Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

mô hình hợp tác công tư ( PPP )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.87 KB, 22 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế là một yêu cầu rất cấp thiết. Tuy
nhiên, việc đầu tư này cần nguồn vốn rất lớn mà ngân sách nhà nước không thể đảm
đương được. Trong bối cảnh ngân sách không "theo kịp" nhu cầu xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, sự hợp tác giữa công - tư chính là lời
giải cho bài toán mang tên tối đa hóa lợi ích cộng đồng. Do đó, trong thời gian qua,
Chính Phủ đã cho phép thực hiện các dự án hạ tầng dưới hình thức BOT, BTO… để thu
hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Dựa trên các kết quả tích cực từ phương thức hợp
tác này, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định thí điểm mô hình hợp tác công tư. Hợp tác
công tư là một phương thức đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng để phát triển các
dự án hạ tầng, giúp giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, nâng cao độ hoàn thiện, hiệu
quả của các dự án hạ tầng và cung cấp hạ tầng đảm bảo yêu cầu của cộng đồng dân cư.
Vì hợp tác công tư là một khái niệm mới, để có thể hiểu và nhận thức đầy đủ về mô hình
hợp tác giữa nhà nước và tư nhân trong cung cấp cơ sở hạ tầng ở Việt Nam là một điều
cần thiết và có ý nghĩa về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn. Đây cũng chính là mục tiêu
của nghiên cứu này. Nội dung của bài nghiên cứu này sẽ trình bày trong những phần tiếp
theo bao gồm:
Phần 2 - Phương pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận
Phần 3 - Hiện trạng các dự án cung cấp cơ sở hạ tầng ở Việt Nam
Phần 4 - Giải pháp nâng cao hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng
Phần 5 - Kết luận
Phần 6 - Tài liệu tham khảo


PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.Phương pháp nghiên cứu:
Trong bài ta sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu:
+Thu thập số liệu
+Phân tích tài liệu


+Phỏng vấn trực tiếp
- Tiếp cận từ nhiều bên có liên quan.
- Phân tích hiện trạng các dự án phát triển hạ tầng.
- Phân tích kỳ vọng…

II.Hợp tác công tư: Lạ mà quen
Theo Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về Ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức
đối tác công tư thì "Đầu tư theo hình thức Công - Tư là việc nhà nước và các đơn vị tư
nhân cùng phối hợp thực hiện Dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công
trên cơ sở Hợp đồng dự án". Hiểu đơn giản, "cái bắt tay" giữa nhà nước và tư nhân giống
như hai miếng ghép hình khớp với nhau. Cụ thể hơn, sự kết hợp giữa lợi thế về chính
sách, cơ chế quản lí, ưu đãi thuế, đất đai của Nhà nước và lợi thế về nguồn vốn, kĩ thuật,
nhân lực của đơn vị tư nhân sẽ phát huy được thế mạnh và đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Theo đó, thuật ngữ Private Public Partnership (PPP), Đối tác công - tư sẽ được tiếp cận
theo hai đối tượng Nhà nước và tư nhân. Yếu tố "tư" để chỉ nhà đầu tư là chưa đủ, mà
phải phân biệt là nhà đầu tư thuộc khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, theo nhận định của
nhiều chuyên gia tại Hội thảo "Thực hiện các dự án công tư, kinh nghiệm và đề xuất"
17/7/2012 thì PPP thật ra đã xuất hiện tại VN dưới các hình thức BTO, BOT, BT...
Tuy nhiên, Nghị định 108/2009/NĐ-CP về các hình thức đầu tư BTO, BOT, BT cùng với
Quyết định 71/2010/QĐ-TTg đã vô tình đem đến sự hiểu lầm rằng PPP là một dạng hợp
tác hoàn toàn mới, mà theo Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh là "lấy một tập mẹ đặt vào tập con".
Chính sự khập khiễng từ cách tiếp cận đã dẫn đến Nhà nước và các doanh nghiệp "chạy
theo" BOT, BT...mà quên đi bao trùm tất cả hình thức này là h thức về ngân sách, kinh
nghiệm, nhân lực mà Nhà nước không thể "ôm đồm".PPP hay Hợp tác công - tư. Đã đến
lúc PPP được nhìn nhận đúng đắn trước những thác
Ngày 14/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP Về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư.


Theo đó, Dự án được lựa chọn thực hiện theo hình thức đối tác công tư phải đáp ứng đầy

đủ các điều kiện như: Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; Phù hợp với lĩnh vực đầu tư quy định tại
Nghị định này; Có khả năng thu hút và tiếp nhận nguồn vốn thương mại, công nghệ, kinh
nghiệm quản lý của nhà đầu tư; Có khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên tục, ổn
định, đạt chất lượng đáp ứng nhu cầu của người sử dụng; Có tổng vốn đầu tư từ 20 tỷ
đồng trở lên, trừ dự án đầu tư theo hợp đồng O&M (Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý) và
dự án quy định tại Nghị định này.
Nghị định cũng quy định nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được hưởng các ưu đãi về
thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hàng hóa nhập khẩu để thực hiện dự án được hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật
về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được miễn hoặc giảm
tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được Nhà nước giao hoặc được miễn hoặc giảm tiền
thuê đất trong thời gian thực hiện dự án phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai.
Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được hưởng các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 10/4/2015 thay thế Nghị định số
108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức hợp đồng
BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT; Nghị định số 24/2011/NĐ-CP ngày 05/4/2011 của
Chính phủ sửa đổi một số điều của Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 của
Chính phủ về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT và
Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quy chế thí điểm về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Có năm hình thức phổ biến trên thế giới hiện nay.
• Thứ nhất, nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng
được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao (thường là thông qua đấu giá) cho tư nhân
vận hành và khai thác.
• Thứ hai, mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành DBFO (Design- Build Finance
- Operate), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình nhưng
nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.
• Thứ ba, xây dựng - vận hành - chuyển giao BOT(Build - Operate - Transfer) là mô hình



mà ở đó công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và vận hành công trình trong một
thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước. Mô hình này khá phổ biến
ở Việt Nam.
• Thứ tư, khác biệt một chút với mô hình BOT, trong mô hình BTO(xây dựng - chuyển
giao - vận hành), quyền sở hữu cơ sở hạ tầng được chuyển giao ngay cho nhà nước sau
khi xây
dựng xong, nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình.
• Thứ năm, là phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành BOO (Build - Own - Operate).
Ở mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công trình, sở hữu và vận
hành
nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới.
Hợp tác công – tư (PPP) là sự hợp tác giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân trong
mối quan hệ kinh tế của việc thực hiện một dự án đầu tư, hợp tác công – tư ở đây có thể
hiểu là Nhà nước chuyển giao quyền lợi, trách nhiệm theo những mức độ khác nhau của
một dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho khối tư nhân. Phần lớn nguồn vốn được tài
trợ bởi Nhà đầu tư còn phần tham gia của Nhà nước không vượt quá 30% tổng mức đầu
tư của Dự án, trừ trường hợp khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Theo Nghị định của Thủ tướng Chính phủ mới ban hành thì dự án được lựa chọn thực
hiện theo hình thức đối tác công tư phải đáp ứng đầy đủ 5 điều kiện:
-Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng và kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương.
- Phù hợp với lĩnh vực đầu tư theo quy định.
- Có khả năng thu hút và tiếp nhận nguồn vốn thương mại, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý của nhà đầu tư.
- Có khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên tục, ổn định, đạt chất lượng đáp ứng nhu
cầu của người sử dụng.
- Có tổng vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên, trừ dự án đầu tư theo hợp đồng O&M và dự
án công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát triển liên kết sản
xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Dự án chưa có trong quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng, kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội của địa phương phải được bộ, ngành, UBND cấp tỉnh xem xét bổ sung
theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Dự án đáp ứng các điều kiện quy định nêu trên có khả năng thu hồi vốn từ hoạt động
kinh doanh được ưu tiên lựa chọn.
Bên cạnh đó, nghị định cũng quy định cụ thể vốn chủ sở hữu và vốn huy động của nhà
đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn chủ sở hữu và huy động các nguồn
vốn khác để thực hiện dự án theo thỏa thuận tại hợp đồng dự án. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu


của nhà đầu tư không được thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư. Đối với dự án có tổng vốn đầu
tư trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu được xác định theo nguyên tắc lũy tiến từng
phần. Cụ thể, đối với phần vốn đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp
hơn 15% của phần vốn này; đối với phần vốn trên 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu
không được thấp hơn 10% của phần vốn.
Vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án không tính vào tổng vốn đầu tư để
xác định tỷ lệ vốn chủ sở hữu. Dự án khác do nhà đầu tư thực hiện để thu hồi vốn đã đầu
tư vào công trình dự án BT phải đáp ứng yêu cầu về vốn chủ sở hữu (nếu có) theo quy
định của pháp luật.
Đặc điểm của thỏa thuận PPP
Thông thường PPP là một cam kết hợp tác lâu dài (khoảng 10-50 năm) trong đó
quyền lợi và trách nhiệm của các bên được phân bổ tương ứng với phần tham gia của mỗi
bên. Điểm nhấn trong phương thức này là thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân
trong các dự án vốn được coi là ít có khả năng sinh lời, do vậy cần có sự tham gia, sự
cam kết của nhà nước để dự án trở thành khả thi (Viability Gap).
Bên cạnh đó, cơ chế PPP tạo ra cơ chế năng động trong việc phân công hợp lý
giữa các bên trong hợp đồng dự án PPP (khu vực công và khu vực tư): bên nào có khả
năng làm tốt hơn một công việc cụ thể sẽ được phân giao thực hiện phần việc đó, đồng
thời được hưởng các quyền lợi từ phần việc đó. Nói cách khác, đó là sự tính toán kỹ
lưỡng các yếu tố tác động đến suốt vòng đời của dự án, sự phân bổ rủi ro giữa các bên

một cách tối ưu nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
PPP khác với tư nhân hóa (trừ một số trường hợp đặc biệt). Tư nhân hóa đồng
nghĩa với việc nhà nước thoát vốn (divesture) hay từ bỏ quyền sở hữu, quản lý và chuyển
giao các quyền này cho nhà đầu tư tư nhân, đồng thời nhà nước quản lý thông qua luật lệ,
quy định chuyên ngành. Trong khi đó, với PPP nhà nước vẫn giữ nguyên quyền quản lý,
kiểm soát nhất định, đồng thời có thể đặt ra những chuẩn mực, yêu cầu ràng buộc về cam
kết chất lượng và dịch vụ đối với nhà cung cấp tư nhân.
Bản chất của thỏa thuận PPP
Để có thể hiểu rõ bản chất hợp đồng PPP trước hết phải đặt chúng trong mối quan
hệ với khái niệm PPP nói chung. Theo đó, trên bình diện tổng quát, PPP là một cơ chế
pháp lý có thể thích ứng tùy theo tính chất của dự án, loại hình quan hệ đối tác mà dự án
đòi hỏi và cũng có thể thích ứng với từng phương thức cung cấp tài chính. Như vậy, PPP


có thể áp dụng với nhiều trường hợp thực tiễn khác nhau. Khi sử dụng cho những dự án
về cơ sở hạ tầng - trường hợp thường được sử dụng nhất - PPP được hiểu là phương thức
huy động vốn của nhà đầu tư tư nhân để tài trợ, xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở
hạ tầng thường do nhà nước thực hiện.
Thỏa thuận PPP cũng gắn liền với phát triển cơ sở hạ tầng. Trong dự án PPP, nhà
đầu tư tư nhân được đặc quyền xây dựng và kinh doanh công trình cơ sở hạ tầng mà
thường do chính phủ thực hiện. Nhà đầu tư tư nhân này cũng có trách nhiệm tài trợ, thiết
kế dự án và vào cuối giai đoạn đặc quyền nhà đầu tư sẽ chuyển giao công trình cho nhà
nước. Giai đoạn đặc quyền chủ yếu xác định bởi độ dài thời gian cần thiết để doanh thu
từ công trình trả hết được nợ của doanh nghiệp và tạo ra được một tỷ suất sinh lời hợp lý
cho việc đầu tư và rủi ro mà doanh nghiệp đó phải chịu.
Để thực hiện dự án PPP, đòi hỏi có nhiều hợp đồng được ký kết, song hợp đồng
PPP là cơ sở pháp lý quan trọng nhất, là tiền đề cho việc hình thành doanh nghiệp dự án
và việc ký kết các hợp đồng liên quan để thực hiện dự án. Hợp đồng PPP là “luật riêng”
của mỗi dự án và là tập hợp các thỏa thuận cho phép nhà đầu tư quyền được thực hiện dự
án với những cam kết đối với nhà nước trong việc phát triển công trình cơ sở hạ tầng.

Như vậy, ở bình diện chung nhất, PPP được hiểu là một thỏa thuận pháp lý để thực
hiện một phương thức đầu tư nhằm huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân để tài trợ và
kinh doanh dự án cơ sở hạ tầng vốn thuộc về trách nhiệm của nhà nước, làm giảm gánh
nặng bội chi trong ngân sách nhà nước đồng thời tạo ra một cơ chế hữu hiệu trong việc
đầu tư của tư nhân phục vụ lợi ích công cộng. Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy có
nhiều cách định nghĩa khác nhau về hợp đồng PPP tùy theo việc nhìn nhận hợp đồng
dưới những khía cạnh khác nhau, cụ thể như sau:
- Dưới góc độ là một quá trình, hợp đồng PPP được hiểu là hình thức pháp lý để
nhà đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng và vận hành (kinh doanh) công trình đó
trong một thời gian nhất định đủ để nhà đầu tư thu hồi vốn và lãi. Sau thời gian đặc
quyền đó, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình cho chính phủ. Ở khía cạnh
này, hợp đồng PPP luôn đi kèm với một dự án cụ thể. Khi hợp đồng chấm dứt thì cũng có
nghĩa dự án đó kết thúc. Chính vì yếu tố này mà người ta thường gọi hợp đồng PPP là
hợp đồng dự án. Ưu điểm lớn nhất của khái niệm hợp đồng PPP là nêu bật những cam kết
của nhà đầu tư trong việc phát triển công trình cơ sở hạ tầng và việc chuyển giao công
trình đó cho nhà nước sau khi hết thời hạn kinh doanh công trình.


- Nhìn nhận khía cạnh chủ thể, hợp đồng PPP được coi là thỏa thuận đầu tư giữa
nhà đầu tư và chính phủ (thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền) trong việc đầu tư
xây dựng công trình công cộng vốn dĩ thuộc trách nhiệm của nhà nước. Như vậy, định
nghĩa này nêu bật mối quan hệ giữa nhà đầu tư và chính phủ, thể hiện sự kết hợp hài hòa
giữa yếu tố “công” và “tư” trong hợp đồng.
- Hợp đồng PPP được định nghĩa là một hợp đồng “nhượng quyền”, theo đó nhà
nước có nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, nhưng không đủ khả
năng tài chính và kinh nghiệm để thực hiện các công trình đó nên trao cho một hoặc một
nhóm nhà đầu tư, thông qua quy trình chọn thầu, đặc quyền xây dựng, vận hành, quản lý
và khai thác thương mại dự án đó trong một thời hạn nhất định đủ để thu hồi vốn và lợi
nhuận hợp lý và sau đó chuyển giao công trình không bồi hoàn cho nhà nước.
Mặc dù khái niệm “nhượng quyền” được thừa nhận ở pháp luật của rất nhiều nước

song hiện nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất về phạm vi của việc “nhượng
quyền”. Một số đặc điểm chung của nhượng quyền bao gồm: (1) việc nhượng quyền
được cấp trên cơ sở thẩm quyền của chính phủ, (2) việc nhượng quyền quy định các
quyền của nhà đầu tư để thực hiện một dự án nhất định (chẳng hạn quyền xây dựng, vận
hành và kinh doanh một nhà máy điện), (3) việc nhượng quyền trong một chừng mực nào
đó có thể bao gồm quyền khai thác độc quyền trong một số lĩnh vực, (4) việc nhượng
quyền tạo nên một số bảo đảm pháp lý cho nhà đầu tư trong việc sử dụng quyền được
cấp.
- Dưới góc độ tài chính, Clifford Chance - một hãng luật quốc tế có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực hợp đồng nhượng quyền đã định nghĩa hợp đồng PPP là cách thức
tài trợ dự án theo đó bên cho vay đối với dự án PPP chỉ xem xét nguồn thu của dự án như
là toàn bộ hoặc phần lớn việc bảo đảm cho các khoản vay mà không dựa trên tài sản của
bên đi vay như các hợp đồng tín dụng truyền thống thông thường khác.
Định nghĩa trên dựa trên một đặc điểm tài chính cơ bản của hợp đồng PPP là tính
chất “tài trợ dự án”, điểm mấu chốt trong hợp đồng PPP. Khái niệm “tài trợ dự án” vay
mượn từ chữ “project finance”, một trào lưu kinh tế mới xuất hiện trong kinh tế học và
luật học. Tài trợ dự án được hiểu là việc các nhà đầu tư tư nhân tìm kiếm các khoản vay
từ bên cho vay trên cơ sở quyền truy đòi hạn chế (bảo lãnh hạn chế - limited recourse),
hay không có quyền truy đòi (không bảo lãnh - none recourse). Quyền truy đòi hạn chế là
việc chỉ một phần khoản vay của bên cho vay được bảo đảm bởi một số hình thức cầm


cố, thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản theo phương thức truyền thống, phần còn lại không
được bảo đảm mà được cho vay trên cơ sở bên cho vay xem xét và thẩm định khả năng
tạo doanh thu của dự án. Không có quyền truy đòi là toàn bộ khoản vay của bên cho vay
không được bảo đảm bằng bất kỳ hình thức nào như cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh tài
sản. Trong phương thức này bên cho vay hoàn toàn dựa vào các tính toán tài chính đối
với nguồn thu dự tính từ việc kinh doanh dự án để hoàn trả khoản vay.
Tính chất tài trợ dự án trong hợp đồng PPP xuất phát từ đối tượng của khái niệm
PPP gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng. Vốn đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng thường rất

lớn nên ít có nhà đầu tư có đủ tài sản bảo đảm. Mặt khác, tài sản hình thành từ khoản vay
là cơ sở hạ tầng, một loại tài sản phục vụ lợi ích công cộng và sẽ được chuyển giao không
bồi hoàn cho nhà nước. Do vậy, việc tài trợ cho dự án PPP bởi các bên cho vay thường
không phụ thuộc vào giá trị tài sản dùng để bảo lãnh của nhà đầu tư hoặc giá trị tài sản
hữu hình của bản thân dự án. Trong tài trợ dự án, việc tài trợ và cung cấp nguồn tài chính
cho các khoản vay lớn thường phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả và kết quả kinh doanh
của chính dự án. Do vậy, các bên cho vay thường xem xét tới nguồn thu của dự án để
hoàn trả lại vốn vay thay vì các nguồn bảo đảm khác như tài sản của dự án hay của các
nhà tài trợ dự án. Đây là nét đặc trưng của việc đầu tư theo phương thức hợp đồng PPP
thể hiện tính phức tạp, tính xã hội và tính đặc thù của hợp đồng PPP.
Mô hình hợp tác công tư (PPP) là việc Nhà nước và Nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện
dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án nhằm
kết hợp được những điểm mạnh của cả hai khu vực này. Việc thực hiện mô hình PPP
đang còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ký
ban hành nghị định của Chính phủ quy định một số điều khoản về đầu tư theo hình thức
đối tác công - tư (PPP).
Các bước trong quy trình thực hiện dự án hợp tác PPP thường bao gồm 4 giai đoạn
chính sau:

Giai đoạn 1: Xác định PPP. Trong giai đoạn này, các công việc cần chuẩn bị gồm: lập kế
hoạch chiến lược; phân tích tiền khả thi của dự án, phân tích tài chính; kiểm tra tính phù
hợp của PPP; xây dựng chính sách, chiến lực đối với Dự án; Thông thường giai đoạn này
được tiến hành theo quy trình: Tổ công tác PPP sẽ xem xét, lập đề xuất trình Hội đồng tư
vấn, Hội đồng tư vấn trình Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ lấy ý kiến của Bộ


tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Văn phòng Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan
quyết định danh mục Dự án và phần tham gia của Nhà nước.

Giai đoạn 2: Phát triển Dự án. Trong giai đoạn này, công việc chính là: chuẩn bị dự án

(bao gồm phân tích tính khả thi về mặt kỹ thuật và mức độ bền vững tài chính), cấu trúc
dự án, chuẩn bị các tài liệu, văn bản cho hợp đồng;

Giai đoạn 3: Đấu thầu. Giai đoạn này bao gồm việc tổ chức đấu thầu và lựa chọn nhà
thầu cho dự án. Việc đấu thầu cần được diễn ra minh bạch, có trách nhiệm giải trình,
không phân biệt, mang tính cạnh tranh nhằm khuyến khích sự tham gia của khu vực tư
nhân và gây dựng niềm tin của công chúng về thủ tục đấu thầu;

Giai đoạn 4: Triển khai Dự án. Trong giai đoạn này, phía Nhà nước thực hiện chức năng
giám sát và quản lý quá trình thi công; phía tư nhân thực hiện thi công xây dựng công
trình.

Khi tham gia hợp tác PPP trong các giai đoạn trên, các bên cần lưu ý:

- Đối với phía Nhà nước: Lập quy hoạch phát triển Dự án cụ thể, xây dựng những khung
chính sách và thể chế cũng như khung pháp lý và các điều kiện cần và đủ đối với các
doanh nghiệp muốn tham gia; thông báo công khai về dự án để kêu gọi đầu tư hợp tác, tổ
chức đấu thầu để chọn ra Nhà đầu tư có năng lực nhất thực hiện Dự án. Sau khi lựa chọn
được Nhà đầu tư, Nhà nước và doanh nghiệp tiến hành ký kết Hợp đồng chính thức và
cho triển khai Dự án trên thực tế.

- Đối với phía doanh nghiệp: khi quyết định tham gia hợp tác PPP cần nghiên cứu các
chính sách, thể chế, các quy định hiện hành có liên quan đến Dự án, xác định sự phù hợp
giữa năng lực của doanh nghiệp và lợi nhuận kỳ vọng đối với từng Dự án, sau đó chuẩn
bị hồ sơ tham gia đấu thầu.

Ưu




nhược

điểm

của



hình

PPP


Mô hình PPP đã giúp giải quyết được 4 vấn đề cốt yếu hiện nay ở Việt Nam, cụ thể:

- Sự thiếu hụt về vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng: nguồn Ngân sách Nhà nước là có hạn, nợ
nước ngoài nhiều và các nguồn thu còn hạn chế. Do đó, áp dụng một cách hiệu quả mô
hình PPP sẽ giúp giải quyết được vấn đề khó khăn này.

- Lạm phát tăng cao;

- Cắt giảm đầu tư công;

- Tìm phương thức quản lý và đầu tư mới.
Theo phân tích của Ngân hàng Phát triển châu Á trong quyển Public-Private Partnership
Handbook (tạm dịch là Sổ tay hướng dẫn mô hình hợp tác công - tư), xuất bản năm 2008,
ba động cơ để áp dụng mô hình PPP là thu hút vốn đầu tư tư nhân, gia tăng hiệu quả sử
dụng các nguồn lực có sẵn, và tạo ra động cơ cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình.
Nhìn từ góc độ nhà nước, ưu điểm lớn nhất của hợp tác công - tư là giảm được gánh nặng
cũng như rủi ro đối với ngân sách. Ví dụ, đối với một dự án BOT, các nhà đầu tư tư nhân

phải chịu hoàn toàn gánh nặng tài chính cũng như rủi ro về vận hành. Hơn thế, mô hình
PPP giúp giải quyết được vấn đề kém hiệu quả. Vì mục tiêu lợi nhuận nên các nhà đầu tư
tư nhân phải tìm cách để dự án được vận hành hiệu quả hơn. Thêm vào đó, với việc tham
gia của khu vực tư nhân, sự sáng tạo, trách nhiệm giải trình cũng như sự minh bạch có
khả năng sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô hình PPP là chi phí
lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao hơn. Trong nhiều trường
hợp việc thiết kế cơ chế tài chính và cơ chế phân chia trách nhiệm, xác định mức thu phí
hay phần trợ cấp của nhà nước là vô cùng phức tạp. Hơn thế, mâu thuẫn giữa lợi ích
chung và lợi ích cá nhân cũng là một vấn đề. Vì một mục tiêu nào đó (ví dụ muốn có một
khu đất hay dự án khác) mà nhà đầu tư tư nhân vẽ ra những dự án mà sau khi xây dựng
rất ít, thậm chí không có người sử dụng là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

PHẦN 3: HIỆN TRẠNG CÁC DỰ ÁN CUNG CẤP CƠ SỞ
HẠ TẦNG Ở VIỆT NAM
1, HIỆN TRẠNG


PPP ở Việt Nam trên thực tế đã có mặt ở Việt Nam từ đầu thập niên 1990. Ví dụ, dự án đô
thị mới Phú Mỹ Hưng được thực hiện theo cách kết hợp giữa BOT và đổi đất lấy hạ tầng.
Đây có thể xem là dự án theo mô hình hợp tác công - tư cũng như đổi đất lấy hạ tầng
thành công nhất Việt Nam. Nếu so sánh với nhiều khu đất cũng như tài nguyên khác được
giao cho các nhà đầu tư tư nhân mà Nhà nước gần như không thu được gì, thì ở dự án
này, Nhà nước đã thu được: khoảng 60% lợi ích tài chính từ dự án, một con đường hiện
đại và một mô hình đô thị kiểu mẫu. Ngoài ra, có thể kể đến nhiều dự án hợp tác công tư khác đã và đang được triển khai từ thập niên 1990 đến nay như: BOT cầu Cỏ May,
BOT cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều nhà máy điện nhỏ và vừa khác đang được
thực hiện theo phương thức BOO. Tóm lại, PPP hay hợp tác công - tư không phải là mô
hình mới ở Việt Nam.
Thực tế thực hiện ở Việt Nam
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 1994-2009 đã có 32 dự án
được thực hiện theo mô hình PPP với tổng mức vốn cam kết khoảng 6,7 tỉ đô la. Trong

đó mô hình BOT và BOO là chủ yếu. Hai lĩnh vực đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất là điện
và viễn thông.
Bộ Giao thông vận tải (GTVT) cho biết, trong giai đoạn 2011 - 2015, tính đến hết tháng
7/2015, ngành GTVT đã thu hút được 71 dự án triển khai theo hình thức đầu tư đối tác
công - tư (PPP) xây dựng hệ thống đường bộ với tổng mức đầu tư khoảng 202.556 tỷ
đồng, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng cảng biển với tổng mức đầu tư 157.600 tỷ đồng,
đầu tư bến, cảng thủy nội địa với tổng mức đầu tư khoảng 18.977 tỷ đồng. Trong đó, số
dự án đầu tư theo dạng thức hợp đồng BOT là 69 dự án, với tổng mức đầu tư là 186.481
tỷ đồng. Ví dụ như: dự án Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội - Cần Thơ và đường Hồ Chí Minh qua
Tây Nguyên; Dự án Đầu tư nâng cấp tuyến Pháp Vân - Cầu Giẽ, Dự án Nâng cấp, mở
rộng Quốc lộ 1K, Dự án Nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 51, Xây dựng cầu Cổ Chiên, Dự án
Xây dựng cầu Mỹ Lợi, Dự án Đầu tư, nâng cấp Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội - Bắc Giang,
Quốc lộ 38 đoạn Bắc Ninh - Hải Dương, cầu Thái Hà…
Theo số liệu của Cục quản lý đấu thầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng số dự án PPP được
đề xuất hiện nay là 186 dự án, gồm 165 dự án đề xuất từ UBND tỉnh/thành phố, 21 dự án
đề xuất từ các bộ ngành. Trong đó lĩnh vực giao thông chiếm 30%, môi trường chiếm
25%, dịch vụ thương mại chiếm 25%, năng lượng-y tế-nông nghiệp chiếm 20% và các
lĩnh vực khác chiếm 5%.
2, ĐỊNH HƯỚNG TRONG TƯƠNG LAI
Tốc độ tăng trưởng nhanh của Việt Nam đã khiến phát triển hạ tầng không theo kịp và tạo
ra rào cản lớn cho tiếp tục tăng trưởng và đầu tư hướng vào xuất khẩu. Từ nay đến năm
2020, ước tính cần phải đầu tư 200 tỉ USD cho xây mới đường sá, cầu cống, cảng, nước
sạch, điện và các hạ tầng khác để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng. Chính phủ Việt Nam


không thể tài trợ toàn bộ khoản đầu tư này từ nguồn ngân sách nhà nước hoặc vốn vay
ODA và do vậy hình thức đầu tư PPP là một lựa chọn thay thế.
Đối tác tư nhân không chỉ đưa vào nguồn lực tài chính mà họ còn có bí quyết kỹ thuật và
kinh nghiệm thực tiễn cần thiết để hỗ trợ cho các dự án hạ tầng do chính phủ quản lý.
Trong những năm vừa qua, Dự án Sáng kiến Cạnh tranh Việt Nam của USAID

(USAID/VNCI) đã hỗ trợ Bộ KH-ĐT xây dựng một chương trình PPP với sự tham gia
của tất cả các bộ ngành. Các hoạt động của dự án bao gồm tổ chức các chuyến thăm quan
học tập tới các quốc gia khác đã triển khai thành công các chương trình PPP, tổ chức hội
thảo với các bên có liên quan chính để tạo sự đồng thuận đối với các vấn đề liên quan đến
PPP cũng như cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực cho chính phủ và các cơ
quan cấp tỉnh chịu trách nhiệm triển khai các dự án PPP. Hiện tại, việc thực hiện các dự
án PPP tuân theo Nghị định số 15/2015/NĐ-CP Về đầu tư theo hình thức đối tác công tư
để làm hài hòa lợi ích của nhà nước và nhà đầu tư tiềm năng cho các dự án PPP. Bộ KHĐT hiện đang tham mưu cho Chính phủ và hỗ trợ các tỉnh để triển khai các dự án PPP.
Tuy mô hình này đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu nhưng hành lang pháp lý của chúng
ta chưa hoàn thiện, còn thiếu đồng bộ. Kinh nghiệm thực hiện PPP của nhiều nước trên
thế giới cho thấy, việc các luật thiếu thống nhất, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện
thỏa đáng là những yếu tố góp phần làm các dự án PPP thất bại. Phải đặc biệt quan tâm
đến các quy định về trách nhiệm tài chính đối với hỗ trợ tài chính của Chính phủ, cơ chế
lãi suất, cũng như quy định rõ cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện các dự án
PPP. Ngoài ra, vấn đề tiên quyết đối với việc huy động các nhà đầu tư thực hiện mô hình
PPP chính là cơ hội tìm kiếm lợi nhuận từ các dự án, nhưng 1 số doanh nghiệp còn băn
khoăn về ràng buộc bảo lãnh vốn vay và tỷ lệ góp vốn.
Tóm lại, theo thống kê cho thấy mô hình PPP tuy đã phổ biến ở Việt Nam theo hình thức
chủ yếu là BOT, BOO nhưng còn khá khiêm tốn và khi triển khai cần những điều kiện
nhất định khác. Đặc biệt là vấn đề pháp lý của nhà nước ta có thu hút hấp dẫn được các
nhà đầu tư trong và ngoài nước không ? Vì thế chúng ta cần đưa ra biện pháp cải thiện để
có thể tận dụng tốt nguồn vốn từ các nhà đầu tư một cách hiệu quả và có lợi cho hai bên
tham gia nhất.
Những tồn tại khi áp dụng PPP
Thứ nhất, nhà nước giữ vai trò chỉ "hỗ trợ" nên không phát huy thế mạnh của chính
quyền.
Thứ hai, chưa có hệ thống chính sách, hành lang pháp lý, thể chế rõ ràng và có hiệu lực
thực thi cao.
Thứ ba, thực lực tài chính của nhà đầu tư trong nước yếu.
Thứ tư, các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính mạnh, chuyên môn cao nhưng

rất nhạy cảm với môi trường đầu tư chưa rõ ràng nên không muốn đầu tư.


Thứ năm, trong mối quan hệ hợp tác, rủi ro chưa được chia sẻ phù hợp. Thứ sáu, kinh tế
vĩ mô không ổn định
3, THUẬN LỢI:
Sử dụng được những kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu vực tư nhân.
Buộc khu vực công cộng ngay từ đầu phải chú trọng đầu ra và lợi ích ( thay vì các yếu tố
đầu vào). Đưa vốn tư nhân vào và giúp giảm nhẹ gánh nặng về tài chính cho dự án. Rủi
ro được chia sẻ giữa những đối tác khác nhau. Chắc chắn về ngân sách. Những nhà cung
cấp tư nhân có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp dịch vụ trong môi trường khuyến
khích thích hợp. Trong mô hình sáng kiến tài chính tư nhân ( PFI), khu vực công cộng chỉ
thanh toán khi dịch vụ đã được cung cấp.
Ngoài ra, còn tạo ra nhiều khoản đầu tư hơn cho cơ sở hạ tầng, tạo ra sự ổn định và tăng
trưởng cho khu vực tư nhân, phân bổ và quản lý rủi ro tốt hơn và hiệu quả hơn, tiết kiệm
chi phí, cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp, nâng cao khả năng quản lý công, uy tín về
mặt chính trị tốt hơn cho Nhà nước
4, KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ
PPP ngụ ý việc khu vực công cộng mất quyền kiểm soát quản lý và vì vậy khó có thể
chấp nhận trên góc độ chính trị. Liệu khu vực công có đủ năng lực và kỹ năng để ápdụng
phương pháp PPP và thiết lập môi trường pháp lý để khuyến khích thích đáng không?
Liệu khu vực tư nhân có đủ năng lực chuyên môn để đảm bảo thực hiện PPP không?
Không thể chuyển giao rủi ro tuyệt đối. Việc mua sắm có thể tốn nhiều thời gian và chi
phí. Các cấu trúc dài hạn tương đối không linh hoạt.
Các chuyên gia đã chỉ ra rằng dự án PPP khó thu hút các nhà đầu tư của khu vực tư nhân
vì những nhân tố cụ thể sau:
- Tính bất ổn, khó dự đoán của môi trường đầu tư;
- Khả năng thực thi các cam kết của Chính phủ kém;
- Thiếu các quy định pháp lý cần thiết;
- Lựa chọn đối tác tư nhân không theo nguyên tắc cạnh tranh mà chịu sự tác động của

chính trị và sự bảo hộ của Chính Phủ đối với một số doanh nghiệp;


- Chính sách điều tiết của Chính Phủ kém hấp dẫn khiến nhà đầu tư tư nhân không đạt
được kỳ vọng của mình. Bên cạnh đó, Dự án PPP cũng không đạt được hiệu quả tại
những quốc gia có:
- Thể chế chính trị không ổn định;
- Tham nhũng, quan liêu, điều hành quản lý của Nhà nước kém hiệu quả, sự cưỡng chế
thực thi hợp đồng hiệu lực thấp;
- Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh. Trong quá trình thực hiện PPP, các doanh nghiệp
cũng gặp phải không ít khó khăn mà nguyên do xuất phát từ những tồn tại nêu trên. Cụ
thể:
- Việc giải phóng mặt bằng còn gặp phải sự phản đối của người dân do chính sách bồi
thường và tái định cư của Nhà nước chưa đảm bảo được lợi ích cho người dân có đất bị
thu hồi;
- Quá trình giải quyết vấn đề phát sinh luôn kéo dài do trình tự thủ tục đàm phán, thỏa
thuận giữa doanh nghiệp và đối tác công còn rườm rà, qua nhiều cấp bậc dẫn đến việc thi
công bị trì hoãn, lãng phí thời gian và chi phí;
- Do chưa có cơ chế phân chia rủi ro rõ ràng giữa doanh nghiệp và đối tác công nên
doanh nghiệp luôn phải gồng mình tự giải quyết, tháo gỡ khó khăn;
- Do tiêu cực xuất phát ngay từ thời điểm xét thầu và chỉ định thầu, doanh nghiệp trúng
thầu không có năng lực khiến cho quá trình thực hiện Dự án trở nên vô cùng khó khăn,
công việc trì trệ. Dự án không thể hoàn thành theo đúng tiến độ, ảnh hưởng đến quy
hoạch chung;
- Sự yếu kém trong năng lực quản lý, giám sát, thiếu linh hoạt, thiếu quyết đoán của đối
tác công cũng gây khó khăn không nhỏ đến việc thực hiện Dự án của doanh nghiệp;
- Sự phân chia rủi ro giữa đối tác công và đối tác tư không rõ ràng khiến cho quá trình
nghiệm thu, chuyển giao công trình và bồi hoàn cũng phát sinh nhiều vấn đề tranh chấp,
doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận kỳ vọng.
5, KẾT LUẬN

Mô hình hợp tác công tư (PPP) trong việc đầu tư nâng cao chất lượng các dịch vụ công
được coi là hướng đi đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên, không nên
được nhìn nhận như một “hạt đậu thần” và để mô hình này có thể thực sự hoàn thiện và
đem lại lợi ích như mong muốn rất cần có những phương pháp tiếp cận PPP phù hợp
nhằm đạt được những kết quả về cơ sở hạ tầng tôt hơn và có được giá trị đông tiền cao


hơn so với hình thức mua bán truyền thống của khu vực công cộng. Chúng tôi cho rằng
cần có một số biện pháp đồng bộ khi áp dụng hình thức PPP vào Việt Nam để có hiệu
quả:
Thứ nhất: Tạo lập khuôn khổ pháp lý và chính sách thực thi hợp đồng và giải quyết tranh
chấp, luật BOT/PPP, khung quy định về các khu vực rõ ràng. Để đảm bảo sự thành công
cho mô hình PPP nói chung và mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng cần
hội đủ hai yếu tố cơ bản sau: "hợp đồng hiệu quả" để tăng giá trị vốn đầu tư và "môi
trường thuận lợi" để quản lý PPP, trong đó một trong những nội dung cơ bản nhất của
nhân tố môi trường chính là khung thể chế, pháp lý đầy đủ và ổn định. Điều này sẽ góp
phần giảm chi phí giao dịch, tăng tính minh bạch cho các mô hình PPP và khuyến khích
các nhà đầu tư tư nhân tham gia tích cực hơn.
Thứ hai : Trong hoàn cảnh Việt Nam đang thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng như hiện nay, nhà đầu tư tư nhân nên tập trung hơn vào mô hình hợp tác công tư
trong đó nhà đầu tư tư nhân có tham gia tài trợ dự án như BOT, BOO hơn các mô hình
chỉ đóng góp kinh nghiệm, khả năng điều hành quản lý như thiết kế-xây dựng hay vận
hành-bảo dưỡng.
Thứ ba : Các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực mạnh về nguồn vốn có thể làm một
mình hay kết hợp hai, ba nhà đầu tư tư nhân tham gia hợp tác công tư. Riêng đối với nhà
đầu tư tư nhân trong nước nên kết hợp nhiều công ty theo hình thức cổ phần nhằm khắc
phục các hạn chế về quy mô, năng lực tài chính và giảm thiểu rủi ro đầu tư.
Thứ tư : Do các dự án hạ tầng chịu nhiều tác động của chính sách cũng như hoàn cảnh xã
hội nên các điều khoản trong hợp đồng cần linh hoạt, có biên độ điều chỉnh để tránh thiệt
hại cho nhà đầu tư cũng như chính quyền.

Thứ năm : Có sự hỗ trợ chính trị từ tầm cao và quản trị tốt, đảm bảo rằng chính phủ sẽ
thực hiện các cam kết của mình dưới hình thức PPP. Hợp đồng ký kết giữa chính quyền
và nhà đầu tư cần rõ ràng, minh bạch là điều kiện tiên quyết để chính quyền đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư và là cơ sở cho chính quyền tận dụng hiệu quả nhất tính năng
động và cạnh tranh của khu vực tư nhân, góp phần tiết kiệm các chi phí về cơ sở hạ tầng
của toàn xã hội.

Phần 4 - Giải pháp nâng cao hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng
Mô hình hợp tác công tư (PPP) trong việc nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng được coi là
hướng đi đúng đắn của VN trong giai đoạn này. Tuy nhiên, để mô hình này có thể thực sự
hoàn thiện và đem lại lợi ích như mong muốn rất cần có một chính sách, một khung pháp
lý đủ rộng.
Phương án khắc phục các điểm còn hạn chế trong quá trình thực hiện PPP:
1- Giảm rủi ro đối với các nhà đầu tư tư nhân
Trong suốt thời hạn của một dự án cơ sở hạ tầng, các nhà đầu tư tư nhân phải đối mặt với


nhiều rủi ro mà họ cần xem xét: rủi ro đấu thầu, rủi ro đàm phán, rủi ro xây dựng, rủi ro
hoạt động và rủi ro từ Chính phủ.
Nếu được thực hiện đúng đắn, khuôn khổ PPP có khả năng giảm bớt rủi ro, đặc biệt
trong các giai đoạn ban đầu, do khuôn khổ PPP quy định một quy trình lựa chọn nghiêm
túc đối với các dự án PPP dựa trên các tiêu chuẩn cơ bản và bằng việc thực hiện một
nghiên cứu tiền khả thi. Điều này sẽ giúp sàng lọc các dự án không phù hợp và chú trọng
hơn vào các dự án chất lượng cao hơn.
Khuôn khổ PPP cũng quy định việc chỉ định các cố vấn nhằm hỗ trợ Chính phủ trong các
thủ tục đấu thầu. Do các cố vấn quen thuộc với các rủi ro tiềm tàng và phương pháp phân
bổ hoặc giảm thiểu các rủi ro này, các cố vấn có thể hỗ trợ chuẩn bị chi tiết các dự án,
tránh được các thiếu sót có thể phát sinh. Đồng thời, các cố vấn không chỉ hỗ trợ định
hình các dự án có khả năng vay vốn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
năng lực của các đơn vị triển khai.

Ngoài ra, khuôn khổ PPP cũng quy định cách tính toán cơ chế cấp vốn, xác định chính
xác yêu cầu hỗ trợ từ Chính phủ và sự phụ thuộc của dự án vào Chính phủ, có thể cần
được Chính phủ bảo lãnh.
Với việc chuẩn bị tốt hơn các dự án trước khi đưa các dự án ra thị trường, thời gian đàm
phán cũng như chi phí đấu thầu sẽ giảm đối với các nhà thầu tư nhân. Một ví dụ trong
trường hợp ngược lại là thủ tục đấu thầu dự án nhà máy điện Nghi Sơn đã bị trì hoãn
đáng kể trong suốt năm 2009. Các nhà đầu tư đã phải chứng tỏ sự kiên nhẫn của mình;
Tuy nhiên, nếu như dự án này được cho là chuẩn mực của việc đấu thầu rộng rãi cho các
dự án điện BOT tương lai, thì có thể tình trạng này sẽ lặp lại.
Các quy định cụ thể sẽ khiến các dự án cơ sở hạ tầng trở nên hấp dẫn hơn đối với các
nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Việc ban hành các quy định sẽ giúp cho các nhà đầu tư tư nhân tự tin hơn. Tuy nhiên,
việc thực hiện và nâng cao năng lực của các cơ quan thực hiện cũng quan trọng không
kém. Việc Chính phủ thực hiện nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi khiến các
nhà đầu tư tư nhân tin tưởng rằng Chính phủ đã phân tích toàn diện các rủi ro và mức độ
rủi ro của các dự án. Bản thân nhiều dự án không có được hiệu quả hoặc sự hấp dẫn của
chính dự án đó. Thông qua việc xác định trước biên độ góp vốn đầu tư và hiểu được về
sự hỗ trợ hợp lý từ Chính phủ (trợ giá trước, thanh toán trước, đất đai, v.v.), các dự án sẽ
trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Mô hình đầu tư PPP không phải là giải pháp duy nhất và trước mắt, mà là một giải
pháp cho khoản vốn còn thiếu hụt giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn sẵn có
Thủ tục đấu thầu đối với một dự án PPP rõ ràng sẽ mất nhiều thời gian hơn so với thủ tục
đấu thầu một hợp đồng thiết kế xây dựng (DB) truyền thống. Tuy nhiên, cần phải nhìn
nhận rằng các dự án PPP không chỉ xem xét việc thiết kế và xây dựng một dự án cơ sở hạ
tầng (tối đa từ 2 đến 3 năm), mà còn xem xét toàn bộ thời hạn của dự án (20, 30 thậm chí
50 năm). PPP có thể không phải là một giải pháp duy nhất để VN có thể giải quyết ngay
lập tức đối với các dự án của VN. Các hợp đồng DB truyền thống và các phương thức
đấu thầu khác rõ ràng là có vai trò bổ sung đối với hoạt động đấu thầu của Chính phủ nói
chung. Đồng thời, thời gian của quá trình đấu thầu cần được cân nhắc cho phù hợp với



thời hạn của dự án. Một năm là không dài so với 30 năm. Nếu Chính phủ nỗ lực và các
cơ quan thực hiện có thể vượt qua những khó khăn trong việc áp dụng khuôn khổ PPP,
việc xóa bỏ khoảng cách giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn hiện có có khả năng trở thành
hiện thực cao hơn và nền kinh tế VN và người dân VN sẽ được hưởng lợi ích này.
3- Các vấn đề cần giải quyết
Thứ nhất, thị trường sẽ theo dõi chặt chẽ tiến triển quy trình đấu thầu dự án Nghi Sơn 2,
dự kiến được thực hiện đầu năm nay và được cho là một dự án tiêu chuẩn cho các dự án
BOT tương lai trong ngành điện. Đồng thời, dự án đường cao tốc Dầu Giây – Phan Thiết,
một dự án thí điểm thuộc khuôn khổ PPP, được dự kiến là tạo cơ sở áp dụng khuôn khổ
PPP trong các dự án thực tế. Thứ hai, do nhu cầu lớn đối với đầu tư cơ sở hạ tầng, việc
nâng cao năng lực của các cơ quan thực hiện là hết sức quan trọng. Thứ ba, nhằm thu hút
sự quan tâm đối với thị trường cơ sở hạ tầng VN, vấn đề mấu chốt là Chính phủ phải xây
dựng một phương hướng về các dự án được chuẩn bị tốt.
Việc thu hút các nhà đầu tư quốc tế là việc làm quan trọng. Tuy nhiên việc đồng thời
nâng cao tính cạnh tranh của các SOEs nhằm tham gia các quy trình đấu thầu PPP minh
bạch sẽ thúc đẩy thị trường nhà đầu tư trong nước và mang lại cho các nhà thầu quốc tế
các đối tác tiềm năng.
Việc ban hành các quy định cụ thể cho PPP sẽ giúp cho các nhà đầu tư tư nhân tự tin
hơn.
Tuy nhiên, việc thực hiện và nâng cao năng lực của các cơ quan thực hiện cũng quan
trọng không kém.
4- Những cách làm mới
Trước những thách thức trong quá trình thu hút vốn đầu tư PPP, có lẽ chúng ta nên có
những cách tiếp cận và cách làm mới. Dự thảo Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức
đối tác công - tư đã tăng cường vai trò chủ động của Nhà nước trong việc lập, đề xuất các
dự án PPP và mời gọi, lựa chọn các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài thông
qua hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế để đảm
bảo sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nhưng có thể vẫn là chưa đủ để việc thu hút vốn
đầu tư PPP đạt được hiệu quả như mong muốn.

Theo thống kê của Trung tâm Hỗ trợ đấu thầu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được nêu
trong bài viết “Thách thức với mô hình PPP” (TBKTSG số 28-2010, ra ngày 8-7-2010),
tính từ năm 1996 đến nay, cả nước chỉ có 90 dự án đầu tư PPP với tổng số vốn đăng ký
7,1 tỉ đô la. Trong đó, các dự án về giao thông chiếm 70% về số lượng và 95% về vốn;
phần còn lại là các dự án về điện, viễn thông và xử lý nước.
Có thể thấy hiện nay chúng ta quá tập trung vào các dự án đầu tư PPP trong lĩnh vực
giao thông. Trong khi đó, các nhà đầu tư trên thế giới lại đang giảm mạnh nguồn vốn PPP
vào lĩnh vực này. Trong giai đoạn 2000-2009, ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương,
năng lượng luôn là lĩnh vực thành công nhất, thu hút tổng cộng 35% vốn đầu tư PPP (63
tỉ đô la) trong khu vực, tiếp theo là viễn thông với 30% vốn đầu tư PPP (54 tỉ đô la), còn


lĩnh vực giao thông chỉ chiếm khoảng 25% (46 tỉ đô la) và đang có xu hướng giảm
mạnh.
Như vậy, dựa trên mức độ hấp dẫn vốn đầu tư PPP trong khu vực, có thể xếp thứ tự các
lĩnh vực ưu tiên như sau: năng lượng, viễn thông, giao thông và cuối cùng là các dự án xử
lý nước. Nhận biết xu hướng này sẽ có tác dụng rất tích cực trong việc hoạch định chính
sách thu hút vốn đầu tư PPP. Theo đó, khi đề xuất các dự án mời gọi nhà đầu tư nước
ngoài theo hình thức PPP, Việt Nam nên tập trung nhiều hơn cho các dự án phát triển
năng lượng và viễn thông. Vì suy cho cùng, bán cái người khác quan tâm vẫn hiệu quả
hơn là bán cái chúng ta muốn bán. Trong thu hút vốn đầu tư PPP thì sự minh bạch và
bình đẳng giữa các bên tham gia là hết sức quan trọng. Đồng thời cần phải hạn chế tối đa
những rủi ro liên quan đến các xung đột về lợi ích. Những xung đột về lợi ích có thể xảy
ra khi một cơ quan, tổ chức tham gia vào việc đề xuất, chuẩn bị dự án lại cũng đồng thời
có vai trò quan trọng trong việc quyết định lựa chọn dự án. Ngoài ra, xung đột lợi ích
cũng có thể tăng lên khi một cơ quan, tổ chức vừa có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy phát triển dự
án, vừa được giao nhiệm vụ giám sát và thực hiện các đánh giá sau khi dự án được thực
hiện.
Theo dự thảo Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư, việc tổ chức thực
hiện cụ thể được giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Ngân

hàng Nhà nước. Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giữ vai trò chủ trì và có thẩm quyền
rất rộng trong suốt quá trình thực hiện. Các bộ ngành khác phần lớn chỉ đóng vai trò phối
hợp và đóng góp ý kiến. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có vai trò thẩm định trong việc lập dự
án, báo cáo nghiên cứu khả thi cũng như lựa chọn nhà đầu tư và giám sát quá trình triển
khai dự án. Điều này có thể ẩn chứa những rủi ro liên quan đến xung đột lợi ích. Lẽ ra,
nếu Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành dự án cho
đến khi lựa chọn nhà đầu tư thì thẩm quyền giám sát triển khai dự án nên được giao cho
một cơ quan, tổ chức khác. Như vậy sẽ giúp tăng cường khả năng giám sát lẫn nhau giữa
các cơ quan liên quan và đảm bảo sự minh bạch trong quá trình thực hiện các dự án đầu
tư PPP.
- Xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho mô hình PPP; đảm bảo có sự bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ giữa đối tác công và đối tác tư;
- Thực hiện các bước cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính và cơ chế làm việc tập
trung và nhanh gọn hơn;
- Tăng cường học hỏi kinh nghiệm trong hợp tác PPP của các nước phát triển để nâng cao
năng lực quản lý, giám sát đối với các Dự án PPP;
- Thực hiện quy trình hợp tác một cách minh bạch, công khai, đảm bảo yếu tố trung thực,
công bằng trong đấu thầu và lựa chọn Nhà đầu tư có năng lực (hạn chế tiêu cực, tham
nhũng);


- Đối tác công cần hỗ trợ đối tác tư nhiều hơn nữa trong công tác giải phóng mặt bằng,
tạo điều kiện cho đối tác tư có thể tiến hành Dự án theo đúng tiến độ.


PHẦN 5. KẾT LUẬN
Có thể kết luận ngắn gọn rằng, PPP (Public - Private Partner) là mô hình hợp tác mà theo
đó nhà nước cho phép tư nhân cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công
cộng của nhà nước. Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân
được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình

thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, nó
sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân vì tận dụng được nguồn lực tài chính và
quản lý từ tư nhân, trong khi vẫn đảm bảo lợi ích cho người dân. Tiểu luận này đã nghiên
cứu và học tập những kinh nghiệm về PPP của các nước trên thế giới, so sánh hình thức
đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư của các nước (đặc biệt các nước đang phát triển) và Việt
Nam đã cho thấy sự cần thiết phải tăng khả năng huy động vốn từ khu vực tư nhân theo
hình thức PPP để phát triển bền vững hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Hiện nay các
dự án áp dụng mô hình PPP chưa triển khai được hoặc triển khai còn lúng túng, gặp nhiều
vướng mắc chủ yếu là do cả hai khu vực nhà nước và tư nhân chưa thực sự thấu hiểu mục
tiêu của nhau. Sự tương tác giữa hai bên còn rất lỏng lẻo. Nhà nước điều khiển chương
trình PPP một cách cảm tính thay vì tìm cách thấu hiểu kỳ vọng của khu vực tư nhân để
có những hành động chính xác. Bên cạnh đó, Nhà nước còn làm quá nhiều việc thay thị
trường, chen lấn và choán chỗ tư nhân. Điều quan trọng là nhà nước chưa thực sự từ bỏ,
còn bao thầu quá lớn trong dịch vụ công, chưa tách biệt giữa quản lý nhà nước và tổ chức
cung cấp các hàng hóa công cho xã hội. Còn khu vực tư nhân thay vì chủ động chứng
minh khả năng đáp ứng mục tiêu của nhà nước, lại quyết định từ bỏ, tìm kiếm cơ hội phù
hợp hơn. "Cũ người mới ta", tuy PPP rất phổ biến trên thế giới nhưng còn quá mới tại
Việt Nam và tiềm ẩn nhiều thách thức. Để áp dụng hình thức này cần tiến hành các phân
tích cụ thể và thực hiện các dự án thí điểm để có những điều chỉnh thích hợp. Đặc biệt
vấn đề tư nhân hóa cần xem xét cận thận tùy theo mức độ trưởng thành của nền kinh tế
cũng như các cam kết bền vững của Chính phủ thông qua các cơ chế quản lý. Ngoài ra,
vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn hiệu quả cần được chú trọng. Nguồn vốn vay ODA
cần phải tiến hành các biện pháp giám sát chặt chẽ quá trình thu hút và sử dụng vốn để
đảm bảo việc thực hiện được minh bạch. Tiềm năng đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh
vực đầu tư cơ sở hạ tầng ở Việt Nam rất lớn, nhưng khái niệm này còn quá mới nên cần
có thời gian để hoàn thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho PPP "cất cánh".
Tuy nhiên, thành công của nó phụ thuộc rất lớn vào hành động của Chính phủ. Đây là
loại hình đầu tư thâm dụng vốn và thời gian thu hồi vốn dài. Nếu Chính phủ không có cơ
chế ưu đãi cụ thể đủ hấp dẫn sẽ không thể thu hút được các nhà đầu tư. Do vậy, thách
thức lớn nhất hiện nay là làm thế nào để tạo ra sự phù hợp và hiệu quả trong áp dụng hình

thức PPP, để thấu hiểu nhu cầu của các bên liên quan, và nhất là phải tìm ra một giải pháp
"win-win" cho cả Chính phủ, khu vực tư nhân lẫn cộng đồng. Qua quá trình tìm hiểu và
phân tích, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đóng góp vào việc hoàn thiện


khuôn khổ thể chế nhằm áp dụng có hiệu quả hơn các dự án triển khai theo mô hình PPP
tại Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> />M-hnh-PPP-v-thc-trng-p-dng-ti-Vit-Nam.aspx
/> />


×