Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG CHÍNH ĐẢNG vô sản VỮNG MẠNH là vấn đề có TÍNH QUY LUẬT TRONG sự PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CỘNG sản và CÔNG NHÂN QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.61 KB, 30 trang )

1
XÂY DỰNG CHÍNH ĐẢNG VÔ SẢN VỮNG MẠNH LÀ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY
LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG
NHÂN QUỐC TẾ

MỞ ĐẦU
Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp vô sản đã trở thành lực lượng đối lập trực
tiếp về quyền lợi với giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột đến bần cùng.
Do vậy, giai cấp vô sản luôn phản kháng quyết liệt và tổ chức các hoạt động đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản, chống lại chế độ áp bức tư bản chủ nghĩa. Xoá bỏ
chủ nghĩa tư bản xây dựng xã hội mới tốt đẹp không có người bóc lột người
chính là sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại.
Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là một phát
hiện vĩ đại của chủ nghĩa Mác- Lênin; thực hiện nó, biến nó trở thành hiện
thực là trách nhiệm cao cả của phong trào cộng sản và công nhân thế giới.
Tuy nhiên, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử cao cả đó thì giai cấp vô sản
phải thành lập được chính đảng của mình và xây dựng nó thực sự trở thành
đội tiên phong, bộ chỉ huy tham mưu chiến đấu của giai cấp.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh , ở đâu ,hễ lúc nào giai cấp vô sản xây
dựng được chính đảng vững mạnh mọi mặt thì phong trào đấu tranh của công
nhân đi đúng hướng và đạt hiệu quả đáng khích lệ; ngược lại nếu giai cấp vô
sản không tổ chức ra được chính đảng của mình, hoặc không quan tâm đến
công tác xây dựng Đảng thì phong trào trì trệ, khủng hoảng, thậm chí tan giã


2

sụp đổ- đó là vấn đề có tính quy luật trong sự phát triển của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết
chống phá cách mạng thế giới, trong đó chống phá Đảng công sản là một


trọng điểm. Do vậy, vấn đề xây dựng Đảng cộng sản vững mạnh không chỉ là
vấn đề quy luật mà còn là vấn đề cấp bách trong sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CHÍNH ĐẢNG VÔ SẢN VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ

1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về chính đảng vô sản
Bằng quan điểm duy vật về lịch sử, Mác và Ăng Ghen đã luận chứng
một cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản,
về tính tất yếu của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang một hình thái kinh tế xã
hội cao hơn là chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã
hội. Hai ông cũng đã chỉ ra rằng bước chuyển biến đó không phải diễn ra một
cách tự phát mà bằng con đường cách mạng xã hội; đồng thời hai ông cũng
chỉ rõ lực lượng thực hiện sự chuyển biến đó là giai cấp vô sản hiện đại. Việc
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm
vi toàn thế giới ấy chính là sứ mệnh lịch sử vinh quang và cao cả của giai cấp
vô sản; sứ mệnh lịch sử ấy không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp vô
sản, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một giai cấp, một tầng lớp hay
một cá nhân nào đặt ra, mà là do chính địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp vô
sản quy định.


3
Tuy nhiên, giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình thì phải tổ chức ra được chính đảng cách mạng của giai cấp mình; chính
đảng đó phải có đủ khả năng, phẩm chất lãnh đạo, hướng dẫn phong trào cách
mạng của công nhân. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết nhất, và quan
trọng nhất bởi vì chỉ khi nào giai cấp vô sản tổ chức được ra chính đảng chính
trị của mình, thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh

tự phát, rời rạc sang thành cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức lãnh đạo thống
nhất hành động; và cũng chỉ khi đó thì giai cấp vô sản mới chuyển từ giai cấp
“tự mình” thành giai cấp “vì mình”. Mác và Ăng Ghen đã khẳng định “Trong
cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của giai cấp có của, giai
cấp công nhân chỉ khi tổ chức thành một chính Đảng độc lập với tất cả các
chính đảng cũ do giai cấp có của lập lên, thì mới có thể hành động như một
giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một chính đảng là
cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và thắng lợi của mục
đích cuối cùng của nó là : thủ tiêu các giai cấp”.1
Cũng xuất phát từ tư tưởng trên, Ăngghen còn chỉ ra rằng “Để cho giai
cấp vô sản đủ mạnh để chiến thắng trong giờ phút quyết định...cần phải
thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác và đối lập hẳn với các
đảng này; một đảng giai cấp tự giác”.2
Không chỉ làm rõ tính tất yếu phải thành lập ra chính đảng của giai cấp
vô sản, coi đó là điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân thực hiện thắng
lợi sứ mệnh lịch sử của mình; mà trong cương lĩnh đầu tiên đánh dấu sự ra
đời của chủ nghĩa Mác, các Ông còn chỉ rõ mối quan hệ giữa người đảng viên
với giai cấp vô sản, mục đích nhiệm vụ và lập trường của đảng cộng sản.
Theo các ông thì những người cộng sản phải là bộ phận kiên quyết nhất trong
các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào
tiến lên, về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp ở chỗ họ hiểu
1
2

C.Mác- Ph.Ăng ghen toàn tập, tạp 4, Nxb CTQG, Hà nội 1995, Tr 207
Sđd, tập 6, tr 704


4
được những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào. Như vậy,

theo Mác, Ăng Ghen thì đảng cộng sản không nằm ngoài, nằm trên giai cấp,
đồng thời họ cũng không phải toàn bộ giai cấp mà chỉ là bộ phận tiên tiến
nhất của giai cấp mà thôi. Họ đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp vô sản, đại
biểu cho toàn bộ giai cấp vô sản do vậy, “ họ không có lợi ích nào tách khỏi
lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”3 .
Đảng cộng sản chính là lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản và nhân dân lao động chống lại sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản và
chế độ tư bản chủ nghĩa, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản,
xây dựng thành công xã hội mới xã hội khác về chất so với những xã hội
trước đó. Vì vậy, để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó thì nhiệm vụ trước
tiên của Đảng cộng sản là tập hợp quần chúng để đấu tranh giành lấy chính
quyền về tay giai cấp vô sản, sau đó dùng chính quyền đó “ tước đoạt toàn bộ
tư bản từ tay giai cấp tư sản”, cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội
mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Do vậy, giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản phải xoá bỏ tất cả những gì trong xã hội là nguyên nhân gây ra
nạn áp bức bóc lột người và triệt để xoá bỏ chế độ tư hữu. Mác và Ăng ghen
đã viết: “ Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một
luận điểm duy nhất là xoá bỏ chế độ tư hữu”4 .
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra tính tất yếu
phải thành lập chính đảng của giai cấp vô sản; làm rõ mục đích, nhiệm vụ của
nó và mối quan hệ giữa những người đảng viên cộng sản với toàn bộ giai cấp
và dân tộc. Đây là những luận điểm tiền đề để các nhà lý luận cách mạng sau
này lấy đó làm căn cứ, tiêu chí xây dựng các Đảng cộng sản lãnh đạo hoạt
động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Kế thừa và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác về xây dựng chính
đảng vô sản, trong suốt quá trình hoạt động và lãnh đạo cuộc đấu tranh của
3
4

Sđd, tập 4, tr 614

Sđd, tập 4, tr 616


5
công nhân để giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô,
Lênin đã khái quát nhiều vấn đề quan trọng về Đảng và công tác xây dựng
Đảng cộn sản kiểu mới.
Trước hết, Lênin khẳng định những luận điểm cơ bản của C. Mác,
Ph.Ăng ghen về chính đảng vô sản và chỉ rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của đảng đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Theo Lênin thì chính nhờ có Đảng mà phong trào công nhân mới chuyển từ
đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác; nhờ có Đảng mà giai cấp công nhân
mới tuyên truyền giáo dục và tập hợp được quần chúng để làm cách mạng và
cũng nhờ có Đảng mà giai cấp công nhân mới có đường lối đấu tranh đúng
đắn, thống nhất và hiệu quả.
Với hàng loạt các tác phẩm có giá trị như tác phẩm “ làm gì”, “Một
bước tiến hai bước lùi”, “Nhà nước và cách mạng”, “Những nhiệm vụ trước
mắt của chính quyền Xô Viết”...Lênin đã phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.
Ăng ghen về chính đảng của giai cấp vô sản lên một tầm cao mới- học thuyết
về Đảng. Trong đó Lênin đã chỉ rõ rằng: Đảng cộng sản là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân- đây cũng
chính là quy luật hình thành Đảng cộng sản. Cũng thông qua các tác phẩm của
mình, Lênin cũng làm rõ tính tất yếu phải xây dựng “Đảng kiểu mới” và chỉ
ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng đó là: Chủ nghĩa Mác là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng; Đảng là một bộ
phận của giai cấp công nhân, là đội tiền phong chính trị có tổ chức và là tổ
chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân; khi có chính quyền,
Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một
bộ phận của hệ thống đó; tập chung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản
trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng; Đảng gắn bó chặt

chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu xa rời quần chúng; Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư


6
tưởng và tổ chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng;
Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ
tiêu chuẩn và những kẻ cơ hội ra khỏi Đảng; chủ nghĩa quốc tế vô sản là một
trong những nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng tổ chức và hoạt động
của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong quá trình hình thành những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới,
Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của lý luận chủ nghĩa Mác, coi chủ nghĩa Mác
là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vô sản, nắm được lý luận đó
thì giai cấp vô sản và đội tiền phong của nó mới có được vũ khí tư tưởng
mạnh mẽ nhất, còn bản thân lý luận thì khi thông qua họ sẽ trở thành sức
mạnh vật chất to lớn. Lênin nhấn mạnh rằng “ không có lý luận cách mạng
thì cũng không thể có phong trào cách mạng”5, và “chỉ Đảng nào được một
lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong”6.
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về Đảng cộng sản và vai
trò của nó đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
là một thể thống nhất toàn vẹn, những tư tưởng của các Ông là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho ý chí và hành động của các Đảng cộng sản nói chung
và Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng. Phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế muốn thành công thì nhiệm vụ trước tiên là phải tổ chức ra chính
Đảng vô sản và xây dựng nó vững mạnh về mọi mặt theo quan điểm của chủ
5
6


V.I. Lênin toàn tập, tập 06, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1978,tr30
V.I. Lênin toàn tập, tập 06, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1978,tr32


7
nghĩa Mác- Lênin. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm
“đường cách mệnh” đã viết: “ Muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (
công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.7
1.2. Vai trò của chính đảng vô sản với sự phát triển của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế trong lịch sử.
Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng
minh rằng bất kỳ ở đâu, vào lúc nào, nếu giai cấp vô sản tổ chức và xây dựng
được một chính đảng cách mạng, độc lập vững mạnh thì ở đó, lúc đó phong
trào thành công và phát triển mạnh; ngược lại ở đâu, lúc nào giai cấp vô sản
chưa tổ chức và xây dựng được chính đảng của mình thì ở đó, lúc đó phong
trào hoạt động kém hiệu quả, trì trệ thậm chí khủng hoảng thoái trào. Trong
tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản” Lênin đã khẳng
định: “ Không có một đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu tranh, không có
một đảng được sự tín nhiệm của tất cả những phần tử trung thực trong giai
cấp nói trên, không có một đảng biết nhận xét tâm trạng của quần chúng và
biết tác động vào tâm trạng đó thì không thể tiến hành thắng lợi cuộc đấu
tranh ấy đuợc”8
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trước khi chủ nghĩa Mác ra
đời vốn là các phong trào lẻ tẻ, rời rạc lại mang tính tự phát, nên phát triển
7
8

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 02, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, tr280
V.I. Lênin toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ- va, 1977,tr34



8
chậm chạp và không đạt hiệu quả; hoạt động đấu tranh của họ mới chỉ hướng
vào đập phá máy móc, đòi hỏi quyền lợi kinh tế như các cuộc khởi nghiã của
công nhân dệt Xi nê di ( ở Dức), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành
phố Ly Ông ( ở Pháp), hoặc cải lương đòi giai cấp tư sản, chính phủ tư sản
giảm bớt các chính sách hà khắc đối với mình như phong trào hiến chương ở
Anh,...Kết quả tất cả các phong trào trên đều bị thất bại và bị giai cấp tư sản
đàn áp đẫm máu. Năm 1848 bất mãn trước cảnh cùng cực của mình và chế độ
bóc lột tàn khốc của chính phủ đương thời, giai cấp công nhân châu Âu mà
đặc biệt là giai cấp công nhân ở Pháp và ở Đức đã tự phát cùng với giai cấp tư
sản và nhân dân lao động ( trong đó giai cấp công nhân là người tiên phong)
đã nổi dậy chống chế độ chuyên chế, làm lên các cuộc cách mạng tháng hai
và cách mạng tháng sáu vang dội Châu Âu; song khi giành được thắng lợi
thành quả cách mạng không phải về tay giai cấp vô sản mà là giai cấp tư sản,
trớ trêu thay giai cấp tư sản kẻ vừa cùng giai cấp vô sản “sát cánh” đấu tranh
lại quay sang phản bội họ, đàn áp họ trong bể máu tàn khốc nhất. Những thất
bại đó do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan
trọng là chưa có một đảng chân chính lãnh đạo phong trào, thiếu vắng một hệ
tư tưởng cách mạng chỉ lối soi đường.
Ngay cả khi chủ nghĩa Mác đã ra đời, đã từng bước thấm sâu vào
phong trào công nhân, giai cấp công nhân đã phần nào có một vũ khí lý luận
cách mạng, đã làm được cái mà trước đây họ chưa bao giờ mơ ước là họ đã
“thực sự” trở thành người “ làm chủ” xã hội trong thời gian ngắn ngủi ở công
xã Pa ri (1872), nhưng niềm “hân hoan” ấy đã không tồn tại được bao lâu lại
phải chịu cảnh “ đầu rơi máu chảy” dưới sự đàn áp của giai cấp tư sản phản
động. Thất bại của công xã Pa ri một mặt do giai cấp công nhân Pa ri đã thiếu
triệt để cách mạng, mặt khác quan trọng hơn là do giai cấp công nhân Pa ri
chưa có một chính đảng cách mạng. Lịch sử một lần nữa lại chứng minh rằng,

nếu không thành lập được chính đảng Mác xít thì phong trào công nhân


9
không những không phát triển được, mà còn phải chịu những thất bại thảm
hại.
Những thất bại trong lịch sử, cùng với sự thâm nhập từng bước của lý
luận Mác xít vào phong trào công nhân đã giúp cho giai cấp công nhân có
những bước tiến rõ rệt. Những năm 70- 90 của thế kỷ thứ XIX , hàng loạt các
nước Châu Âu giai cấp vô sản đã tổ chức ra chính Đảng của mình, như Đảng
xã hội dân chủ Đức (1875), Đảng công nhân Pháp (1879), Đảng xã hội dân
chủ áo (1889), Đảng xã hội dân chủ Nga (1898)...đến năm 1896 trên lục địa
Châu Âu đã có 15 Đảng của giai cấp công nhân ra đời và đã thành lập được tổ
chức quốc tế của các Đảng giai cấp công nhân ( quốc tế II). Có thể nói rằng,
với sự hoạt động của các Đảng công nhân và Quốc tế II, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế đã thu được những thành tựu rất đáng khích lệ; giai cấp
công nhân đã thực sự trở thành lực lượng độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, đã ngày càng nhận thức rõ hơn về sứ mệnh lịch sử của mình và đã có
nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh mới; những cuộc đấu tranh của họ
giờ đây không còn tự phát như khi chưa có Đảng, mà những cuộc đấu tranh
của họ đã được các đảng lãnh đạo và tổ chức; họ không những đấu tranh đòi
những quyền lợi về kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm mà mục tiêu đấu
tranh của họ lúc này đã có tính chất chính trị đòi xoá bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình để cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới.
Tuy vậy, lịch sử phong trào cũng đã chứng minh rằng; mặc dù giai cấp
vô sản đã tổ chức ra được chính đảng của mình, nhưng lúc nào và ở nơi nào
nếu đảng của giai cấp vô sản được xây dựng vững mạnh về chính trị tư tưởng
và tổ chức thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân mới phát triển



10
mạnh và thu được nhiều thành công; ngược lại nếu đâu, khi nào đảng của giai
cấp công nhân không thường xuyên được xây dựng làm trong sạch, bị bọn cơ
hội xét lại lợi dụng, lũng đoạn thì ở đó phong trào sẽ không phát triển được
thậm trí bị thất bại.
Thực tiễn hoạt động của quốc tế cộng sản II sau khi Ăng Ghen mất đã
minh chứng. Do thiếu sự chỉ đạo trực tiếp của những người cách mạng trung
kiên, khi công tác xây dựng đảng không được trú trọng và tiến hành thường
xuyên, nên quốc tế II đã bị bọn cơ hội, xét lại lũng đoạn và kết quả là nó đã
làm cho phong trào công nhân khủng hoảng trì trệ; họ chỉ thiên về các hình
thức đấu tranh cho những mục tiêu hẹp hòi, hoặc tả khuynh nóng vội, hoặc cải
lương hữu khuynh. Chủ nghĩa cơ hội, xét lại đã biến quốc tế II vốn là cách
mạng thành một tổ chức phản động, tiếp tay hoặc phục vụ cho các luận điệu
của giai cấp tư sản, phản lại lợi ích của giai cấp công nhân, phản lại lý luận
chủ nghĩa Mác và làm “tay sai” cho giai cấp tư sản.
Trước sự lũng đoạn của bọn cơ hội, xét lại trong quốc tế II, phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có xu hướng chệch hướng. Nhận thức rõ vị trí
vai trò của đảng Mác xít đối với sự phát triển của phong trào công nhân,
Lênin đã đấu tranh tích cực chống bọn cơ hội chủ nghĩa,vạch trần bản chất
của chúng bảo vệ chủ nghĩa Mác và cùng những người đảng viên trung kiên
trong đảng dân chủ xã hội Nga đã từng bước đấu tranh thành lập ra tổ chức
đảng kiểu mới, một Đảng thực sự cách mạng trên nền tảng của chủ nghiã
Mác.
Do ảnh hưởng tư tưởng của Lênin và Đảng Bôn-xê-vích Nga, trong
thập niên thứ hai của thế kỷ XX đã ra đời hàng loạt các Đảng cộng sản theo tư
tưởng đảng Mác xít kiểu mới như: Đảng cộng sản Đức, đảng cộng sản Áo,
Đảng cộng sản Phần Lan, Đảng cộng sản Ba Lan ( năm 1918); Đảng cộng sản
Mỹ, Đảng cộng sản Ý (năm 1920)...



11
Khi các Đảng công nhân được củng cố, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế cũng được vực dậy, và sự vực dậy của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế được đánh dấu bằng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
Nga năm 1905 và đỉnh cao của nó là cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, giai
cấp công nhân Nga và chính đảng của nó đã làm được điều kỳ diệu, đã biến
chủ nghĩa Mác từ học thuyết, lý luận thành thực tiễn sinh động. Thắng lợi của
cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên hiện thực; mở ra một thời đại
mới thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Hồ Chí Minh khẳng định: “ Giống như mặt trời chói lọi, cách
mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị
áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách
mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”9
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Nga; giai cấp công nhân và nhân dân Nga đã bảo vệ được
thành quả của cách mạng trước sự bao vây chống phá của chủ nghĩa đế quốc,
hào hứng xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã thu được nhiều thành công, tạo ra
sức mạnh để giành thắng lợi trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
Với những thành công vang dội ấy nó đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ; các Đảng cộng sản, dưới
ngọn cờ của cách mạng tháng Mười Nga đã lãnh đạo giai cấp công nhân và
nhân dân nước mình làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, dẫn đến sự ra đời của
một loạt các nước xã hội chủ nghĩa, hình thành lên hệ thống xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX; hàng loạt nước thuộc địa
sau khi giành chính quyền cũng chọn con đường chủ nghĩa xã hội hoặc phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những năm 70- 80 của thế kỷ XX, những thành tựu to lớn của chủ
nghĩa xã hội đã chứng thực đó là một xã hội tốt đẹp; đã luận giải tính đúng

9

Hồ Chí Minh, tuyển tập, tập 02, Nxb CTQG, Hà Nội 1980, tr461


12
đắn của lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có lý luận về sự lãnh đạo
của Đảng vô sản, lý luận về xây dựng đảng và quy luật về mối quan hệ giữa
xây dựng chính Đảng vô sản vững mạnh với sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX ở các nước xã hội chủ nghĩa đã
bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu trì trệ, nhu cầu phải cải tổ, cải cách, đổi mới
đã trở lên cấp bách. Một số nước do kiên định với chủ nghĩa Mác – Lênin,
kiên định chủ nghĩa xã hội, làm tốt công tác xây dựng Đảng nên đã thu được
những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc đổi mới. Song bên cạnh đó
cũng đã có nhiều nước do sai lầm về đường lối đổi mới, do sự chống phá của
kẻ thù,đặc biệt là do không làm tốt công tác xây dựng Đảng để cho kẻ thù lợi
dụng và bọn cơ hội xét lại chui vào trong hàng ngũ của đảng, lũng đoạn Đảng
làm cho công cuộc cải tổ thất bại dẫn đến sụp đổ chế độ.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã dẫn đến sự thoái
trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, để lại cho phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế những tổn thất hết sức nặng nề. Sự sụp đổ của
Liên Xô và Đông Âu có rất nhiều nguyên nhân nhưng một trong những
nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết định đó là công tác xây dựng đảng
không được trú trọng đúng mức, dẫn đến mâu thuẫn nội bộ, tạo cơ sở cho
những phần tử cơ hội xét lại lũng đoạn Đảng, làm mất uy tín của Đảng với
nhân dân, xa rời quần chúng, chuyên quyền độc đoán...
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã để lại cho chúng
ta nhiều bài học quý báu. Một trong những bài học đó là phải thường xuyên
làm tốt công tác xây dựng Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều

này một lần nữa chứng minh mối quan hệ giữa công tác xây dựng Đảng với
sự phát triển và sinh tồn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.


13

2. XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỮNG MẠNH LÀ VẤN ĐỀ THEN
CHỐT CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM.

Trong những năm gần đây, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống
phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”
chúng hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, lật đổ vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Việt Nam trở thành
trọng điểm chống phá, trong đó xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam là một mũi nhọn. Để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình và đấu tranh
có hiệu quả làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch hơn lúc nào hết, việc xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính
trị tư tưởng và tổ chức không chỉ là nhiệm vụ then chốt của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay nó còn là một vấn đề cấp bách.
2.1. Đảng cộng sản Việt Nam nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất
nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bị chia cắt thành nhiều
mảnh đã trở thành một nước Việt Nam hoà bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ;
dân tộc Việt Nam từ địa vị bị nô nệ, bị bóc lột giã man đã vươn lên thành chủ


14
nhân chân chính của xã hội. Những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt

Nam xuất phát từ những nhân tố, những tiền đề khách quan và chủ quan khác
nhau trong đó đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Thật vậy, trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, dân tộc Việt Nam
“chìm đắm” dưới ách đô hộ, bóc lột của thực dân Pháp, đời sống của nhân
dân vô cùng khó khăn và khổ cực, đã có nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân ta
nổ ra mong muốn giải phóng được dân tộc thoát khỏi ách áp bức bóc lột của
chủ nghĩa thực dân, song tất cả các phong trào nổ ra theo các lập trường tư
tưởng khác nhau lúc bấy giờ đều dẫn đến thất bại, như phong trào của Phan
Chu Trinh, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa
Thám...Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các phong trào
đó là do các phong trào đó chưa có đường lối cách mạng đúng đắn, chưa được
trang bị một hệ tư tưởng thực sự cách mạng khoa học để thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc.
Vượt lên những nhà tư tưởng đương thời, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước, khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt khi đọc luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người đã thốt lên rằng con
đường cứu nước, cứu dân là đây. Người đã nhận ra một chân lý rằng “ Muốn


15
cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”10 , và Người khẳng định cách mạng Việt Nam trước hết cần
phải có một chính Đảng độc lập lãnh đạo, Người chỉ rõ “ trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách
mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"11.
Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác- Lênin về chính đảng vô sản của

giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Đảng cộng sản
Việt Nam trở thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng cộng sản Việt Nam đã trở
thành người tổ chức và lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Khi mới
ra đời ngay từ cương lĩnh đầu tiên, Đảng ta đã xác định được đường lối cách
mạng đúng đắn. Khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn
là thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi hoàn thành tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đường lối chiến lược đúng đắn đó đã chấm dứt khủng hoảng, bế tắc về đường
lối , đáp ứng được với đòi hỏi của lịch sử; đường lối chiến lược đó là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt quá trình đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với đường lối cách mạng đúng đắn nên ngay khi mới ra đời, Đảng ta
đã phát động được một cao trào đấu tranh rộng lớn- cao trào 30- 31 mà đỉnh
cao là Xô Viết nghệ Tĩnh. Đó là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng
nước ta, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong quá trình đấu tranh
giành và giữ chính quyền sau này.
Vượt qua thời kỳ khủng bố đẫm máu của chủ nghĩa thực dân, nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành một cao trào mới đó là cao trào đòi
dân sinh, dân chủ 1936- 1939, một trong những thành công của cao trào này
10
11

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H1981, Tập 2, Tr 163
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H1995, Tập 2, Tr 267-268


16
là Đảng ta đã tập hợp và xây dựng được lực lượng chính trị quần chúng rộng
rãi chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945 sau này.
Vào đầu năm 1945 khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, nhân dân ta

dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên đấu tranh để giành chính quyền, mà đỉnh
cao là cách mạng tháng tám năm 1945. Thắng lợi của cách mạng tháng tám
năm 1945 thể hiện sự năng động, sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
trong nắm bắt thời cơ, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống
đế quốc và chống phong kiến, tạo thời cơ và nắm thời cơ phát động quần
chúng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945, chấm dứt gần một thế
kỷ đô hộ của thực dân Pháp, mở ra cho dân tộc ta một kỷ nguyên mới- kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sau cách mạng tháng tám, tình
thế cách mạng nước ta như “ngàn cân treo sợi tóc”, song với đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua thác
ghềnh, chính quyền non trẻ được giữ vững và ngày càng lớn mạnh. Trước
những khó khăn chồng chất của chính quyền non trẻ, dân tộc ta bước vào
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Với đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh; với tư tưởng “vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc”, chúng ta đã làm lên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu; đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ, đưa miền Bắc tiến
lên con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở Miền Nam. Bằng chiến lược, sách lược đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trên hai
miền Tổ Quốc, đã tạo ra được khí thế thi đua sôi nổi xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, là cơ sở chi viện cho chiến trường Miền Nam. Hưởng ứng
lời kêu gọi toàn dân đoàn kết, “ tất cả vì Miền Nam thân yêu”, “ đánh cho Mỹ
cút đánh cho Ngụy nhào” quân, dân hai miền Tổ Quốc dưới sự lãnh đạo của


17
Đảng đã làm lên thắng lợi mùa xuân năm 1975, đập tan chế độ thực dân mới
của đế quốc Mỹ ở Miền Nam. Thắng lợi của cách mạng mùa xuân năm 1975

mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, thời kỳ độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đất nước thống nhất,cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mớiĐảng lãnh đạo cả nước bước vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Bước vào xây dựng xã hội mới với muôn vàn khó khăn thử thách: Điểm
xuất phát lên chủ nghĩa xã hội thấp, lực lượng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún lại
bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, tư tưởng tập quán, thói quen của người sản
xuất nhỏ, cơ sở sản xuất hầu như không đáng kể. Song với đường lối lãnh đạo
tài tình, sáng suốt của Đảng, cách mạng Việt Nam vẫn được giữ vững, chính
trị ổn định, an ninh được tăng cường tạo điều kiện cho đổi mới và phát triển
đất nước sau này.
Khi vấn đề cải cách, cải tổ, đổi mới đã trở thành nhu cầu, đòi hỏi tất
yếu khách quan đối với các Đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa ở
thập niên 80 của thế kỷ XX. Trong khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu nóng vội, chủ quan, thực hiện cải tổ cải cách ồ ạt và vấp phải
những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ, thì ở Việt Nam
Đảng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đổi mới tư duy nhận thức,
đặc biệt là nhận thức đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới
trên cơ sở kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đổi mới có nguyên
tắc. Kiên trì đường lối đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định hệ tư tưởng Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là con đường
phát triển duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (1986) của Đảng cộng sản Việt Nam là một mốc đánh dấu quan


18
trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Công cuộc đổi mới bước
đầu đã tạo ra sự chuyển biến tích cực, tạo thế và lực mới cho cách mạng
Việt Nam và khẳng định bước đi đúng đắn của cách mạng nước ta. Từ
thực tiễn 15 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã rút ra bài học
quan trọng: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo

đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam” 12...
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: dù bất cứ tình huống nào,
đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc xây dựng Đảng vững mạnh là một
nhiệm vụ thường xuyên, then chốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, nó đòi hỏi phải được sự quan tâm của không chỉ bản thân những người
đảng viên cộng sản mà là của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trước khi
từ trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “ Việc cần làm trước tiên là
chỉnh đốn Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều
làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công to việc lớn mấy, khó khăn mấy
chúng ta cũng nhất định thắng lợi” 13
2.2. Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam vững mạnh không chỉ là nhiệm
vụ then chốt mà còn là nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Ngay từ khi vừa ra đời và trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng
nước ta. Đảng ta luôn thể hiện là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến
12
13

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb.Ctqg,HN,2001,tr.137
Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1995, t.12, tr512


19
phức tạp của tình hình thế giới và trong nước; trước sự chống phá mạnh mẽ
của kẻ thù; trước những bất cập , và hạn chế trong công tác xây dựng Đảng
đòi hỏi Đảng ta cần phải chú trọng hơn nữa đến công tác xây dựng Đảng,
coi công tác xây dựng đảng không những chỉ là một quy luật thường xuyên
mà còn là vấn đề cấp bách. Tính cấp bách của công tác xây dựng Đảng xuất

phát từ những lý do cơ bản sau:
* Xuất phát từ vị trí vai trò ngày càng tăng của Đảng trong sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu
được những thắng lợi bước đầu, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên bên
cạnh đó nước ta vẫn đứng trước những nguy cơ thách thức lớn, điều đó đòi
hỏi Đảng ta phải có những chủ chương quyết sách phù hợp để khắc phục, hạn
chế và đẩy lùi những nguy cơ đó.
Cải cách, đổi mới là nhu cầu khách quan xuất phát từ những trì trề
trong sự phát triển của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trong những năm 80
của thế kỷ XX, trong đó có nước ta. Nắm bắt được thực trạng đó, những tư
tưởng đổi mới , cải cách của Đảng ta đã xuất hiện từ rất sớm, như chủ trương
làm cho “ sản xuất bung ra” từ nghị quyết trung ương 6 tháng 08 năm 1979,
cho đến những chủ trương “ khoán 10”, “ khoán 100”...Tuy nhiên mốc đánh
dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta chính thức xác định
trong đại hội VI năm 1986. Với chủ trương đổi mới, đất nước ta thực hiện cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, cơ chế thị trường đã tạo ra những bước phát triển mới
đối với nền kinh tế nước ta, kích thích được năng lực sản xuất của xã hội; đẩy
mạnh quá trình áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật
vào quá trình sản xuất để tăng năng xuất lao động làm ra ngày càng nhiều của


20
cải vật chất cho xã hội. Tuy vậy, mặt trái của kinh tế thị trường cũng để lại
nhiều vấn đề cần giải quyết, nó làm thay đổi cơ cấu xã hội giai cấp, kéo dài
khoảng cách phân hoá giàu nghèo; đạo đức, lối sống xã hội có nhiều phức tạp;
đất nước đang đặt trước những nguy cơ thách thức lớn, đặc biệt là nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Để khắc phục những “ mặt trái”, những hạn chế trên đòi hỏi Đảng ta
phải có những quyết sách phù hợp, để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế nhưng
cũng vừa kích thích được tiến bộ xã hội; vừa khuyến khích được tính tích cực,
năng động, sáng tạo của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhưng
cũng vừa giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa tiến hành hợp tác,
đầu tư kinh tế vì những mục tiêu kinh tế trước mắt lại vừa đảm bảo sự nghiệp
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản...Tất cả những yêu cầu đó chỉ được thực hiện thông qua các chủ
trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước ta. Để giải quyết những mâu thuẫn
trên đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối, chủ trương đúng đắn , mềm dẻo và
linh hoạt, để vừa thực hiện được nhiệm vụ dân tộc lại vừa giải quyết được
nhiệm vụ giai cấp. Do vậy, Đảng ta một mặt phải không ngừng nâng cao bản
lĩnh chính trị, trí tuệ của mình mặt khác phải thường xuyên làm tốt công tác
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh ; có như vậy mới đảm bảo cho Đảng ta
có đủ sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới giành thắng lợi giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
* Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch càng ráo riết chống phá cách mạng thế giới, trong
đó chúng tập chung chống phá hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
nhấn chìm phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đưa thế giới phát triển


21
theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Bằng chiến lược “ diễn biến hoà bình”
chúng đã sử dụng rất nhiều những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt điên
cuồng chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một
trọng điểm; chúng chống phá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hoá; chống phá Đảng, Nhà Nước xã hội chủ nghĩa...một trong mõi

nhọn chúng tập chung chống phá đó là Đảng cộng sản, hòng xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản, coi đây là một mũi nhọ tiến tới xoá bỏ chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Bằng những luận điệu phản động chúng ra sức bóp méo bản chất giai
cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng cho rằng phần lớn đảng
viên của Đảng đều có nguồn gốc xuất thân từ nông dân, do vậy Đảng ta
không còn giữ được bản chất giai cấp công nhân; hoặc vu khống, xuyên tạc
đường lối lãnh đạo của Đảng, cho Đảng ta chuyên quyền độc đoán ; đòi xoá
bỏ điều 2 trong hiến pháp, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn thể
xã hội; đòi phi chính trị hoá quân đội, tách Đảng ra khỏi nhà nước; kích động,
chia rẽ gây mất đoàn kết trong Đảng, tạo ra lực lượng chống phá từ bên trong;
đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập... Tất cả những âm mưu thủ đoạn đó
chúng đã áp dụng thành công ở Liên Xô và Đông Âu, gây ra sự khủng hoảng
dẫn đến sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, gây tổn thất to lớn
cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; nay cũng với nhũng âm mưu
thủ đoạn đó chúng đem áp dụng vào để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại, trong đó có nước ta. Đảng ta và nhân dân ta đã nhận thức rõ và cảnh
giác trước âm mưu thủ đoạn của bọn chúng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại
những âm mưu thủ đoạn đó. Nhưng trước diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới; trước sự chống phá điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch, đáng tiếc có một số đảng viên của Đảng dao động lập trường tư tưởng,
hoặc bị lôi kéo móc lối đã ngả sang hàng ngũ của kẻ thù, phản lại lời ích của
Đảng của cách mạng. Do vậy, để đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu


22
thủ đoạn của kẻ thù, đòi hỏi Đảng ta phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, tạo ra cho đảng viên và Đảng “chất miễn dịch” với chiến lược “
diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Để làm
được điều đó đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên làm tốt công tác xây dựng

Đảng, coi xây dựng Đảng là quy luật phát triển của Đảng, đảm bảo cho Đảng
luôn trong sạch, đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta.
* Do thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay còn tồn tại nhiều
bất cập, yếu kém.
Nhận thức rõ yêu cấu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, nhận
thức rõ vị trí, vai trò của công tác xây dựng Đảng, Đảng ta ngay từ khi mới ra
đời cho đến nay Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, đảm bảo
cho Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, tháng 3-1931 Đảng ta đã tiến hành hội nghị phê
phán những biểu hiện sai lầm trong Đảng. Một cuộc vận động lớn đã diễn ra
trong toàn Đảng nhằm chấn chỉnh các cấp uỷ, chuyển hướng hoạt động về chi
bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện tả khuynh và hữu khuynh trong đội ngũ
cán bộ đảng viên. Thời kỳ mặt trận dân chủ (1936-1939),Đảng ta lại mở cuộc
vận động tự phê bình và phê bình để uốn nắn những lệch lạc về quan điểm,
nhận thức giai cấp sau thất bại của mặt trận Dân chủ trong cuộc tranh cử Hội
đồng quản hạt Nam Kỳ. Trong thời gian tiến hành cuộc kháng chiến trường
kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, vào năm 1951, khi cuộc kháng chiến đang
ở giai đoạn gay go, quyết liệt, Đảng ta mở cuộc vận động xây dựng Đảng,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh tinh thần tự phê bình và phê bình, coi đó là cuộc
cách mạng tư tưởng để khắc phục những biểu hiện tiêu cực như ngại khó,
ngại khổ, nôn nóng, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, quan liêu xa rời quần chúng,
tham ô, lãng phí…Mùa xuân năm 1961, Đảng ta đã phát động Cuộc chỉnh huấn
mùa xuân, tiến hành tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng để khắc phục chủ


23
nghĩa cá nhân, chống biểu hiện tự do vô tổ chức, vô kỷ luật, xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, tự phê bình nghiêm túc, tại đại hội VI và sau đó được tiếp tục tại đại hội
Đảng VII, Đảng ta đã chỉ rõ những khuyết điểm của Đảng , ý thức một cách

sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, của sự tự đổi mới,
chỉnh đốn Đảng. Tại đại hội Đảng VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới tư
duy, đổi mới tổ chức, đổi mới công tác cán bộ, đổi mới phong cách công tác.
Tiếp tục phương hướng này, tại đại hội Đảng VII, Đảng ta đã đề ra chủ trương
tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Tại Hội nghị Trung ương ba khoá VII(6 - 1992),
Đảng ta đã cụ thể hoá chủ trương đó và nhấn mạnh rằng lúc này xây dựng
kinh tế là trung tâm và xây dựng Đảng là then chốt.Tại Đại hội Đảng lần thứ
VIII và tiếp đó trong Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), Đảng ta đã đưa ra chủ
chương: Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực
hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện di chúc của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng. Để khắc phục những
hạn chế trong công tác xây dựng Đảng, tao ra bước chuyển biến mới trong
công tác xây dựng Đảng, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
IX đã ban hành chỉ thị số 03- CT/TW về việc tiếp tục thực hiện nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời co đến nay Đảng ta đã rất quan tâm
đến công tác xây dựng Đảng.Tuy nhiên, Đảng ta cũng đánh giá: trong công
tác xây dựng Đảng chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Song bên cạnh đó công tác xây dựng Đảng
trong thời gian vừa qua còn có nhiều bất cập yếu kém.


24
Một là, công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa tốt,
vì vậy chưa ngăn chặn đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đó là những người phai
nhạt lý tưởng, sống thực dụng, cơ hội, cá nhân vị kỷ, bản vị cục bộ, tham
nhũng, hối lộ, lãng phí xa hoa hưởng lạc, xa dân gây phiền hà cho dân.
Hai là, một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; dân chủ bị
vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết; chất lượng sinh

hoạt Đảng giảm sút. Trí tuệ và tính chủ động, tích cực của đội ngũ đảng viên,
của tập thể cấp uỷ chưa được phát huy đầy đủ. Đảng viên, cấp uỷ viên không
dám phê bình thẳng thắn những yếu kém khuyết điểm của nhau. Tình trạng
độc đoán, thậm trí gia trưởng, chuyên quyền độc đoán còn thấy ở không ít
nơi. Tình hình thiếu đoàn kết hoặc mất đoàn kết còn xảy ra ở nhiều nơi, có
nơi rất nghiêm trọng.
Ba là, công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập,; công
tác tổ chức cán bộ còn một số biểu hiện trì trệ. Việc giáo dục tư tưởng, chính
trị cho cán bộ đảng viên chưa thường xuyên được coi trọng, ít đổi mới về
phương pháp, thiếu sắc bén. Không ít cán bộ, đảng viên lười học tập, buông
lơi việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống. Công tác lý luận chậm làm sáng
tỏ một số vấn đề lớn do thực tiễn đất nước và yêu cầu xây dựng Đảng đặt ra.
Một số biểu hiện trì trệ trong công tác tổ chức, công tác cán bộ.


25
Bốn là, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng,
chưa đi sâu làm rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện Đảng cầm quyền, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của các cơ quan
nhà nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân.
Năm là, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết
của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn yếu. Các cấp uỷ Đảng dành nhiều
công sức cho việc chuẩn bị ra nghị quyết chưa quan tâm đầy đủ đến chỉ đạo tổ
chức thực hiện.
Trước những yếu kém bất cập đó của công tác xây dựng Đảng, hơn lúc
nào hết, để Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức lãnh đạo cách mạng
nước ta trong giai đoạn mới, thì đòi hỏi Đảng ta phải quan tâm hơn nữa đến
công tác xây dựng Đảng.
2.3 Một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong xây dựng và chỉnh đốn
Đảng hiện nay

Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề then chốt, là nhiệm vụ thường
xuyên đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Tuy
nhiên, để công tác xây dựng Đảng đạt hiệu quả cao và đi đúng hướng thì
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần phải chú ý một số vấn đề có
tính nguyên tắc sau:
Một là, Phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị và lập trường
giai cấp công nhân trong Đảng. Thực tiễn hiện nay, trước những biến động
của tình hình thế giới và trong nước, nhất là từ khi các nước xã hội chủ nghĩa


×