tới 30 oC, mùa đông
trung bình từ 15 – 20oC nhưng khi có gió mùa đông bắc nhiệt độ có thế hạ
xuống còn 10oC.
Độ ẩm trung bình: 85%.

Dao động thủy triều: 3,3 – 3,9 m.
Độ mặn nước biển: 9,3o/oo vào mùa mưa và 31,1o/oo vào mùa khô.
4. Đất đai
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có 5 nhóm đất chính:


Nhóm đất trên núi đá vôi:

đó là lớp đất phong hóa màu

nâu hoặc màu vàng phát triển trên núi đá vôi và sa thạch. Tầng
đất dày hơn 50 cm, độ pH 6,5 – 7 thường phân bố rải rác dưới
tán rừng.


Nhóm đất feralit màu nâu vàng hoặc nâu nhạt:

phát

triển trên sản phẩm đá vôi ít chua hay gần trung tính. Trong
nhóm đất này còn có loại đất feralit màu trắng xám hay màu
nâu vàng phát triển trên diệp thạch, sét chua vùng đồi trọc với
tầng đất mỏng, cấu tượng xấu, nhiều đá lẫn, đất khô và rời rạc.



Nhóm đất thung lũng cạn: phát triển trên đá vôi hay sản
phẩm đá vôi tập trung ở các thung lũng được rừng tự nhiên che
phủ.



Nhóm đất thung lũng ngập nước:

phát triển chủ yếu do

quá trình bồi tụ, mưa thường ngập nước, tầng đất mặt trung bình
hoặc mỏng.


Nhóm đất bồi tụ ngập mặn: do sản phẩm bồi tụ ở vùng cửa
sông phát triển trên vùng ngập mặn ở Cái Viềng, Phù Long.

5. Tài nguyên sinh vật

a. Hệ sinh thái
Hà Hải Vân

Trang 10


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có hệ sinh thái đa dạng như hệ

sinh thái rừng mưa nhiệt đới thường xanh trên núi đá vôi hợp thành nhiều
kiểu phụ như rừng trên đỉnh và sườn đá vôi, rừng kim giao, rừng ngập nước
trên núi cao (Ao Ếch), rừng ngập
mặn, bãi triều, san hô…

Ao Ếch (rừng ngập nước trên núi)


Hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới thường xanh:
Có 3 tầng


Tầng 1: cao dưới 8 m gồm các loài thực vật như trau lónh, đỗ trọng,
cây nhỏ tầng trên…




Tầng 2: cao khoảng 12 m gồm ngát, bừa, chẹt…
Tầng 3: cao khoảng 20 m như gội, nếp, phay, săng lẻ, lim xẹt…
Rừng trên núi có dâu da xoan, tùng áng, nhãn rừng, chò…
Rừng đỉnh núi cò nhọ nồi, xương rồng, cọ Bắc Sơn…

Đặc biệt có rừng kim giao với diện tích 32 ha, cây cao chủ
yếu từ 20 – 30 m tại khu vực gần đỉnh Ngự Lâm.

Kim giao hiện làø đối tượng được bảo vệ trong hệ sinh thái tự nhiên
của một số khu rừng cấm và khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà vì
đây tuy là loài phân bố rộng, nhưng
số lượng cá thể ít, lại bò khai thác

để lấy gỗ làm đũa bán trong nước
và xuất khẩu hiện đã được đưa vào
Sách đỏ Việt Nam với mức độ đe
doạ thuộc bậc V và là một trong số
loài đặc hữu của Cát Bà.
Hà Hải Vân

Trang 11


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Rừng kim giao

Kim giao là cây gỗ to, cao 25 - 30 m, đường kính thân 0,8 - 1 m. Lá
mọc đối, chéo chữ thập, thưa, hình mác, chất da, đầu có mũi nhọn, gốc
hình nêm, khi trưởng thành dài 8 - 18cm, rộng 4 - 5cm, mang lỗ khí ở mặt
dưới, cuống lá dẹt, 5 - 7mm, cây khác gốc. Nón đực đơn độc hay chụm 3
- 5 trên một cuống ở nách lá, hình trụ, dài 2 - 3cm. Nón cái mọc đơn độc
ở nách lá. Đế hạt hóa gỗ, không nạc, dài 1,5 - 2cm. Hạt gần hình cầu,
đường kính 1,5 - 1,8cm, màu lam thẫm.


Hệ sinh thái rừng ngập mặn nằm ở phía Tây Bắc đảo
có các loài chủ yếu gồm đước, ô rô, ràng, sú, cỏ roi ngựa, bần, thầu dầu,
báng cao 4 – 5 m.

Rừng ngập mặn Cát Bà


Hệ sinh thái biển

o Hệ sinh thái san hô, cỏ biển,

tảo phù du, tảo đáy…
Các rạn san hô vùng biển Đông – Nam đảo Cát Bà kéo dài đến Hang
Trai – Đầu Bê có giá trò cho bảo tồn và du lòch sinh thái của Hải Phòng và
cũng là một trong những trung tâm phát tán nguồn gien của vònh Bắc Bộ. Cho
đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện được ở vùng biển Cát Bà 193 loài
thuộc lớp san hô có độ sâu phổ biến rạn tới là 5-6m, tối đa không quá 10m,
trong đó bộ San hô cứng 166 loài, 27 loài còn lại thuộc các bộ San hô bò, San
hô mềm, San hô sừng. Các khu vực có rạn san hô tốt là các đảo Áng Thảm,
Cát Dứa, Mũi Hồng, Ba Trái Đào (đông nam Cát Bà), cụm đảo Đầu Bê –
Hang Trai, Long Châu.
Các rạn san hô vùng biển Cát Bà tuy không lớn và lộng lẫy bằng các
rạn san hô ở biển phía Nam, song nhiều rạn tiêu biểu cho kiểu rạn ven bờ
Hà Hải Vân

Trang 12


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Tây vònh Bắc bộ với sự đa dạng các giống, loài thủy sinh vật, đây còn là nơi
bảo vệ các cá thể non, ấu trùng của rất nhiều loài sinh vật biển khác.

b. Đa dạng sinh học

Theo kết quả điều tra tính chung cả vùng có trên 2.320 loài động - thực
vật đang sinh sống, với gần 60 loài được coi là đặc hữu và quý hiếm, đã được
xếp vào "Sách đỏ" của Việt Nam như Voọc Cát Bà, Voọc quần đùi trắng, Ác
là, Quạ khoang …
Về thực vật khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có 620 loài thực
vật bậc cao thuộc 438 chi của 123 họ, thực vật bậc thấp có 495 chi
thuộc 149 họ, 350 loài cây thuốc.
Động vật trên cạn có 32 loài thú, 69 loài chim, 20 loài bò sát, 11
loài lưỡng cư. Voọc đầu trắng là sinh vật đặc hữu của vùng với số lượng cá
thể khoảng 100 con, nhiều loài chim quý cũng cư trú hoặc di cư tới đây như
sâm cầm, chim cu xanh, cu gáy…
Cát Bà có hệ sinh vật biển đảo phong phú và đa dạng vào bậc nhất
miền bắc nước ta, với nhiều loài san hô, rong biển, cá, bò sát, động vật đáy,
chim biển... với 196 loài cá chủ yếu tập trung ở Cọc Chèo, Tùng Giỏ, Cát
Dứa, Tùng Ngón, Vụng Vua, Ba Cát Dài, Hòn Mây, áng Thảm. Cá sống
trong rạn san hô với rất nhiều màu sắc khác nhau. Các loài Cá cảnh thường
gặp tại vùng biển Cát Bà chủ yếu thuộc các họ như họ Cá Bớm
(Chaetodontidae), Cá thia (Pomacantridae), Cá dìa (Siganidae), Cá bò
(Balistidae), Cá nóc (Tetradontidae), Cá bàng chài (Lambrridae), Cá bống
(Gobiida), thực vật phù du có 199 loài, động vật phù du có 89 loài, 78
loài giáp xác, 168 loài thân mềm, 193 loài san hô, 75 loài rong biển.

Có thể nói Khu dự trữ sinh
t Bà
Cáquyể
nócn quần đảo Cá

bàcó
nggiá
chàtròi rất cao sự


phong phú về số lượng loài cũng như thành phần loài rất đặc sắc và tiêu biểu
trong đó có nhiều loài cực kì quý hiếm.

Hà Hải Vân

Trang 13

bớm


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

c. Các loài sinh vật quý hiếm
• Những loài động vật trên cạn: khoảng 30 loài
Bậc E: Là những loài đang đứng trước nguy cơ bò tiêu diệt gồm Đồi
mồi (Eretmochelys imbricata), Quản đồng (Carreta olivacea), Rùa da
(Dermochelys coreacea), Ác là (Pica pica sericea), Quạ khoang (Corvus
torquatus), Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalus), Voọc quần đùi trắng
(Presbytis francoisis delacauri).
Voọc Cát Bà (tên khoa học: Trachypithecus poliocephalus phân loài
poliocephalus) tức Voọc đầu vàng (một số tài liệu gọi nhầm là Voọc đầu
trắng, tên khoa học
Trachypithecus
poliocephalus phân
loài leucocephalus chỉ có ở
Trung Quốc) là loài
đặc hữu hẹp của Cát Bà,

hiện tại chỉ còn 66 cá
thể, chỉ còn phân bố ở các
núi ven bờ biển (theo
số liệu cung cấp của chi
cục kiểm lâm VQG
Cát Bà, năm 2007).
Voọc Cát Bà là
loài có lông trên đầu màu
trắng và vàng, là
động vật có vú thuộc bộ linh
trưởng rất quý hiếm
chỉ có trong các cánh rừng
nhiệt đới ẩm ướt của
Cát Bà với diện tích sinh
2
sống nhỏ hơn 100 km và có tên trong danh sách 25 loài động vật có nguy
cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới.

Rùa da

Đồi mồi
Quắn đồng
Hà Hải Vân

Trang 14


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh


Ác là cũng là một loài đặc hữu
của Cát Bà có chiều dài khoảng 4051 cm. Đầu, cổ và ngực màu đen bóng
với ánh lục và tím kim loại, bụng và vai
màu trắng; hai cánh màu đen và được
làm bóng bằng màu xanh lục sẫm hay
tía, các lông cánh có các tơ bên trong
màu trắng, lộ rõ khi dang cánh ra.
Đuôi xòe rộng dần màu đen, lốm đốm
xanh lục-vàng đồng hay các màu ngũ
sắc khác. Chân và mỏ màu đen.

Bậc V: Những loài có nguy cơ bò tổn thất gồm 13 loài: Kỳ đà nước
(Varanus salvator), Trăn đất (Python molurus), Rắn hổ chúa (Ophiophagus
hannab), Đẻn vẩy bụng không đều (Thalasophina viperina), Vích (Chelonia
mydas), Khỉ mặt đỏ (Macaca aretoides), Khỉ đuôi lợn (Macaca nemestrina),
Sơn dương (Capricornis sumatraesis), Hươu sao (Cervus nippon), Hoẵng
(Muntiaccus muntijak), Tê tê vàng (Manis pentadactyla), Sóc bụng đỏ
(Calloscirus erythraeus castancoventris).

Bậc R: Loài có vùng phân bố hẹp, số lượng ít gồmKì đà nướKhỉ
c Tră
mặ
Vích
Vích
n tđấ
đỏ
t

4 loài: Cốc đế (Phalacrocorax carbosinensis), Cò thìa

(Platalea minor), Yến núi (Callocalia brevirostris
innominata), Mòng biển đen (Larus saudersi).

Cò thìa thuộc họ Cò quắm, cơ thể thuôn dài, cổ
và chân đều dài. Mỏ cũng dài, thẳng và bẹt đặc trưng. Kiếm
ăn vào ban ngày thường sống thành các nhóm nhỏ hay đơn lẻ.
Hà Hải Vân

Trang 15


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Bậc T: Loài tương đối an toàn, gồm 7 loài: Tắc kè (Gecko gecko),
Rắn ráo thường (Ptyas korros), Rắn ráo trâu (Ptyas mucosus), Rắn cạp nong
(Bugarus fasciatus), Rắn hổ mang (Naja naja), Le khoang cổ (Nettapus
coronmandelianus), Rái cá thường (Lutra lutra).

Le khoang cổ

Rắn hổ mang
Trong số các loài trên Voọc Cát Bà đã được
Rái cá thường
IUCN tài trợ nhằm bảo vệ và nhân nhanh đàn
giống của chúng sang các khu vực khác.
o Các loài thực vật trên cạn:
27 loài, điển hình là các loài Chi đài (Annamocarya sinensis), Kim giao
(Najeia fleuryi), Lát khối (Ardisia), Lát hoa (Chukrasia tubularis), Re hương

(Cinnamonum parthoroxylon), Thổ phục linh (Smilax glabra), Trúc đũa
(Sasa japonica), Sến mật (Madluca pasquierri).v.v.

Thổ phục linh
1. Đoạn thân mang lá,
quả;
2.Hoa; 3. Củ; 4. Củ
cắt ngang

Thổ phục linh (Smilax glabra) là dây leo lâu năm, họ Hành tỏi
(Liliaceae). Rễ củ vặn vẹo. Thân nhẵn. Lá mọc so le, cuống lá mang hai tua
cuốn nhỏ. Hoa màu lục nhạt, mọc thành tán ở kẽ lá. Cuống hoa dài hơn cuống
tán. Quả mọng màu đen. Mọc hoang ở nhiều nơi. Trong rễ củ có saponin,
tanin, nhựa và tinh bột. Dùng rễ củ chữa phong thấp, đau xương, mụn nhọt, lở
ngứa; dùng dạng thuốc sắc hoặc cao.
o Các loài rong biển:
Hà Hải Vân

Trang 16


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

8 loài rong đã được đưa vào Sách đỏ để bảo vệ: Rong đai bò (Codium
repeus); rong ruột nho (Caulerpa racemrosa); Rong đá cong (Gelidella
acerosa); Rong mơ mềm (Sargassum tenerrimum); Rong chủn dẹp
(Gratelonpia livida); Rong thun thút (Catenela nipae); Rong nhút
(Dermonema pulvinata); Rong thuốc giun (Caloglossa leprienrii).

o Các loài động vật đáy:
Động vật đáy có 7 loài, gồm: Ốc đụn đực (Trochus pyramis); Ốc đụn
cái (Trochus niloticus); Trai ngọc (Pinctada marganitofera); Bàn mai (Pinna
atropurpurea); Con sút (Anomalodiscus squamosa); Vẹm xanh (Mytillus
smaragdinus); Mực nang vân hổ (Stepia tigris).

Ốc đụn đực

Vẹm xanh

Mực nang vân hổ là loài có
thân lớn, hình bầu dục, chiều dài
thân gấp đôi chiều rộng, vây bao
quanh thân. Các xúc tay dài ngắn
chênh lệch, đôi xúc tay bụng dài
nhất, đôi xúc tay lưng ngắn nhất.
Mỗi xúc tay có 4 hàng giác bám, các
giác bám gần bằng nhau. Đôi xúc
tay bắt mồi có chiều dài bằng chiều dài thân, kích thước các giác
bám trên xúc tay bắt mồi chênh lệch rất lớn, trong đó có 3-5 giác
bám rất lớn, vòng sừng trơn tru không răng. Mặt lưng của thân có
Hà Hải Vân

Trang 17


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh


nhiều vân hình gợn sóng. Vỏ (nang mực) hình bầu dục dài, mép sau
có một gai nhọn, thô. Chiều dài 200-300mm.

6. Các phân vùng của Khu dự trữ sinh quyển
quần đảo Cát Bà

a. Vùng lõi (8.500 ha)
Mục tiêu quản lý vùng lõi là bảo tồn đa dạng sinh học, hạn chế các
hoạt động của con người.
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có 2 vùng lõi:
• Vùng lõi phía Đông Nam có diện tích 6.900 ha trong đó 5.300
ha nội đòa và 1.600 ha mặt biển.
• Vùng lõi phía Tây Bắc có diện tích 1.600 ha trong đó 1.200 ha
nội đòa và 400 ha mặt biển.
Đây là vùng không có tác động vật quý hiếm, các loài đặc hữu của khu
dự trữ sinh quyển như kim giao, voọc Cát Bà, tu hài, cá heo, bảo vệ các cơ
quan thiên nhiên, các di tích khảo cổ và văn hóa lòch sử.

b. Vùng đệm (7.741 ha)
Vùng đệm là vùng tiếp giáp vùng lõi, có thể tiến hành các hoạt động
kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí nhưng không ảnh hưởng đến mục
đích bảo tồn vùng lõi.
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có 2 vùng đệm:
• Vùng đệm khu trung tâm (vùng đệm Việt Hải) có diện tích 141
ha.
• Vùng đệm bao quanh 2 vùng lõi có diện tích 7.600 ha trong đó
4.800 ha phần đảo và 2.800 ha phần biển.
Đây là vùng có chức năng phát triển kinh tế tăng thu nhập cho người
dân, trợ giúp việc bảo tồn vùng lõi.
Nhiệm vụ chính của vùng đệm bao gồm:


Phục hồi hệ sinh thái rừng tại những điểm đã bò tác động,
phục hồi các loài thực vật bản đòa.

Triển khai nghiên cứu khoa học cơ bản và áp dụng thực tế
phục vụ yêu cầu bảo tồn.

Hà Hải Vân

Trang 18


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà



GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Cung cấp các dòch vụ nghiên cứu khoa học, tuyên truyền
giáo dục kếp hợp vói dòch vụ du lòch sinh thái.
Phối hợp chính quyền đòa phương các tỉnh bạn đặc biệt là
Quảng Ninh xây dựng kế hoạch tổng thể vùng trong quản lý
vùng đệm cho du lòch sinh thái phát triển bền vững.

c. Vùng chuyển tiếp (10.000 ha)
Vùng chuyển tiếp còn được gọi là vùng phát triển bền vững, nơi công
tác của các nhà khoa học, nhà quản lý và người dân đòa phương. Tạo điều
kiện thuận lợi và đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, du lòch, dòch vụ đi đôi với
tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng.
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà có 2 vùng chuyển tiếp:


Vùng chuyển tiếp phía Bắc ( xã Gia Luân) có 1.300 ha
trong đó có 1.000 ha đất liền và 300 ha biển.

Vùng chuyển tiếp phía Nam co 8.700 ha với 4.500 ha đất
liền, 4.200 ha biển
Vùng chuyển tiếp là nơi tập trung dân cư nên đòa phương có chính
sách khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa nguồn
thu nhập cho người dân đặc biệt là vùng nông thôn như nuôi trồng thủy sản,
dòch vụ du lòch, đào tạo lao động có tay nghề kỹ thuật cao để phát triển nghề
đánh bắt xa bờ và du lòch, dòch vụ.

II. Điều kiện kinh tế xã hội
1. Dân cư
Tổng số dân cư trong khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà là 10.673
người trong đó 70% dân cư sống ở thò trấn Cát Bà. Hầu hết người dân trên
đảo đến đònh cư từ các huyện ngoại
thành Hải Phòng như Vónh Bảo, Tiên
Lãng, Thủy Nguyên…
Dân cư sinh sống chủ yếu dựa
vào nghề đánh bắt cá, nuôi trồng thủy
sản và kinh doanh dòch vụ.

Tàu thuyền của ngư dân trên
biể
n Cá
t Bà

Hả
i Vâ

n

Trang 19


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Một số hộ dân chài sống thành từng nhóm được gọi là “vạn chài” sống
quanh năm suốt tháng trên thuyền – kiểu sống này đã có từ lâu đời.
Lễ hội truyền thống trong vùng là “Lễ Ông” hay “Nghinh Ôâng” cầu
cho thuận buồm xuôi gió khi bắt đầu vụ cá.
Ngày 1/4/1958, Bác Hồ đã ra thăm đảo Cát Hải và
Cát Bà. Cầu tàu Cát Bà là nơi Bác đứng nói chuyện với
quân dân trên đảo. Từ đấy, ngành thuỷ sản lấy ngành thuỷ
sản lấy ngày 1/4 - ngày Bác Hồ về thăm làng cá làm Ngày
hội truyền thống của ngành. Năm nào cũng vậy, cứ vào ngày
1/4 ở vùng biển Cát Bà lại diễn ra cuộc đua thuyền rồng
của huyện đảo và ngành thuỷ sản trong cả nước.

2. Phát triển các loại hình du lòch
Cát Bà được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp,
hùng vó, tài nguyên thiên nhiên rừng và biển rất phong phú. Những cánh rừng
xanh nhiệt đới nằm giữa một vùng trời nước với hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ
làm nên vẻ đẹp độc đáo của Khu dự trữ sinh quyển. Những cánh rừng với các
cây cổ thụ nghìn năm tuổi nhiều tầng tán cùng các loài thú quý hiếm, biển
trong xanh với dải cát trắng ven bờ là bãi tắm đẹp cho du khách vui chơi,
nghỉ dưỡng. Cát Cò I, Cát Cò II, Cát Dứa, Cát Ông, Đường Danh... là những
bãi tắm nhỏ xinh, kín đáo, có nhiều mưa, che nắng, cát trắng mòn, nước biển

có độ mặn cao, trong suốt tới đáy.

Bờ biển đẹp với cát trắng
Hà Hải Vân

Bãi tắm Cát Cò
Trang 20


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Người ta dự đònh xây dựng ở đây những "thuỷ cung" để con người có
thể trực tiếp quan sát các đàn cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập
lượn lờ bên những cụm san hô đỏ.
Dưới biển là các loài hải sản nổi tiếng như sò huyết, tu hài, tôm hùm,
cua biển, cá song, cá chim, cá thu …
Cơ sở hạ tầng của Cát Bà đã và
đang được nâng cấp, du khách có thể
nghỉ lại tại vùng đệm hoặc ngoài thò
trấn với đầy đủ khách sạn, nhà nghỉ …

Hệ thống nhà hàng khách sạn
Cát Bà
Các hoạt động du lòch tại Khu dự
trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà:
• Nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, hoạt
động thể thao dã ngoại ở các khu đệm.
• Tổ chức du lòch sinh thái, tham quan khu rừng nguyên sinh, các loài

quý hiếm và cảnh quan đặc sắc.
• Tổ chức các loại hình du lòch khoa học chuyên đề như rừng nguyên
sinh, các hang động núi đá vôi (karst), các hệ sinh thái nhiệt đới tiêu
biểu.
• Du lòch tham hiểm các hang động, leo núi, chèo thuyền.
• Tổ chức các cơ quan đặc thù, các
tầng, áng.
• Du lòch và quay phim chụp ảnh dưới
nước.
• Tắm biển ở các bãi tắm nhỏ đẹp.
• Tổ chức dòch vụ khoa học như quay
phim, chụp ảnh các loài chim, thú,
cây con quý hiếm, các sinh cảnh đặc
sắc …
• Tham quan trao đổi khinh nghiệm
nuôi trồng thủy sản về quy mô và vò

hiể
HàThá
Hảm
i Vâ
n m động Trung
Trang

Trang 21


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh


trí phù hợp, vừa tạo nguồn thưcï phẩm tại chỗ vừa xuất khẩu trong vùng
chuyển tiếp.

Theo ông Nguyễn Văn Thành, Phó chủ tòch UBND thành
phố Hải Phòng cho biết, với tốc độ tăng trưởng du lòch 40% mỗi
năm như hiện nay, Cát Bà dự kiến sẽ đón hàng triệu du khách
mỗi năm từ nay đến 2010, trong đó 1/3 là du khách nước ngoài.
Trước mắt, Cát Bà sẽ tập trung phát triển du lòch sinh thái, du
lòch biển. Trong chương trình hành động quốc gia về du lòch,
trục Cát Bà - Hạ Long đã được chọn là một trong 4 trọng điểm
du lòch của cả nước

III. Chức năng và vai trò của Khu dự
trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà
Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển
thế giới không chỉ có ý nghóa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là phát triển du lòch của Hải Phòng, mà còn góp phần bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên, cân bằng sinh thái toàn cầu và bảo đảm phát triển bền
vững

1. Chức năng bảo tồn

Việc thiết lập khu dự trữ sinh quyển nhằm thực hiện chức năng bảo
tồn đa dạng di truyền, hệ sinh thái và cảnh
quan.
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà là
kho lưu trữ nguồn gien di truyền vô cùng quý giá
phục vụ cho công tác chọn giống, sinh sản, di
truyền cho các thế hệ mai sau.

Hà Hải Vân

Trang 22


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Không chỉ bảo tồn về đa dạng gien di truyền mà khu dự trữ sinh quyển
còn là nơi bảo tồn các loài, hệ sinh thái và duy trì đa dạng sinh học.
Các loài như Kim giao, Chi đài … ngoài Cát bà chỉ còn thấy xuất hiện ở
i còn dưới 100 con - loài đặc hữu vô
Hymalaya, sốRừ
lượnngg trê
Voọnc nú
đầiu đá
trắnvô
g chỉ
cùng quý giá vì vậy việc bảo tồn nhân giống các loài quý hiếm này là rất
đáng được cân nhắc và tiến hành.
Cát Bà không chỉ có sự phong phú về hệ sinh thái mà còn rất tiêu biểu,
hội tụ đầy đủ cả hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập
mặn, các rạn san hô, thảm rong - cỏ biển vì thế việc bảo tồn các hệ sinh thái
và đa dạng sinh học không chỉ bảo vệ mội trường sống của các loài sống
trong đó mà còn góp phần bảo vệ và phát triển bền vững Sinh quyển – ngôi
nhà chung của chúng ta.

2. Chức năng hỗ trợ


Khu dự trữ sinh quyển đã tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên
cứu và giám sát, giáo dục và trao đổi thông tin giữa các đòa phương,
quốc gia và quốc tế về bảo tồn và phát triển bền vững.

Hầu hết các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu về ngành cũng như giám
sát lâu dài về các quá trình sinh thái và đa dạng sinh học đều được triển khai
trong các khu dữ trữ sinh quyển- đây được xem như “phòng thí nghiệm
sống” của thiên nhiên
cho các vùng đòa lý sinh
thái chính trong nước và
quốc tế.

Hoạt động
nghiên cứu khoa
học ở
Cát Bà

Hà Hải Vân

Trang 23


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà là điểm đến lý tưởng cho các
đề tài nghiên cứu về cấu trúc hệ sinh thái thiên nhiên đặc biệt ở các vùng lõi,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc so sách các hệ sinh thái tự nhiên với các hệ
sinh thái bò tác động của con người. Các nghiên cứu này có thể tiến hành theo

dõi trong thời gian dài trên cơ sở các trạm quan sát cho phép chúng ta thấy
được những thay đổi theo thời gian cũng như các thay đổi hiện nay đang diễn
ra trong nước và quốc tế. Các nhà khoa học có thể dựa vào đó xây dựng các
giả thuyết mới về các mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng như xác
đònh xu hướng biến đổi khí hậu và môi trường trong tương lai.
Khu dự trữ sinh quyển tạo điều kiện dễ dàng cho việc trao đổi kinh
nghiệm và chia sẻ kiến thức về phát triển bền vững và tài nguyên thiên
nhiên. Các khu dự trữ sinh quyển cũng là nơi trao đổi kiến thức, kó năng, kinh
nghiệm ở các quy mô quốc gia, khu vực và thế giới. Đồng thời khu dự trữ
sinh quyển cũng tạo điều kiện cho việc hợp tác giải quyết các vấn đề trong
giải quyết tài nguyên thiên nhiên. Đây là điểm hẹn lý tưởng cho các nhà
khoa học, các cán bộ quản lý, các nhà tổ chức, các cá nhân muốn gặp gỡ trao
đổi về các giải pháp trong một cơ chế điều hành thống nhất.
Có khá nhiều đề tài nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước đã
được triển khai tại Cát Bà. Năm 1999 – 2000 được sự giúp đõ tài chính
của Đại sứ quán Hà Lan, tổ chức WWF phối hợp với vườn quốc gia thực
hiện chương trình giáo dục môi trường. Năm 2000, được sự tài trợ của Đại
sứ quán Vương quốc Anh, tổ chức nghiên cứu động vật trên thế giới triển
khai trương trình nâng cao nhận thức cho các đối tượng có lợi khi liên quan
tham gia sự nghiệp bảo tồn vườn quốc gia.

3. Chức năng phát triển

Khu dự trữ sinh quyển còn thực hiện chức năng phát triển, thúc
đẩy phát triển kinh tế bền vững về sinh thái cũng như các giá trò văn hoá
truyền thống. Kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ môi trường, bảo tồn tài
nguyên và phát triển kinh tế nâng cao mức sống người dân. Đây là nhân
tố cơ bản đảm bảo cho sự thành công
của công tác bảo tồn.


Hà Hải Vân

Trang 24


Khu DTSQ quần đảo Cát Bà

GVHD: Th.s Trần Đức Minh

Người dân trong khu dự trữ sinh quyển vẫn được phép duy trì các hoạt
động truyền thống của họ để tạo nguồn thu nhập hàng ngày qua việc sử dụng
các
biện pháp bền vững trong pháp triển kinh tế, môi trường, văn hóa và xã
hội.Nhâ
n dâ
trong
vùnngg cá
vẫnCá
đátnhBà
bắt thủy hải sản trong vùng biển Cát Bà
Đườ
ngn và
o cả
tuy nhiên việc đánh phải được quy hoạch vừa đảm bảo năng suất cũng như
chất lượng vừa đảm bảo nguồn lợi bền vững – không làm tận diệt các giống
loài như nghiêm cấm đánh bắt bằng điện, mìn nổ làm tổn hại nguồn lợi.
Đồng thời đẩy mạnh đánh bắt xa bờ.
Song song với tiến hành khai thác cần kết hợp nuôi trồng thủy hải sản
vừa tận dụng được diện tích mặt nước vừa đảm bảo phát triển kinh tế không
những thế còn mang lại giá trò bảo tồn nguồn gien.


Đường vào cảng cá
Cát Bà

Bè nuôi tu hài của
anh Hoàng Xuân
Thủy ở Áng Gầy –
Cát Bà

Dựa vào tiềm năng du lòch của vùng cùng sự phối hợp đầu tư của Nhà
nước - Cát Bà đã và đang trở thành điểm du lòch thu hút du khách trong và
ngoài nước. Đây chính là ngành kinh tế mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho
người dân đồng thời đóng góp cho ngân sách Nhà nước một khoản đáng kể.
Tuy nhiên với việc phát
triển kinh tế phải đi đôi với bảo
vệ nguồn lợi du lòch. Rừng và biển
Cát Bà là điểm du lòch được quan
tâm phát triển nhưng đồng thời
chính quyền đòa phương cũng như
người dân phải tăng cưởng ý thức

Hà Hải Vân

Trang 25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×