Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TIỂU LUẬN về AN SINH xã hội và THỰC HIỆN AN SINH xã hội góp PHẦN NÂNG CAO đời SỐNG vật CHẤT TINH THẦN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.84 KB, 36 trang )

1
MỞ ĐẦU
Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ
quyền của mỗi người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người, mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển. Tuy nhiên, mức độ, quy mô, phạm vi an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội của các nước có sự khác nhau, tùy thuộc vào quan niệm, chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển và chính sách của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi
xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện
bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định
chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều thập kỷ
qua, trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, cùng với việc không ngừng cải tiến
chế độ tiền lương, tiền công và nâng cao thu nhập cho người lao động, Đảng
và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho
nhân dân. Ngay từ Đại hội lần thứ III, Đảng ta đã xác định “…Cải thiện đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta
được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học tập, mở
mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và
thành thị…”. Những năm sau đó, mặc dù trong điều kiện còn hết sức khó
khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đến công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nhận thức, quan
điểm và cơ chế chính sách phát triển hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội được hoàn thiện dần qua các kỳ đại hội của Đảng. Đến Đại hội IX của
Đảng chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát triển bền
vững đất nước: “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…”. Đại hội X của Đảng xác
định “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, tiến tới bảo hiểm y tế toàn


2


dân”, “Từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng
ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội,
nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”1
NỘI DUNG
1. Khái niệm, bản chất và các bộ phận của an sinh xã hội.
1.1. Khái niệm an sinh xã hội
Để hiểu rõ khái niệm an sinh xã hội (ASXH), cần nhìn lại lịch sử phát
triển của nhân loại. Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn,
mặc, ở… Để thoả mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra
những sản phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu
cầu càng cao, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao
động của con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời, không phải khi nào con
người cũng có thể lao động tạo ra được thu nhập. Trái lại, có rất nhiều trường
hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con người bị giảm, mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau, tai
nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong… Hơn nữa, cuộc sống của con
người trên trái đất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường
sống. Những điều kiện thiên nhiên và xã hội không thuận lợi đã làm cho một
bộ phận dân cư cần phải có sự giúp đỡ nhất định để bảo đảm cuộc sống bình
thường. Do đó, để tồn tại và phát triển, con người đã có nhiều biện pháp khác
nhau để khắc phục khó khăn.
Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã
tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”;
đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr 154



3
tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác
nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý
thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác
nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng
công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành và phát
triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương
tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm
thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai
nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối
với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào
khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết
yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục
bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội
đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm
cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và
yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh
tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ
tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi
ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, ASXH (lúc này
là bảo hiểm xã hội) đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không
chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện
nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được
thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, người khoẻ –
người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau



4
chiến tranh thế giới thứ hai, ASXH đã lan rộng sang các nước giành được độc
lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. Ngoài bảo hiểm xã hội(BHXH), các
hình thức truyền thống về tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để
giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn như những người già cô đơn,
người tàn tật, trẻ em mồ côi, người goá bụa và những người không may gặp
rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn… Các dịch vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng
tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt cho người tàn tật, người
già, bảo vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở các nước theo những điều
kiện tổ chức, chính trị, kinh tế – xã hội, tài chính và quản lý khác nhau. Hệ
thống ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình thức
khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong đó BHXH là
trụ cột chính. Đạo luật đầu tiên về ASXH (Social Security) trên thế giới là
Đạo luật năm 1935 ở Mỹ.
Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất,
tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến
năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế.
ASXH đã được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con
người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền
do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên
ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng ASXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã
hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”. Ngày
25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được
gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ
về ASXH đã có trên toàn thế giới thành 9 bộ phận.



5
Tuy nhiên, cho đến nay, do tính chất phức tạp và đa dạng của ASXH nên
vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về vấn đề này. Khái niệm về ASXH cũng
còn khá khác biệt giữa các quốc gia.
Theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là Social Security và khi dịch
ra tiếng Việt, ngoài ASXH thì thuật ngữ này còn được dịch là bảo đảm xã hội,
bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa không
hoàn toàn tương đồng nhau. Theo nghĩa chung nhất, Social Security là sự đảm
bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hòa bình, được tự do
làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp;
được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có
nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu
khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…Theo nghĩa này thì tầm “ bao” của Social
Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên
cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo
đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao
động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ
côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch
hoạ…Theo chúng tôi, ASXH mà chúng ta đang nói tới, nên được hiểu theo
nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này. Bên cạnh khái niệm này, từ
những cách tiếp cận khác nhau, một số nhà khoa học đưa ra những khái niệm
rộng- hẹp khác nhau về ASXH, chẳng hạn:
- Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người Anh (18791963), ASXH là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và bảo
đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.
- Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ, ASXH được hiểu khái quát hơn, đó
là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân,


6

đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát
triển tài năng đến tột độ.
Để dễ thống nhất, theo các nhà nghiên cứu nên dùng khái niệm của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối
với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm
chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu
nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật,
tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia
đình đông con.
Như vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời
sống cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các
biện pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên
trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
1.2. Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội
Theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy:
- ASXH trước hết đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình.
- Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng.
- Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội
trước những biến cố, những “ rủi ro xã hội” dẫn đến bị giảm hoặc mất thu
nhập….
Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo thu
nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là
thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành
viên trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể
thấy rõ bản chất của ASXH từ những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên
hợp quốc thừa nhận.


7

Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của
ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả
mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu
nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên
nhân khác nhau, như ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố và
những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, ASXH
dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực
hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau.
ASXH, như đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn
đề chủ yếu:
- Một là, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự BHXH. Có
thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Chỉ khi có một hệ thống
BHXH hoạt động có hiệu quả thì mới có thể có một nền ASXH vững mạnh.
BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Thông qua các
trợ cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu nhập bù đắp hoặc thay
thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong những trường hợp họ
bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
- Hai là, là sự cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động
và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao
động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt
cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
- Ba là, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những
người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự
giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến khích,
thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn,
ở, dịch vụ đi lại…


8

Hệ thống ASXH hiện đại không chỉ là những cơ chế đơn giản nhằm thay
thế thu nhập mà đã trở thành những véctơ hỗn hợp của cái gọi là “những
chuyển giao xã hội”, tức là những công cụ, những biện pháp phân phối lại tiền
bạc, của cải và các dịch vụ xã hội có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn
(hiểu một cách tương đối, biện chứng nhất) trong cộng đồng xã hội.
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ
cho các thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi.
Thứ hai, ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp.
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác
nhau… là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội. Nhưng
vượt lên trên tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo đảm mọi
mặt để phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã
hội, chủng tộc, tôn giáo… ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người
kém may mắn hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện,
những lực đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”,
có cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. ASXH kích thích tính tích cực
xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người
may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của
Chân – Thiện – Mỹ. Nhờ đó, một mặt có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt
khác, có thể chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy
rạng”… ASXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt chính
kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới
một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
Thứ ba, ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương
thân tương ái của cộng đồng.
Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân
tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những


9

người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo
đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
- ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình diện
xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các tầng lớp
dân cư, đặc biệt là đối với những người nghèo khó, những nhóm dân cư “yếu
thế” trong xã hội. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại
thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều
ngang và dọc. Sự phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự phân phối lại
giữa những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và
người đã nghỉ việc, giữa người chưa có con và những người có gánh nặng gia
đình. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ ASXH hoặc
đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường hợp với
các điều kiện xác định. Thông thường, sự phân phối lại theo chiều ngang chỉ
xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ cấp (một “tập
hợp đóng” tương đối).
Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức
mua của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp,
cho những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực
hiện bằng nhiều kỹ thuật khác nhau: trực tiếp (thuế trực thu, kiểm soát giá cả,
thu nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật
hoặc các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế, nhà ở, giúp đỡ và bảo vệ trẻ
em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện
cho một “tập hợp mở” tương đối).
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện phân phối lại theo chiều dọc còn
gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính và tổ chức. Song cũng có thể có
một số biện pháp để thực hiện một số chế độ cho những người có thu nhập
thấp thông qua hệ thống đóng góp và hệ thống trợ cấp. Những người có thu


10

nhập thấp thường được miễn giảm chế độ đóng góp, hoặc được người chủ sử
dụng lao động (kể cả Nhà nước) đóng cho hoàn toàn. Hệ thống trợ cấp cũng
lưu ý tới những người có thu nhập thấp (tỷ lệ trợ cấp cao hơn so với những
người có thu nhập cao). Sự phân phối theo chiều ngang và theo chiều dọc đã
tạo ra một lưới ASXH (social safety net hoặc social security net).
- ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đến nay người ta đã ý thức
được rằng, sự phát triển của xã hội là một quá trình, trong đó các nhân tố kinh
tế và nhân tố xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau. Sự phát triển của thế
giới trong những năm gần đây đặt ra mục tiêu là bảo đảm những cải thiện
nhất định cho hạnh phúc của mỗi người và đem lại những lợi ích cho mọi
người; bảo đảm phân phối công bằng hơn về thu nhập và của cải, tiến tới công
bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm, mở rộng và cải
thiện về thu nhập giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và bảo vệ môi trường…
Đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh
là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới
đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự khó khăn cho họ. Sự phát triển sau
này của những lưới khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được
những nhu cầu khác nhau của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi
ro xã hội”. Tuy nhiên, phải thấy rằng, ASXH không loại trừ được sự nghèo
túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc
đẩy tiến bộ xã hội.
- ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài người.
Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào cũng đều có những
nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể tự lo liệu được
cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu thế”
trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những người
gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế


11

hoặc tự phát, hoặc tự giác, thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống
ASXH hình thành và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển
toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.
1.3. Các bộ phận của an sinh xã hội.
Về mặt cấu trúc, trên giác độ khái quát nhất, ASXH gồm những bộ phận
cơ bản là:
- Bảo hiểm xã hội.
- Trợ giúp xã hội.
- Trợ cấp gia đình.
- Các quỹ tiết kiệm xã hội.
- Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng…
* Bảo hiểm xã hội
Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không có
BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH ra đời và phát
triển từ khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở châu Âu. BHXH nhằm
bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công nghiệp và gia đình họ
trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất việc làm…, làm giảm hoặc
mất thu nhập. Tuy nhiên, cũng do tính lịch sử và phức tạp của vấn đề, khái
niệm BHXH đến nay cũng chưa được hiểu hoàn toàn thống nhất và gần đây
có xu hướng hòa nhập giữa BHXH với ASXH. Khi đề cập đến vấn đề chung
nhất, người ta dùng khái niệm SOCIAL SECURITY và vẫn dịch là BHXH,
nhưng khi đi vào cụ thể từng chế độ thì BHXH được hiểu theo nghĩa của từ
SOCIAL INSURANCE. Tuy nhiên, sự hòa nhập này không có nghĩa là hai
thuật ngữ này là một. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu BHXH là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất
hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao
động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài


12

chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần
bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ; đồng thời góp
phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia
sẻ rủi ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải
đóng góp tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ
gặp các “sự cố” và đủ điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả
bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người
tham gia, thường là sự chia sẻ giữa chủ sử dụng lao động và người lao động,
với một phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những
trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư tăng
trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ BHXH; các chế độ
được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản
của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu nhập
trước khi hưởng BHXH…
* Trợ giúp xã hội
Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện
sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những
trường hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc
sống tối thiểu của bản thân và gia đình.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền
hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ
có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa
nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.
Trợ giúp xã hội có đặc điểm:
- Thuế được dùng để tài trợ cho các chương trình xã hội đa dạng để chi
trả trợ cấp.


13

- Trợ cấp được chi trả khi các điều kiện theo quy định được đáp ứng.
- Thẩm tra tài sản (thu nhập, tài sản và vốn) thường dùng được xác định
mức hưởng trợ cấp.
* Trợ cấp gia đình
-Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ BHXH dựa trên
những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình.
- Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn
với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế cao hơn những
người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con…
* Các quỹ tiết kiệm xã hội
Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các quỹ
tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân.
- Những đóng góp được tích tụ dùng để chi trả cho các thành viên khi sự cố
xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả một lần theo những quy định.
- Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không
chia sẻ rủi ro cho người khác…
* Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng
Ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước phát triển, trong hệ thống ASXH có
nhiều dạng dịch vụ xã hội, được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng (ngân sách
Nhà nước), bao gồm:
- Trợ cấp cơ bản cho mọi cư dân, hoặc tất cả những người đã từng làm
việc trong một khoảng thời gian nhất định.
- Trợ cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ hưởng;
các chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.
* Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động
- Thường chỉ là hệ thống tai nạn nghề nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho
người lao động.


14

- Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp.
- Trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với chăm sóc y tế và bồi
thường tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp.
- Có thể bao gồm một phần để chi trả chế độ cho người lao động trong
thời gian ngừng việc (nằm trong chế độ BHXH).
* Dịch vụ xã hội khác
- Quy định thêm về ASXH dưới các hình thức khác.
- Khi không có hệ thống ASXH.
- Có thể được thực hiện bởi các tổ chức tự nguyện hoặc phi Chính phủ.
- Bao gồm các dịch vụ đối với người già, người tàn tật, trẻ em, phục hồi
chức năng cho người bị tai nạn và tàn tật, các hoạt động phòng chống trong y
tế (ví dụ tiêm phòng), kế hoạch hóa gia đình.
2. Chính sách an sinh xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Tiếp cận về chính sách xã hội
Từ khi con người sinh sống thành cộng đồng thì các mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa con người với cộng đồng được hình thành và
phát triển ngày càng phức tạp và đa dạng. Trong quá trình phát sinh và phát
triển các mối quan hệ xã hội này, làm nảy sinh các vấn đề xã hội cần được
quan tâm giải quyết. Có những vấn đề phát sinh và phát triển theo từng chế độ
chính trị xã hội, nhưng cũng có các vấn đề cần tồn tại ở các chế độ chính trị
xã hội khác nhau. Có những vấn đề có tính chất riêng, có những vấn đề xã hội
lại có tính toàn cầu, đòi hỏi toàn nhân loại phải giải quyết. Mỗi chế độ, thời
đại đều phải tiếp tục giải quyết các vấn đề xã hội của chế độ trước, của thời
đại trước để lại, đồng thời phải đối phó với những vấn đề mới nảy sinh trong
hiện tại cũng như sẽ phát sinh trong tương lai.


15
Để giải quyết những vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ bản

của một quốc gia là phải xây dựng những chính sách xã hội.
Chính sách xã hội là vấn đề rất rộng lớn, do vậy có nhiều cách tiếp cận
khác nhau, chẳng hạn:
- Theo nhà xã hội học Xô Viết V.Z.Rogovin: “Với tính cách là một bộ
môn khoa học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên
cứu hệ thống về các quá trình xã hội quyết định hoạt động sống của con người
trong xã hội, xét theo khả năng tác động quản lý đến các quá trình đó. Có đầy
đủ cơ sở để coi chính sách xã hội như là sự hòa quyện của khoa học và thực
tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã
hội và sự vận dụng thực tiễn những tri thức thu thập được nhằm mục đích
quản lý các quá trình và các quan hệ ấy” (V.Z.Rogovin – Chính sách xã hội
trong XHCN phát triển – Matxcova, 1980).
- Theo giáo sư Bùi Đình Thanh, để hiểu được chính sách xã hội phải trả
lời được 4 câu hỏi: Ai đặt ra chính sách xã hội? Đặt ra chính sách xã hội để
cho ai? Nội dung mục đích gì? Từ đó ông đưa ra khái niệm về chính sách xã
hội như sau: “Chính sách xã hội là cụ thể hóa và thể chế hóa bằng pháp luật
những đường lối, chủ trương, những biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội
dựa trên những tư tưởng, quan điểm của những chủ thể lãnh đạo, phù hợp với
bản chất của chế độ xã hội chính trị, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng
đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao
nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống, vật chất, văn hóa
tinh thần của người dân” (Bùi Đình Thanh – Chính sách xã hội: Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 1993).
Chính sách xã hội luôn gắn với một chế độ chính trị – xã hội nhất định.
Do đó, khái quát lại có thể hiểu chính sách xã hội như sau: Chính sách xã hội
là sự thể chế hóa và cụ thể hóa những đường lối, chủ trương giải quyết các


16
vấn đề xã hội, dựa trên những tư tưởng, quan điểm của những chủ thể lãnh

đạo, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chính trị, phản ánh lợi ích và
trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm xã hội nói riêng,
nhằm tác động trực tiếp vào con người và điểu chỉnh các mối quan hệ lợi ích
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, hướng tới mục tiêu
cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần của nhân dân.
Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) Đảng ta coi chính sách xã
hội là chính sách bao trùm lên mọi mặt cuộc sống của con người, điều kiện
lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai
cấp, quan hệ dân tộc…
Với cách tiếp cận như vậy có thể thấy chính sách xã hội thực chất là một
hệ thống các chính sách. Mỗi chính sách xã hội có đối tượng, phạm vi, nội
dung điều chỉnh nhất định và nhằm vào một mục tiêu nhất định. Chính sách
xã hội phổ biến là loại chính sách có tác động, có ảnh hưởng sâu rộng đến đời
sống của các tầng lớp dân cư, đến toàn thể cộng đồng.
2.2. Chính sách an sinh xã hội trong hệ thống chính sách xã hội ở
Việt Nam
Trong mô hình nêu trên, chính sách An sinh xã hội (ASXH) là loại chính
sách xã hội phổ biến. Trong chính sách ASXH, như các phần trước đã nêu, về
mặt cấu trúc gồm các bộ phận hợp thành (còn gọi là các trụ cột) là BHXH cho
người lao động; trợ giúp xã hội đối với mọi thành viên của xã hội khi họ gặp
phải rủi ro; chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ xã hội bằng nguồn vốn của
cộng đồng… Trong các bộ phận này của ASXH, BHXH là một bộ phận (hay
trụ cột) lớn nhất, cơ bản nhất và ổn định nhất của hệ thống này. Chính sách
BHXH được coi là trụ cột lớn nhất của hệ thống ASXH quốc gia, bởi lẽ
BHXH có đối tượng rất lớn và toàn bộ người lao động – những người tạo ra


17
của cải vật chất cơ bản cho xã hội. Tính cơ bản, tính ổn định của BHXH trong

hệ thống ASXH thể hiện thông qua vấn đề tài chính để thực thi chính sách của
hệ thống này. Nguồn tài chính của BHXH được hình thành và sử dụng thông
qua quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính tập trung, được hình thành
và tồn tích dần do sự đóng góp theo luật định của các bên tham gia BHXH.
Quỹ này được bảo hộ và đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích phục vụ tốt hơn
cho các bên thụ hưởng BHXH. BHXH càng hoạt động tốt, quỹ BHXH càng
ngày càng phát triển, góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của người
lao động và gia đình họ, đồng thời sẽ tạo ra sự vững mạnh của nền ASXH
quốc gia. Cùng với các bộ phận khác, BHXH góp phần tích cực tạo ra “lưới
an toàn xã hội” đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Điều này cho thấy
chính sách BHXH có vai trò to lớn trong hệ thống ASXH nói riêng và hệ
thống chính sách xã hội nói chung của quốc gia.
Quay trở lại với vấn đề ASXH trong kinh tế thị trường. Như đã nêu, nhu
cầu về ASXH không chỉ được thực hiện trong kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
trong kinh tế thị trường với những quy luật vốn có của mình, một mặt tạo cơ
hội cho con người phát huy khả năng và tiềm năng của mình; mặt khác, con
người có nguy cơ gặp phải rủi ro, bất lợi cao trong đời sống xã hội. Nói cách
khác, kinh tế thị trường làm cho con người luôn có những bất an về mặt xã
hội và vì vậy, nhu cầu về ASXH càng cao. Từ giác độ khác cho thấy, kinh tế
thị trường tuân theo một số quy luật cơ bản, trong đó có quy luật giá trị và
quy luật cung – cầu. Chỉ khi nền kinh tế thị trường phát triển, các quan hệ
trong sản xuất kinh doanh, quan hệ lao động mới được thể hiện rõ. Người lao
động làm việc trên cơ sở hợp đồng lao động, họ được trả công lao động trên
cơ sở giá cả của thị trường và mối quan hệ lao động là mối quan hệ thỏa
thuận. Việc cam kết bảo đảm cho người lao động về tiền lương khi làm việc
và bảo đảm trả cho những rủi ro được thực hiện trên cơ sở hợp đồng. Đây là


18
nền tảng của BHXH hiện đại – một bộ phận quan trọng cả về tầm bao quát và

tài chính của hệ thống ASXH của mỗi quốc gia. BHXH trong nền kinh tế thị
trường tồn tại, hoạt động và phát triển dựa trên mối quan hệ ràng buộc chặt
chẽ giữa người sử dụng lao động (chủ) và người lao động (thợ) thông qua bên
thứ ba – tổ chức sự nghiệp BHXH. Về mặt tài chính, mối quan hệ này thể
hiện ở sự đóng góp có tính chất bắt buộc (đóng phí BHXH) của người sử
dụng lao động và người lao động để hình thành và phát triển quỹ BHXH. Quỹ
BHXH được dùng để chi trả cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và cho các
chi phí quản lý của bộ máy BHXH. Mối quan hệ này là mối quan hệ đặc trưng
của BHXH và chỉ tồn tại được trong cơ chế thị trường. Song song với BHXH,
trong hệ thống ASXH còn có các bộ phận khác do các quỹ công cộng hoặc
cộng đồng đảm nhận như trợ giúp xã hội, trợ cấp gia đình… hoặc các dịch vụ
khác được cung cấp bởi ngân sách Nhà nước (thông qua việc đóng thuế của
mọi doanh nghiệp, mọi người dân) hoặc của cộng đồng. Mặc dù những quỹ
này có tính xã hội nhiều hơn, nhưng chỉ có thể phát huy được trong điều kiện
nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ, kinh tế thị trường mới có thể đa dạng được
nguồn lực, mới phát huy được các tiềm năng của con người để thực hiện các
công việc có tính xã hội này. Ngay cả với các đối tượng thụ hưởng cũng
không chỉ thụ động hưởng cái xã hội mang đến, mà phải tích cực hơn để giảm
thiểu những gánh nặng của xã hội.
Kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành ở Việt Nam, nhưng
những nội dung của ASXH thì đã được thực hiện khá lâu. Do điều kiện kinh
tế – xã hội, văn hóa lịch sử, mầm mống về ASXH đã có trong dân gian nước
ta. Những câu thành ngữ “áo lành đùm áo rách”, “thương người như thể
thương thân”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”…, đã thể hiện tính cộng đồng ở
nước ta và nó đã góp phần điều chỉnh các hành vi trong xã hội về các hoạt
động mang nội dung ASXH và dần được Nhà nước (kể từ thời phong kiến
cho đến nay) xây dựng thành các chính sách về ASXH.


19

Trong xã hội Việt Nam cận đại và đương đại, những nội dung của
ASXH cũng đã được thực hiện, đó là BHXH đối với công nhân, viên chức
Nhà nước (trước năm 1995); là cứu trợ xã hội đối với những người nghèo,
người không may bị rủi ro trong cuộc sống; là ưu đãi xã hội đối với những
người có công với đất nước… Một đặc trưng cơ bản của các hoạt động ASXH
ở Việt Nam trong thời kỳ trước đổi mới là do Nhà nước thực hiện. Nhà nước
đảm nhận cả hai vai, vừa là người ra chính sách, vừa là người thực hiện chính
sách thông qua bộ máy của mình. Với cơ chế điều hành này mà nguồn lực tài
chính chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước, chưa có sự tham gia đông đảo của
người dân, của cả xã hội. Cơ chế điều hành theo kiểu hành chính mệnh lệnh
này đã không cho phép người dân phát huy những nguồn lực của mình cho
các hoạt động ASXH. Vì vậy, về phía xã hội thì lãng phí nguồn lực nhưng
phân phối lại mang tính bình quân. Về phía người thụ hưởng thì trông chờ
nhiều vào Nhà nước, không tự vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh… Chỉ đến khi
Đảng và Nhà nước thực hiện đổi mới, đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các hoạt động ASXH mới có
sự thay đổi về cơ bản. Cũng như các nước có nền kinh tế thị trường, kinh tế
thị trường ở Việt Nam đã làm cho đời sống kinh tế – xã hội năng động hơn,
đa dạng hơn. Kinh tế thị trường mới tạo điều kiện hình thành các thành phần
kinh tế. Người lao động có cơ hội và có điều kiện hơn phát huy được tiềm
năng và khả năng của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các
hoạt động xã hội. Mặt khác, trong kinh tế thị trường, nhất là trong giai đoạn
mới phát triển, người dân nói chung và người lao động nói riêng dễ bị ảnh
hưởng tiêu cực các mặt trái của kinh tế thị trường. Phá sản, thất nghiệp là
những nguy cơ luôn tiềm ẩn; tệ nạn xã hội, phân hóa giàu nghèo là điều khó
tránh khỏi… Những rủi ro này làm tăng nhu cầu về ASXH trong dân cư Việt
Nam hiện đại. Đặc trưng cơ bản của ASXH trong nền kinh tế thị trường ở


20

nước ta là sự chuyển giao dần dần “công việc” từ Nhà nước sang cho xã hội,
cho cộng đồng, nhất là các hoạt động trợ giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo…
Nổi bật nhất trong các bộ phận ASXH của Việt Nam hiện đại đó là
BHXH. BHXH là trụ cột cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đối với hệ
thống ASXH của mỗi quốc gia, trong đó có cả nước ta. Nếu như trước đây,
đối tượng BHXH của nước ta chỉ bó hẹp trong phạm vi công nhân, viên chức
Nhà nước và lực lượng vũ trang thì chỉ đến khi hình thành các thành phần
kinh tế, chúng ta mới có điều kiện mở rộng BHXH cho người lao động trong
các thành phần kinh tế này. Nếu như trước đây, tài chính BHXH chủ yếu là
do ngân sách Nhà nước đảm nhận, thì đến nay đã được chia sẻ bởi người lao
động và người sử dụng lao động. Người lao động và người sử dụng lao động
qua việc đóng BHXH để hình thành quỹ BHXH đã thể hiện được nghĩa vụ
cũng như quyền lợi của mình, khác hẳn với trước đây phụ thuộc vào ngân
sách Nhà nước. Người lao động trong các thành phần kinh tế có quyền được
thụ hưởng BHXH khi có nhu cầu trên cơ sở đóng góp của mình cho quỹ
BHXH. Người sử dụng lao động của các doanh nghiệp phải có trách nhiệm
đóng BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Quỹ BHXH không
hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ nên đã
chủ động về nguồn chi BHXH và đáp ứng ngày càng tốt hơn cho người thụ
hưởng, hạn chế được tính bình quân trong các trợ cấp BHXH. Trong nền kinh
tế thị trường, vai trò của Nhà nước về BHXH không những bị giảm đi như
nhiều người hiểu, mà trái lại càng tăng lên. Chỉ có điều, nếu như trước đây,
Nhà nước vừa ra chính sách vừa thực hiện chính sách BHXH, thì nay chỉ thực
hiện các chức năng quản lý: xây dựng chính sách, thanh tra việc thực hiện
chính sách BHXH. Việc tách các chức năng quản lý Nhà nước và chức năng
hoạt động sự nghiệp BHXH trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam đã làm cho các hoạt động BHXH hiệu quả hơn, phục vụ tốt hơn cho
người lao động.



21
Bộ phận quan trọng khác trong hệ thống ASXH ở Việt Nam đó là các
hoạt động cứu trợ, trợ giúp xã hội. Do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nên
lũ lụt, hạn hán xảy ra ở nhiều nơi và năm nào cũng xảy ra làm một bộ phận
dân cư lâm vào tình cảnh túng quẫn. Mặt khác, nghèo đói, hậu quả của chiến
tranh và những ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường như mại
dâm, ma túy và các tệ nạn xã hội khác… đã hình thành một nhóm dân cư cần
được cứu trợ, trợ giúp xã hội. Nếu như việc cứu trợ, trợ giúp này trước đây
chủ yếu do Nhà nước thực hiện với những “định mức” cả về tiền và hiện vật
rất mang tính bình quân, thì trong kinh tế thị trường, các hoạt động này đã
được “xã hội hóa”, đa dạng hơn. Nguồn lực cho cứu trợ, trợ giúp xã hội đã
được đa dạng hóa từ Nhà nước, người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội và nguồn lực quốc tế. Điều cơ bản nhất, đó là Nhà nước đã tạo ra “hành
lang pháp lý” và tạo điều kiện hết sức thuận lợi để phát huy các nguồn lực này
nhằm hỗ trợ cho những người không may bị thiệt thòi có cơ hội vươn lên hòa
nhập với cộng đồng. Nhà nước vẫn giữ vai trò rất lớn trong các hoạt động cứu
trợ, trợ giúp xã hội này thông qua việc xây dựng cơ chế chính sách và định
hướng hoạt động.
Nói tóm lại, những đặc trưng cơ bản nhất thể hiện rõ mối quan hệ giữa
kinh tế thị trường và ASXH ở Việt Nam là:
- Kinh tế thị trường làm cho các hoạt động kinh tế – xã hội năng động
hơn, người dân được phát huy khả năng của mình; đồng thời kinh tế thị
trường tạo ra những “rủi ro xã hội” và luôn tiềm ẩn những “rủi ro xã hội” mới
làm tăng nhu cầu về ASXH.
- Kinh tế thị trường làm cho đời sống các tầng lớp dân cư thay đổi,
nhìn chung mức sống dân cư được nâng lên, nhưng sự phân hóa giàu nghèo
tăng lên. Điều này làm cho nhu cầu về ASXH vừa được nâng lên và vừa đa
dạng hơn.



22
- Đã có sự chuyển giao dần từ Nhà nước sang cộng đồng các hoạt
động ASXH.
- Nhà nước giữ vai trò hoạch định chính sách, tạo ra cơ chế phát huy tối
đa tiềm năng và khả năng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và toàn xã hội
trong các hoạt động ASXH. Đồng thời, Nhà nước có điều kiện thực hiện chức
năng định hướng và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động ASXH.
- Kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
triển, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, tạo ra tiền đề, cơ sở vững chắc
cho các hoạt động ASXH.
- Từng người dân, từng cộng đồng có điều kiện và cơ hội phát huy khả
năng của mình trong cuộc sống, có điều kiện hơn để tham gia vào hệ thống
ASXH (tham gia BHXH), đồng thời có điều kiện về vật chất để tham gia vào các
hoạt động ASXH (đóng góp cho các hoạt động cứu trợ / trợ giúp xã hội…).
- Nguồn lực cho các hoạt động ASXH được đa dạng hơn, phong phú hơn.
- Người thụ hưởng chính sách ASXH được đảm bảo hơn, nhưng đồng
thời họ có ý thức hơn đối với bản thân (đối với nhóm đối tượng của cứu trợ /
trợ giúp xã hội), tích cực vươn lên để hòa nhập với cộng đồng.
Khác với nhiều nước có nền kinh tế thị trường, ASXH ở Việt Nam được
thực hiện trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Hơn nữa, ASXH ở Việt Nam còn được thực hiện
trong một môi trường văn hóa truyền thống. Vì vậy, ASXH đã kết hợp hài hòa
những tinh hoa của nhân loại và truyền thống của dân tộc. Điều này đã đem lại
cho nền ASXH ở nước ta một sắc thái riêng mà không phải nước nào cũng có
được. Tuy nhiên, sự kết hợp này không phải ở đâu và lúc nào cũng hài hòa, vì
vậy vẫn còn hiện tượng những hoạt động của cộng đồng về ASXH thì lại có xu
hướng hành chính hóa, Nhà nước hóa (nhất là trong các lĩnh vực cứu trợ trợ
giúp xã hội hoặc các hoạt động nhân đạo từ thiện); ngược lại, có những hoạt



23
động thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước thì lại đang bị xã hội hóa một cách
thái quá, nên dễ bị lạm dụng, cần sớm được điều chỉnh cho phù hợp.
3. Thực trạng và giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã
hội góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân hiện nay.
3.1. Thực trạng của việc thực hiện chính sách an sinh xã hội những
năm qua.
10 năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010,
công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Hệ thống các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày
càng đồng bộ và hoàn thiện trên các lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có công với nước, trợ
giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người
dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Cùng với nguồn
lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực trong tổ chức thực hiện, an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt hơn, góp phần quan trọng
vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đặt trọng tâm vào công tác xóa đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Đảng và
Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách,
chương trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người
nghèo, vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo. Các chính sách
và giải pháp xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương
diện: (1) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng,
nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (2)
Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất,
tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; (3) Phát



24
triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến nay
công tác xóa đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân
dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002)
xuống còn khoảng 10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và
nông thôn giảm từ 2,3 lần (năm 1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm
với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hàng năm giải quyết được hơn 1,6 triệu
việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị từ
6,42% (năm 2000) xuống còn khoảng 4,6% (năm 2010), tăng thời gian sử dụng
lao động ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân.
Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần.
Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển với
nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp
thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng
bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất
nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm
2001) lên 9,4 triệu (năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm
triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn
người tham gia. Dự kiến đến hết năm 2010 có khoảng 5,8 triệu người tham
gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm
2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo
hiểm y tế miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người
nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo...
Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn
thiện. Mức trợ cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Năm 2010
ngân sách trung ương đã dành gần 19.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách ưu



25
đãi thường xuyên cho hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia
đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân
cư cùng địa bàn.
Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được thực hiện
rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng.
Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ
hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên
4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hàng năm Nhà nước còn trợ
cấp đột xuất hàng nghìn tỷ đồng (riêng năm 2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục
nghìn tấn lương thực, chủ yếu là để trợ giúp khắc phục thiên tai. Từ đầu năm
2008, Chính phủ đã có nhiều chính sách và giải pháp kịp thời, thiết thực nhằm
hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức, khỏe nhân
dân, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt,
bảo đảm điều kiện đi lại… đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư
cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Chất lượng các dịch vụ nhiều mặt được cải thiện và khả năng tiếp
cận của nhân dân ngày càng được nâng cao. Đến nay 100% số xã, phường đã
có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã có bác sỹ; cả nước hiện có khoảng
23 triệu người đang theo học ở các cấp bậc học, đã hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở; 82,5% số hộ nông thôn đã được sử dụng
nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã được sử dụng điện lưới; 86,9% số hộ sử
dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có đường ô tô đi tới trung tâm xã;
khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn hóa…
Các phong trào “Tương thân tương ái”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống
nước nhớ nguồn” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân,



×