Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học THUYẾT về LUÂN lý và đạo đức của KHỔNG tử GIÁ TRỊ của nó TRONG VIỆC GIÁO dục đạo đức CON NGƯỜI ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.23 KB, 17 trang )

HỌC THUYẾT VỀ LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ,
GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc là một xã hội đầy hỗn loạn và có
nhiều biến động. Nhà Tây Chu có nhiều biến động lớn lao, toàn diện và kéo dài. Lực lượng
sản xuất đã có bước phát triển rõ nét. Kết quả của sự biến động về kinh tế dẫn đến sự đa
dạng trong kết cấu giai tầng xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện, mới cũ đan xen và mâu
thuẫn ngày càng gay gắt. Nổi lên trong xã hội là các mâu thuẫn: giữa tầng lớp tư hữu tài
sản (hiển tộc) không được tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc của nhà Chu;
mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với giai cấp quý tộc thị
tộc nhà Chu; mâu thuẫn trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu; mâu thuẫn giữa
tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc với tầng lớp đại quý tộc thị tộc; giữa nông dân công xã với
tầng lớp mới lên. Đồng thời, xã hội chuyển mình dữ dội, đặc biệt là sự ra đời của các
thành thị tự do phồn vinh và những thành quả đạt được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Trong giai đoạn này, cùng với việc tranh quyền, đoạt lợi là các cuộc chiến tranh
diễn ra liên miên, bất chấp đạo lý. Đây là thời kỳ mà các mối quan hệ giữa người với người
cũng như các nguyên tắc luân lý, đạo đức tốt đẹp của thời nhà Chu đã bị đảo lộn.. Trong
nước cũng đã xuất hiện những trung tâm, như Tắc Hạ của nước Tề, những tụ điểm như
những mạnh thường quân mà ở đó có những "kẻ xử sỹ bàn ngang" hay "bàn việc nước".
Lịch sử gọi thời kỳ này là "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh"
(trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng vĩ đại, hình
thành nên hệ thống triết học, mở đầu cho lịch sử tư tưởng Trung Quốc có ngôn ngữ và ý
nghĩa chặt chẽ.
Một trong những nhà triết học đó là Khổng Tử (551 - 479 TCN). Thời đại của
Khổng Tử là thời kỳ "Vương đạo suy vi", "Bá đạo trị vì", như ông đã từng than rằng "vua
không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo
con". Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông chủ
trương lập lại kỷ cương của nhà Chu với nội dung mới cho phù hợp. Khổng Tử lập ra học
thuyết, mở trường dạy học, đi chu du khắp nơi, tranh luận với các phái khác để tuyên
truyền lý tưởng của mình. Ông xây dựng học thuyết chính trị xã hội. Từ đó, Nho giáo đã ra



2

2

đời mang đậm tính chính trị, đạo đức. Với khát vọng đưa xã hội trở lại thời kỳ thanh bình
và thịnh trị của thời đại Nghiêu, Thuấn; Nho giáo chứng tỏ xu hướng biện luận về xã hội,
đạo đức. Một trong những vấn đề cốt lõi của triết học Nho giaó mà khởi đầu từ Khổng Tử
là học thuyết về luân lý và đạo đức. Đây là vấn đề bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của con
người và các vấn đề chính trị, văn hoá, xã hội.
Học thuyết luân lý và đạo đức của Khổng Tử nhằm mục đích để đổi loạn thành
trị, vì vậy thông qua ba phạm trù chủ yếu: "Nhân", "Lễ", "Chính danh", Nho giáo muốn cải
tạo con người, trong đó tập trung lấy lấy "tu thân" làm gốc. Bởi lẽ, "tu thân" nhằm thực
hiện đạo làm người. Chỉ có thực hiện đạo làm người mới có thể khắc phục được thực
trạng: bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh, bạn bè lấn át nhau đang diễn ra như cơm
bữa trong xã hội.
Luân lý đạo đức theo tư tưởng Nho giáo được thể hiện trước hết thông qua
thuyết "Chính danh". "Chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng", "Chính danh" thì
người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự
phân minh thông qua chủ trương thực hiện theo ngũ luân, ngũ thường. Chúng ta có thể
thấy rõ điều đó qua cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và Tử Lộ: Tử Lộ hỏi: "Vua nước Vệ có
ý mong đợi thầy đến làm chính sự, thầy sẽ làm gì trước hết". Khổng Tử đáp: trước hết phải
chính danh cái đã. Tử Lộ hỏi: lại thế ư! Thầy thật viển vông, chính làm gì?. Khổng Tử nói:
"Do kia thật quê kệch! Người quân tử đối với những điều mình không biết, hãy để trống
đấy. Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành, việc
không thành thì mọi điều lễ nhạc không gây lại được, không gây lại được lễ nhạc thì hình
phạt sẽ sai trật tự cả, hình phạt không đúng thì dân sẽ bị bó buộc tay chân. Cho nên người
quân tử có danh rồi tất phải nói, nói rồi tất phải làm". Như vậy, đối với Nho giáo, chính
danh là điểm then chốt để gây dựng lại luân lý đạo đức nhằm đưa xã hội trở lại trật tự, nề
nếp.

Để thực hiện luân lý đạo đức theo "Chính danh', Nho giáo chủ trương thực hiện
"tu thân" theo ngũ luân, ngũ thường.
Ngũ luân là năm mối quan hệ phổ biến trong xã hội: Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu
- Phụ, Huynh - Đệ, Bằng - Hữu, trong đó có ba mối quan hệ rường cột (Quân - Thần, Phụ Tử, Phu - Phụ) gọi là tam cương.


3

3

Ngũ thường là năm phẩm chất của con người (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) trong tu
thân cần rèn luyện. Vấn đề luân lý đạo đức của Nho giáo, thực chất là giải năm mối quan
hệ trong xã hội.
Việc Nho giáo tồn tại được hơn hai nghìn năm qua đáng để chúng ta xem xét và
kế thừa có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của nó. Chúng ta hãy xem Nho giáo giải quyết
các mối quan hệ trong xã hội như thế nào?
Trong mối quan hệ Vua- Tôi, Nho giáo đòi hỏi phải có mối quan hệ, ứng xử qua
lại của hai bên.
Đó là vua phải biết đối xử với bề tôi, tôn trọng và quý mến bề tôi "Quân nhân";
còn bề tôi phải biết giữ đạo trung khi thờ vua "Thần trung". Nếu không làm được điều đó
thì hậu quả tất yếu là bề tôi giết vua. Bởi lẽ, nếu "vua mà coi bề tôi như tay chân, ắt bề tôi
sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi bề tôi như chó ngựa, ắt bề tôi sẽ coi vua như kẻ qua
đường. Vua mà coi bề tôi như bùn rác, ắt bề tôi sẽ coi vua như kẻ cướp người thù". "
Trung", theo Nho giáo, đó là phải biết giúp cho vua đi vào con đường đạo đức, dồn hết tâm
trí để làm việc nhân. "Trung" là không được dối gạt vua và cũng không sợ làm mất lòng
vua. "Trung" cũng tức là phải biết đặt lợi ích của đất nước (còn có nghĩa là của nhà vua)
lên trên hết, phải biết đem đạo lý để thờ vua, việc gì có ích cho nước, có lợi cho dân thì
giúp cho vua làm. " Trung" còn có nghĩa một mặt là phải biết can gián vua khi vua làm
những việc trái với đạo lý; mặt khác không được vào hùa theo vua khi vua lầm lỗi, không
được đón trước ý xấu của vua rồi khêu gợi cho vua lầm lỗi. Nếu như vậy thì bất trung.

"Trung" còn có nghĩa là cung và kính, "người nào nhắc nhở những việc khó để vua làm, thì
người ấy có nết cung; người nào bầy tỏ điều thiện đức, ngăn cản việc tà khuất, thì đối với
vua, người ấy có đức kính. Còn kẻ nào nói vua ta chẳng có sức làm thiện làm nhân, kẻ ấy
làm hại vua vậy". Như vậy, để vua - tôi thuận hoà, bề tôi cần phải có đức trung trong mọi
công việc được vua giao.
Ngược lại, vua cần phải giữ Lễ trong việc sai xử bề tôi, nghĩa là không được dựa
vào quyền hành và thân thế mà đối xử với bề tôi. "Lễ" ở đây còn có nghĩa là vua phải biết
tôn trọng người hiền tài, phải biết lắng nghe lời can dán của bề tôi. "Bề tôi can dán thì vua
theo, nói phải thì vua nghe, ơn huệ thấm xuống dân. Bề tôi vì một lẽ gì đó mà phải bỏ nước
ra đi, ắt vua sai người hộ tống đến miền cương giới. Trước đó vua còn có lời gửi gắm


4

4

người quen cũ của mình tới vị vua trong nước mà người sắp đến. Quá ba năm mà người
chẳng trở về, chừng đó vua mới lấy lại ruộng đất và dinh thự của người. Đó gọi là ba việc
có lễ của vua đối với bề tôi".
Đối với mối quan hệ Cha - Con, Nho giáo đòi hỏi người làm cha phải có đức tính
nhân từ, người làm con phải có đức hiếu đễ. "Hiếu" là để thờ cha mẹ, là gốc của đức
"Nhân". Nói tới đức nhân tức là nói đến lòng yêu thương người, mà muốn yêu thương
người thì trước hết phải yêu thương cha mẹ, anh em mình. Nho giáo cho rằng, người mà
không biết yêu thương cha mẹ lại có thể đem lòng yêu thương người khác là điều không
thể có được. Vì thế, suy đến cùng, đạo của vua cũng là đức hiếu đễ. "Trong những người
có nết hiếu, nết đễ, ít ai ưa trái nghịch với bề trên. Đã không ưa trái nghịch với bề trên, lại
thích gây ra những cuộc phản loạn, ngưòi như vậy ta chưa từng thấy. Cho nên bậc quân tử
chuyên chú vào việc gốc. Cái gốc được vững tốt, tự nhiên đạo lý bắt đầu từ đó mà sinh ra.
Vậy làm người mà biết giữ gìn nết hiếu, nết đễ, tức là biết nắm lấy cái gốc đó". Đối với
Nho giáo, "Hiếu" là cái đạo phải làm của mỗi con người sống trong xã hội. Trong xã hội,

việc phải làm đầu tiên của mỗi người là cần chịu khó học tập, rèn luyện bản thân để có thể
"lập thân, hành đạo, nêu cao thanh danh đến đời sau để làm vinh hiển cho cha mẹ". Như
vậy, "Hiếu" đòi hỏi người làm con phải có trách nhiệm với cha mẹ mình được xã hội tôn
trọng, không gì bằng đem cả thiên hạ phụng dưỡng cha mẹ; giữ được địa vị, làm theo lễ
của ông cha, kính những người mà ông cha trọng, mến những người mà ông cha yêu, thờ
người thác như thờ người sống, trọng người đã qua như trọng người đang tồn tại. Để làm
được như vậy, theo Khổng Tử, khi "cha còn sống phải xem xét chí của cha; cha chết rồi
xem việc làm của cha, ba năm không thay đổi những lời cha đã dạy, như thế có thể gọi là
hiếu vậy". "Hiếu" còn đòi hỏi người con phải biết phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ còn
sống. Điều đó có nghĩa là khi phụng dưỡng cha mẹ thì phải có sự kính cẩn, phải có lễ.
Khổng Tử chỉ rõ: "Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là người có hiếu.
Nhưng những con thú như chó ngựa thì người ta cũng nuôi. Cho nên nuôi cha mẹ mà
chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật". Vì thế, việc phụng dưỡng cha mẹ là phải biết
kính cẩn, chăm sóc cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống thì không được đi chơi xa và có đi đâu
cũng phải có phương hướng nhất định; phải biết giữ gìn thân thể mình để báo đáp công ơn
sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Khi cha mẹ đã mất phải chôn cất cho có lễ, cúng tế
cũng phải giữ cho đủ lễ. Theo Mạnh Tử, "Phụng dưỡng cha mẹ khi sinh tồn, đó chưa kể là


5

5

việc lớn lao hơn hết của kẻ làm con. Tống táng cha mẹ cơn tử biệt, đó mới là việc trọng đại
hơn hết của người hiếu tử".
Một mặt chỉ rõ nội dung của hiếu; mặt khác Nho giáo cũng chỉ rõ những việc làm
được coi là sự bất hiếu và đáng bị cả xã hội lên án. Những điều được Nho giáo xem là bất
hiếu gồm có: "Tay chân không chịu cử động để làm một công việc gì, chẳng đoái hoài đến
việc nuôi dưỡng cha mẹ, đó là điều bất hiếu thứ nhất vậy. Đánh bạc, đánh cờ, ham uống
rượu chẳng đoái hoài đến việc nuôi dưỡng cha mẹ, đó là điều bất hiếu thứ hai vậy. Ham mê

của cải, chỉ lo liệu cho vợ con mà thôi, chẳng đoái đến việc nuôi dưỡng cha mẹ, đó là điều
bất hiếu thứ ba vậy. Tai ham nghe tiếng êm, mắt mê nhìn sắc đẹp, để cho cha mẹ tủi hổ, đó
là điều bất hiếu thứ tư vậy. Thích những việc dũng lực và tranh đấu bạo tợn, khiến cha mẹ
phải nguy khốn, đó là điều bất hiếu thứ năm vậy". Như vậy, có thể nói, bất hiếu có ba điều
lớn: một là, làm những chuyện bậy bạ, khiến cho cha mẹ mang nhục. Hai là, nhà nghèo mà
cha mẹ lại già yếu nhưng chẳng chịu ra làm quan để nuôi cha mẹ. Ba là, không có con nối
dõi, khiến cho cha mẹ không có người hương khói. Trong ba điều bất hiếu ấy, Nho giáo coi
việc không có con nối dõi là điều bất hiếu lớn nhất.
Nho giáo còn khẳng định chiều ngược lại trong quan hệ cha con là cha mẹ cũng
phải có nghĩa vụ đối với con cái. Ngoài tình yêu thương con cái, Nho giáo đòi hỏi cha mẹ
phải: có nghĩa vụ dạy dỗ con cái mình nên người, khi con cái còn nhỏ phải lo lắng, chăm
sóc cho con khôn lớn, khi con cái trưởng thành, phải dạy dỗ, uốn nắn và làm gương cho
con cái để con cái biết đạo ứng xử làm người trong xã hội: biết trung với vua, biết hiếu với
cha mẹ, biết kính với người trên, biết đễ với anh em, biết tín với bạn bè, biết thấy việc
nghĩa thì phải làm. Cha mẹ còn phải biết che chở, bảo vệ con cái, sẵn sàng bao che cho
con cái khỏi phải tội lỗi.
Trong mối quan hệ vợ - chồng, Nho giáo đòi hỏi phải có sự hoà thuận. Trong gia
đình, người chồng phải biết yêu thương vợ, chăm lo cho vợ con và là chỗ dựa của vợ con.
Ngược lại, người vợ phải biết chăm lo, vun vén cho gia đình mình và gia đình nhà chồng,
phải biết nghe theo chồng một cách vô điều kiện. Nho giáo đề cao gia đình hoà thuận, coi
thuận vợ, thuận chồng là cái gốc của xã hội thái bình. Mặt khác, Nho giáo lại phản đối sự
dân chủ trong gia đình. Theo Nho giáo, gia đình là cái nước nhỏ, trong đó người chồng là
chúa tể của người vợ, chồng nói thì vợ phải theo, trong gia đình người vợ không có một
chút quyền hành nào, chỉ là người chịu sự sai bảo, sai khiến của chồng và con. Để được


6

6


khen là tiết hạnh, là thục nữ, họ phải tự ép mình tuân theo những quy định khắt khe trong
tứ đức (công, dung, ngôn hạnh), tam tòng của Nho giáo: khi còn ở nhà thì chịu sự sai khiến
của cha; khi đi lấy chồng chịu sự sai khiến của chồng; chồng chết chịu sự sai khiến của
con.
Đối với mối quan hệ huynh - đệ, Nho giáo đòi hỏi anh em trong nhà phải có tình
thân mật. Là anh thì phải biết bao bọc, chở che cho em, phải biết nhường nhịn em; là em
phải biết kính trọng anh, nghe lời anh. Thực chất, quan hệ anh em trong Nho giáo cũng
giống như quan hệ cha con. Bởi lẽ, xã hội của Nho giáo là xã hội của quyền huynh thế phụ.
Trong xã hội đó, anh là người có quyền thay cha giải quyết mọi công việc đối nội cũng như
đối ngoại của gia đình.
Đối với mối quan hệ bạn bè, Nho giáo đề cao đức tín và đòi hỏi mọi người phải
giữ chữ tín trong giao tiếp. Nho giáo quan niệm đức tin là nền tảng của trật tự xã hội. Bạn
bè mà không có lòng tin thì cũng không còn tình bạn, chính quyền mà không được dân
chúng tin thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ đổ. Vì thế, khi được Tử Cống hỏi về cách cai
trị, Khổng Tử cho rằng muốn cai trị tốt. Nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện: lương
thực phải có đủ để nuôi dân, binh lực phải có đủ để bảo vệ dân, phải có được lòng tin cậy
của dân. Tử Cống lại hỏi tiếp, trong ba điều ấy, nếu bất đắc dĩ mà phải bỏ bớt thì nên bỏ
điều nào trước. Khổng Tử đáp: bỏ binh lực. Tử Cống lại hỏi: còn lại hai điều là lương thực
và lòng tin, nếu bất đắc dĩ mà phải bỏ bớt, thì nên bỏ điều nào trước. Khổng Tử trả lời: bỏ
lương thực. Bởi lẽ, theo Khổng Tử: "từ xưa đến nay, trong nước nếu thiếu lương thực thì
xảy ra nạn chết đói; chớ dân mà không tin nhà cầm quyền thì chính phủ phải đổ".
Như vậy, học thuyết luân lý, đạo đức của Khổng Tử tuy nói là phản ánh năm mối
quan hệ phổ biến trong xã hội, nhưng về thực chất và suy đến cùng, nó chỉ phản ánh hai
mối quan hệ. Đó là ba mối quan hệ trong gia đình (cha - con, vợ - chồng, anh - em) và hai
mối quan hệ xã hội (vua - tôi, bạn - bè). Trong quan hệ gia đình thì mối quan hệ cha - con ,
trong quan hệ xã hội thì mối quan hệ vua - tôi giữ vị trí quan trọng nhất. Thực chất, học
thuyết luân lý và đạo đức của Khổng Tử chính là sự thể hiện đường lối chính trị phong
kiến đẳng cấp và gia trưởng. Dựa vào học thuyết này, Khổng Tử hy vọng có thể giúp cho
xã hội ổn định, trật tự được khôi phục.



7

7

Cùng với ngũ luân, ngũ thường cũng có vai trò quan trọng. Ngũ thường là năm
phẩm chất của con người (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), trong tu thân cần phải rèn luyện. Trong
việc trị nước, tu thân, Khổng Tử đặc biệt quan tâm đến đức "nhân" và "lễ", hai yếu tố này
cũng là những phẩm chất cốt lõi của luân lý, đạo đức.
"Nhân" là đức tính toàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người. Chữ "nhân"
theo Nho gia bao hàm một nội dung hết sức rộng rãi. Theo Khổng Tử: "thương người là
nhân", "điều gì mà mình không muốn thì đừng đem áp dụng cho người khác" là nhân;
"mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp
người thành đạt" là nhân. Có chỗ Khổng Tử lại nói: "nhân là thương yêu người", nhân là
"tôn trọng người hiền, nhân là lòng người, tình người, là quan hệ giữa người với
người"....Quan niệm như vậy, nhân có nghĩa là gốc rễ của luân lý, đạo đức con người.
Con người cần phải có "Lễ" - Lễ là cái để phân định người thân với kẻ sơ, làm rõ
phải trái và phân biệt với dị đồng. Khác với pháp luật, lễ có tác dụng ngăn cấm những hành
vi sai trái trước khi nó sảy ra còn pháp luật thì dùng để ngăn cấm những cái mà nó đã sảy
ra rồi. Người quân tử: "trái với lễ thì không nhìn, trái với lễ thì không nghe, trái với lễ thì
không nói, trái với lễ thì không làm". Những điều cụ thể của lễ chính là những quy tắc ứng
xử giữa người với người trong xã hội, nó chính là những nghi thức, những quy tắc trong
đời sống của con người.
"Nhân", "Lễ" có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhân là chất, là nội dung, Lễ là hình
thức biểu hiện của Nhân. Theo Nho gia, người muốn đạt đức nhân còn phải là người có
"trí", "dũng" và "tín". "Trí", "Dũng", "Tín" cũng là những đức tính mà con người cần phải
có để đạt được những phẩm chất cần thiết của việc "tu thân".
Trong học thuyết về luân lý, đạo đức của Khổng Tử, "Nhân", "Lễ", "Chính danh"
có quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ đó phản ánh tính chất danh phận đẳng cấp đồng thời
danh phận đẳng cấp lại là sự thể hiện của nhân, lễ. Những điều cụ thể của nhân, lễ là những

quy tắc ứng xử giữa người với người trong đời sống xã hội, nó chính là những nghi thức,
những quy tắc trong đời sống. Đồng thời đó cúng chính là những điều cốt lõi của luân lý,
đạo đức nhằm đưa xã hội quay trở về những trật tự cũ của nhà Chu.
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết về luân lý đạo đức được học trò của ông trong
các triều đại về sau tiếp tục. Trong số họ, nổi bật là nhà triết học, nhà chính khách nổi tiếng


8

8

Mạnh Kha (371 - 289 TCN). Đến Mạnh Tử thì các khái niệm, pham trù về nhân, lễ, chính
danh đã rõ ràng hơn. Tuy nhiên cũng có những yếu tố, Mạnh Tử đã thần bí hoá một số
quan niệm về "thiên mệnh", về đạo đức. Một trong những tư tưởng đó là quan niệm về
"tính người". Ông cho rằng con người mới sinh ra trời phú cho đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín;
đủ đức hiếu với cha, mẹ, người thân; trung với vua, kính với bề trên, nhưng chỉ có người
quân tử là có khả năng giữ được đủ mà thôi. Ông xuyên tạc tính duy vật thô sơ của tư
tưởng ngũ hành, gắn nó vào học thuyết về đạo đức của mình, thần bí hoá nó. Mạnh Tử cho
rằng: thần mộc là nhân, thần kim là nghĩa, thần hoả là lễ, thần thuỷ là trí, thần thổ là tín.
Bốn đức: nhân, nghĩa, lễ, trí là do tín mà ra.
Đến thời kỳ Tây Hán, xuất hiện nhà triết học duy tâm Đổng Trọng Thư (180 - 105
TCN). Đổng Trọng Thư tự coi mình là người tiếp tục tư tưởng của học phái Nho gia,
nhưng thực tế ông đã xuyên tạc, tiếp thu và khuếch trương những yếu tố duy tâm trong học
thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử, của phái âm dương ngũ hành và các trường phái khác để
nhào nặn nên học thuyết của mình, một học thuyết mang đậm màu sắc chính trị duy tâm
thần bí và khắc nghiệt. Về luân lý, đạo đức, Đổng Trọng Thư tiếp tục đề cập đến các mối
quan hệ của con người, nhưng thực ra đã tước đi những yếu tố có tính nhân đạo, tiến bộ
của học thuyết Khổng - Mạnh mà đưa vào đó nhiều quan niệm khắt khe. Đặc biệt, với
"Tam cương", ông đưa ra thứ quy tắc đạo đức phi lý, phi nhân bản: vua xử tội chết thì thần
phải chết, nếu không là mắc tội bất trung (quân xử thần tử thần bất tử bất trung), cha bảo

con chết con phải chết, nếu không là mắc tội bất hiếu (Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu), chồng bảo vợ phải tuyệt đối tuân theo (Phu xướng phụ tuỳ). Ông cũng dùng thuyết
âm dương (đã bị tước bỏ phần duy vật), quy luật của tự nhiên và viện đến ý trời để biện
minh cho học thuyết đạo đức của mình: Vua là tượng của trời nên có đức che chở, hướng
dẫn "thiên vi quân nhi tán chi", bề tôi là tượng của đất nên có đức chuyên chở, tuân theo
(địa vi thần nhi trì tải chi), chồng là thuộc khí dương nên có đức sinh, dẫn đầu (dương vi
phu nhi sinh chi), vợ là thuộc khí âm nên có đức phụ trợ, tuân theo (âm vi phụ nhi trợ chi),
cha là thuộc "mùa xuân" nên có đức sinh (xuân vi phụ nhi xuân chi), con là thuộc mùa hạ
nên có đức dưỡng, tuân theo (hạ vi tử nhi dưỡng chi) và tất cả là do trời định đoạt (khả cầu
vi thiên). Thuyết về ngũ thường, về mặt tên gọi và nội dung của nó thì đây chỉ là một sự
chép lại của Khổng Tử, Mạnh Tử chứ không có gì mới. Nhưng ở đây Đổng Trọng Thư đã
giải thích và vận dụng nó theo mục đích của mình. Ông cho rằng con người phải đủ "ngũ


9

9

luân" để thực hiện "tam cương" và con người mới có đạo cương thường. Suy cho cùng
những vấn đề về luân lý, đạo đức của Đổng Trọng Thư nhằm phục vụ mục đích cao nhất là
"trung quân", trung thành tuyệt đối với nhà vua.
Như vậy, học thuyết về luân lý đạo đức của Khổng Tử trong các triều đại về sau
đã qua nhiều bàn tay nhào nặn. Có những yếu tố phát triển tích cực, song cũng có nhiều
yếu tố làm cho nó thụt lùi. Tuy vậy, ngày nay những vấn đề cơ bản về luân lý đạo đức bản
nguyên từ thời Khổng Tử vẫn được giữ nguyên nghĩa.
Học thuyết về luân lý, đạo đức của Khổng Tử đã để lại nhiều tư tưởng tích
cực, tiến bộ.
Tư tưởng tích cực và tiến bộ nhất là Nho giáo đã đề cập đến các mối quan hệ của
con người xã hội, khi nói đến các quan hệ xã hội, thì mối quan hệ đầu tiên cần phải kể đến
là mối quan hệ gia đình. Một xã hội hoà thuận trước hết cần có những gia đình hoà thuận.

Gia đình hoà thuận là gia đình mà mọi thành viên trong đó luôn quan tâm chăm lo đến
nhau. Một gia đình hoà thuận chính là một gia đình mà xã hội hiện nay đang đòi hỏi. Một
xã hội ổn định và phát triển, trước hết phải dựa trên mỗi gia đình cụ thể. Gia đình là nơi
nuôi dưỡng, cung cấp cho xã hội những con người có đức, có tài để xây dựng đất nước.
Gia đình cũng chính là thành trì bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc, "một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều
có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn". Vì thế, mỗi người cần có nết
hiếu với cha mẹ là để mở rộng cái nết đó ra mà thờ vua, mỗi người cần có nết đễ với anh là
để mở rộng cái nết đó ra mà kính bậc quân trưởng, mỗi người cần có cái đức từ với con
cháu là để mở rộng cái đức đó ra mà sai khiến dân chúng. "Gia đình là tế bào của xã hội, là
cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp
sống hình thành nhân cách", và do vậy, "các chính sách của nhà nước phải chú ý đến xây
dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi
lớp người". Gia đình mới mà chúng ta xây dựng là một gia đình hoà thuận, dựa trên cơ sở
dân chủ: vợ chồng, cha con, anh em tôn trọng nhau, cùng nhau bàn bạc và quyết định các
vấn đề lớn của gia đình; trong gia đình đó không có chỗ cho tư tưởng gia trưởng độc đoán.
Ngoài quan hệ gia đình là quan hệ xã hội. Trong quan hệ xã hội, đạo đức, luân lý
Nho giáo đề cao trung và tín. Nho giáo đòi hỏi mọi người đều phải có tấm lòng trung và có


10

10

đức tín. Theo Nho giáo, lòng trung và đức tín là nền tảng để bảo đảm sự ổn định và vững
bền của chế độ. Một tình bạn sẽ tan vỡ, một chính quyền sẽ sụp đổ nếu không được xây
dựng trên cơ sở của lòng trung và đức tín. Trong mối quan hệ giữa người với người, theo
Nho giáo, không thể có một xã hội ổn định và có trật tự khi mà mọi người luôn tìm cách
lừa lọc nhau để vơ lấy cái lợi về mình. Trung, Tín là cơ sở của một xã hội ổn định và là
động lực cho nền kinh tế phát triển lành mạnh. Mất lòng trung, đức tín là mất tất cả. Trong

mối quan hệ giữa trung và tín, Trung là cơ sở để giữ vững sự ổn định xã hội, tín tạo sự bền
vững của mối quan hệ. Mất Trung và Tín chính quyền sẽ sụp đổ, xã hội sẽ hỗn loạn. Vì lẽ
đó, Nho giáo quan niệm trong quan hệ xã hội thì trung và tín là quan trọng nhất.
Bên cạnh những mặt tích cực, Nho giáo còn có nhiều hạn chế do điều kiện
lịch sử đem lại.
Trong hệ thống tư tưởng về luân lý đạo đức thì quan niệm của Khổng Tử chỉ thấy
con người xã hội mà không thấy con người tự nhiên. Nho giáo đã quy tất cả mọi quan hệ tự
nhiên vốn có của con người trong xã hội thành các quan hệ luân thường: vua - tôi, cha con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Do vậy, có thể nói, con người của Nho giáo không còn
là con người của tự nhiên, mà chỉ là con người của chức năng: hoặc là vua hoặc là tôi, hoặc
là cha hoặc là con, hoặc là chồng hoặc là vợ.
Đạo đức, luân lý Nho giáo là thứ đạo đức, luân lý phong kiến bảo thủ và lạc hậu,
nó giống như "người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời" và do vậy, ở một mức độ
nhất định, nó đã làm cản bước tiến của lịch sử. Nho giáo phân biệt đẳng cấp, ràng buộc con
người trong trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị, mặt nào đó nó kìm hãm sự phát
triển cá nhân, con người trở nên cam chịu, không dám đứng lên đấu tranh. Tự do của cá
nhân là cái không được phép tồn tại; con người không có cá tính, không có quyền tự do ăn
nói, tự do đi đứng cũng như tự do mưu cầu hạnh phúc riêng tư, mà tất cả đều bị trói buộc
bởi những quy định của Lễ. Trong cái xã hội luân thường ấy, con người bị gò ép và luôn
luôn phải thận trọng giữ gìn trong mọi hành vi, cử chỉ, sao cho mọi lời ăn tiếng nói, hay
mọi hành động đều phải đúng với danh phận, đúng với Lễ.
Nho giáo tưởng rằng xã hội chính trị hay loạn đều là do luân lý đạo đức mà ra;
tưởng rằng có thể làm cho con người trở nên hoàn thiện chỉ bằng việc tu dưỡng đạo đức
theo Lễ; tưởng rằng có thể tạo ra được một xã hội trật tự, ổn định theo mô hình gia đình


11

11

cha con, chồng vợ, anh em trên dưới thuận hoà. Trong cái mô hình gia đình đó, mỗi cá

nhân đều có một danh vị hay danh phận rõ ràng. Mọi cá nhân cứ theo đúng danh phận mà
sống sao cho chính danh, yên với phận, yên với mệnh.
Mặc dù, Nho giáo có những hạn chế, nhưng bằng những giá trị tích cực về luân
lý đạo đức, ít nhiều phù hợp với tính cách của người phương Đông, nên nó đã ăn sâu vào
đời sống xã hội. Nó đã trở thành một tập quán đạo đức và lối sống của nhiều nước phương
Đông nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng.
Trong chiều sâu của lịch sử, Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, chủ yếu là
canh tác lúa nước, sản xuất mang tính tự cung tự cấp, kinh tế hàng hoá chậm phát triển,
phương thức sản xuất mang những nét đặc trưng của phương thức sản xuất châu Á - đó là
sự tồn tại khá dài của công xã nông thôn, cư dân sống phân tán, khoa học tự nhiên chậm
phát triển. Là một nước nhỏ nằm giữa hai nước lớn là Ấn Độ và Trung Hoa, bị các tập
đoàn phong kiến phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm. Cùng với việc thực hiện mưu đồ
xâm lược, các tập đoàn phong kiến phương Bắc đã truyền vào Việt Nam các học thuyết
chính trị xã hội, triết học và tôn giáo. Cùng với đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho cũng vì vậy mà
được truyền bá vào Việt nam, hình thành nên ở Việt Nam "Tam giáo đồng nguyên". Theo
"Đại Việt sử ký toàn thư", Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Tây Hán, vào khoảng
những năm 110 TCN. Cùng với đạo Phật và đạo Lão - Trang, đạo Nho đã có ảnh hưởng
lớn đến sự tồn tại, phát triển con người Việt Nam. Sự xâm nhập của Nho giáo cùng với hệ
thống các quan điểm về luân lý đạo đức đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, phong
tục, tập quán của con người Việt Nam, nhưng nó không làm biến dạng người Việt Nam qua
quá trình đồng hoá, vì "quy luật phát triển của dân tộc ta là chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ
quốc, chống đồng hoá để dị biệt hoá, tiếp nhận ảnh hưởng và chống lại ảnh hưởng văn hoá
ngoại lai để xây dựng văn hoá dân tộc".
Tuy nhiên cùng với Nho giáo, những vấn đề về lối sống đạo đức của Nho giáo đã
có ảnh hưởng lớn đến lối sống, đạo đức của con người Việt Nam, ít nhiều nó đã ngấm sâu,
bám rễ trong tâm lý và tư tưởng của một bộ phận quần chúng. Nho giáo tạo cho con người
Việt Nam tinh thần ham học hỏi, ham hiểu biết, cần cù học tập, rèn luyện, dấn thân; ứng
sử đa dạng, phù hợp trong xã hội. Chính nhờ có những vấn đề đó mà xã hội có được kỷ
cương, trật tự nhất định, mà nếu chỉ bằng pháp luật hẳn khó có thể làm nổi. Do đó, mặc dù
tư tưởng về luân lý đạo đức còn có nhiều hạn chế do lịch sử để lại là không thấy con người



12

12

trước hết là con người tự nhiên rồi mới là con người xã hội, song nếu tạm gác lại con người
tự nhiên, thì trong điều kiện xã hội chúng ta ngày nay, luân lý đạo đức với vai trò ổn định
trật tự xã hội vẫn còn có ý nghĩa nhất định. Bởi vì, một xã hội trật tự, ổn định có tầm quan
trọng đặc biệt đối với việc thực hiện các nội dung về kinh tế, chính trị, xã hội.
Ngày nay, nhiều khái niệm về luân lý đạo đức của Nho giáo vẫn còn chứa đựng
những yếu tố hợp lý, có giá trị và có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, giáo dục con
người Việt Nam.
Thứ nhất, đó là tư tưởng coi con người là trung tâm của xã hội, muốn nhận thức,
cải tạo xã hội, con người cần phải tu thân. Vấn đề khác nhau ở chỗ, tu thân để làm gì? Nếu
trong xã hội phong kiến, tu thân là để mong có ngày được làm quan và nội dung của nó là
tụ tập theo tam cương, ngũ thường; thì trái lại, trong chủ nghĩa xã hội, tu thân là rèn luyện
đạo đức cách mạng, là học tập, tiếp thu và nắm vững những thành tựu, tri thức khoa học
của nhân loại, phấn đấu trở thành những con người mới vừa hồng, vừa chuyên. Hồng là
biết sống vì mọi người, vì tương lai của gia đình và đất nước, vì lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa. Chuyên là có trình độ chuyên môn giỏi, nắm vững được những tri thức khoa học
tiên tiến, những quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy. Tại Hội nghị lần
thứ hai Ban Chấp hành TW khoá VIII, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản
của việc giáo dục con người Việt Nam mới như sau: "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng..., có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích
cực của cá nhân..., là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa
"chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ". Việc đặt vấn đề đạo đức, vấn đề "hồng" lên trước
"chuyên" phần nào đã phản ánh rõ tầm quan trọng của Lễ đối với sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, kế thừa nét đẹp của con người và gia đình, Đảng ta cũng đánh giá cao vai trò

của con người, gia đình đối với sự tiến bộ của xã hội. Chúng ta chỉ có thể xây dựng dược
xã hội mới khi có những con người mới vừa hồng, vừa chuyên.
Thứ hai, cùng với việc đưa ra các quan hệ xã hội của con người, Nho giáo còn
chuẩn mực chúng và coi đó là tư tưởng đạo đức của xã hội phong kiến. Ngày nay, nếu
chúng ta lược bỏ được những nội dung phong kiến của nó, thì sẽ mang lại tính chất chân lý
và phổ biến trong xã hội. Ở đây vấn đề đặt ra là, con người cần phải ứng xử như thế nào
trong các mối quan hệ xã hội để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội mà mình


13

13

đang sống. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta đang hướng đến các mối quan
hệ xã hội khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó. Các mối quan hệ trong gia đình
không chỉ mang tính huyết thống mà còn mang tính xã hội sâu sắc. Người phụ nữ được
giải phóng và vai trò của họ trong xã hội được đề cao. Quan hệ bạn bè là quan hệ tương trợ
và tin cậy. Để có được các mối quan hệ tốt đẹp đó, con người cần phải học tập, ngay trong
quá trình học tập, rèn luyện, chúng ta cần phải tiếp thu, kế thừa cách nhìn tích cực về con
người xã hội của Nho giáo, tiến hành chuẩn mực hoá các hành vi ứng xử trong quan hệ xã
hội phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã vạch ra.
Một lối sống lành mạnh cùng với những chuẩn mực mới về luân lý đạo đức là cái
đích hướng tới của xã hội ta hiện nay. Vì chính các quan hệ đạo đức, các cách ứng xử giữa
người với người là nền tảng của trật tự xã hội. Một xã hội muốn ổn định thì phải xây dựng
được cho mình một "lẽ sống" hay đạo lý phù hợp với chế độ mà nó theo đuổi. Lẽ sống,
nguyên tắc ứng xử của chúng ta chính là "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người", là "yêu nước, yêu nhà, thương người, thương mình", là kính già yêu trẻ, tôn sư
trọng đạo. Muốn làm được điều đó, chúng ta cầng phải giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu
nước, tinh thần thương người như thể thương thân; biết nhớ ơn công lao dưỡng dục sinh
thành của cha mẹ; biết kính trọng ông bà, thương yêu con cháu, đùm bọc anh em; biết hoà

thuận tôn trọng lẫn nhau trong cuộc sống vợ chồng. Như vậy về thực chất, tất cả các yêu
cầu kể trên đều xuất phát từ các yêu cầu của luân lý đạo đức: là phận cha phải sống cho
đúng với phận cha, là phận con phải sống cho đúng với phận con, là phận anh phải sống
cho đúng với phận anh, là phận em phải sống cho đũng với phận em. Đảng ta coi mỗi gia
đình là một tế bào của xã hội, nơi nuôi dưỡng và cung cấp cho xã hội những công dân ưu
tú cả về tài năng và đạo đức. Vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã yêu cầu các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây
dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi
lớp người...
Thứ ba, trên cơ sở tư tưởng về con người xã hội, Nho giáo đã xây dựng nên hệ
thống các khái niệm để chuẩn mực hoá các hành vi ứng xử trong mối quan hệ giữa người
với người. Đó là các khái niệm Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng... với những
nội dung cụ thể phản ánh tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị. Những khái niệm trên
của Nho giáo (trừ khái niệm Trung) hầu như vẫn giữ nguyên những giá trị của chúng với tư


14

14

cách là các nấc thang của quá trình nhận thức. Nhưng chúng ta cần phải kế thừa có chọn
lọc nội dung của các khái niệm đó. Bởi vì chúng tuy hoàn hảo, song không thể dung hợp
được với các trào lưu tư tưởng hiện đại. Hơn nữa, việc kế thừa các khái niệm đó phải gắn
với việc cải tạo nội dung của chúng. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, muốn
giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta rất cần những con người có phẩm
chất Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng. Đây là những nội dung luân lý, đạo đức của
Nho giáo mà chúng ta cần phải kế thừa và phát huy, nhất là khi chúng ta đang tiến hành
xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà ở đó, lòng trung và
đức tín là những cái hết sức cần thiết. Bởi lẽ muốn bảo vệ và giữ vững được chủ quyền của
đất nước thì cần phải có lòng trung thành với Tổ quốc.

Nếu ở Nho giáo, trung là trung với vua, thì ngày nay, trung là trung với nước, với
dân. Lòng trung thành đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải biết đặt lợi ích của đất nước, của nhân
dân lên trên lợi ích của mình. Trong quan hệ trên dưới, cán bộ cấp dưới phải biết giúp cán
bộ cấp trên, vạch ra các chính sách vì dân, có lợi cho dân cho nước. "Trung" đòi hỏi cán bộ
cấp dưới tuyệt đối không được dối gạt cấp trên, "làm láo báo cáo hay"; không vào hùa với
những sai phạm của cấp trên, không được khêu gợi cho cấp trên mắc sai phạm. Trung cũng
đòi hỏi các cán bộ cấp trên phải biết tôn trọng cấp dưới; không được dựa vào quyền hành
mà trù úm, đè nén cấp dưới; cán bộ cấp dưới đề đạt và góp ý đúng thì phải nghe, không
được vì động cơ cá nhân hay cậy quyền mà phớt lờ đi. Cấp trên phải biết quan tâm đến đời
sống tinh thần và vật chất của cấp dưới, biết hoà đồng cùng cấp dưới. "Trung" cũng đòi hỏi
các cán bộ phải là "người đầy tớ của nhân dân", phải biết lo trước cái lo của dân, vui sau
cái vui của dân.
Hiếu là hiếu với nhân dân, cha mẹ. Nhân là có lòng bác ái, thành thật thương yêu
và hết lòng giúp đỡ bạn bè, đồng chí. Trí là sáng suốt, biết người, biết ta. Tín là nói gì phải
cho tin, nói và làm phải thống nhất với nhau. Dũng là phải quả quyết, gặp việc khó cũng
quyết tâm làm song, không làm liều... Để làm được điều đó, chúng ta cần phải chuẩn mực
hoá chúng bằng việc tạo ra dư luận xã hội, biến chúng thành tập quán, thói quen trong giao
tiếp, ứng xử. Mặt khác, cần kết hợp việc làm đó với việc thực thi pháp luật, nhằm tạo cho
dư luận xã hội có sức mạnh vật chất.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mà sự phân hoá giàu nghèo và sự phân
tầng xã hội đang diễn ra hàng ngày, việc chạy theo đồng tiền, tìm kiếm lợi nhuận tối đa của


15

15

các doanh nghiệp là điều không tránh khỏi; cùng với việc chạy theo đồng tiền là nạn tham
nhũng, lừa đảo trong kinh doanh. Cũng trong cơ chế thị trường, khi mà một số cán bộ thoái
hoá biến chất lạm dụng chức quyền để vơ vét tiền của nhà nước, của nhân dân; khi mà một

số nhà giáo đang tâm thương mại hoá cả cái nghề nghiệp đã được nhân dân ta hàng ngàn
đời kính trọng; khi mà một số học trò đã dám ngang nhiên hành hung các thầy cô giáo
ngay trên lớp học, cả hành vi côn đồ với bạn bè ngay tại cổng trường; khi mà một số người
cha không còn ra cha vì với lối sống ích kỷ, thực dụng đã trở thành tấm gương xấu cho con
cháu; khi mà một số người con không còn ra con vì chỉ biết đến tiền mà không biết đến
hiếu, chỉ biết tới quyền lợi mà không biết đến nghĩa vụ đã làm cho cha mẹ phải tủi hổ.... ,
thì vấn đề kế thừa, tiếp thu những yêú tố hợp lý, tích cực của luân lý đạo đức có một tầm
quan trọng đặc biệt. Có lẽ vì vậy mà trong những năm gần đây, việc giáo dục Nhân, Lễ
luôn luôn đươc đề cao; các thầy cô giáo coi dạy và học lễ là công việc trước tiên, còn hậu
mới đến học Văn. Đúng như nhận định của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX: "Nạn tham
nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một
nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta". Vì thế, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng
cao đạo đức cách mạng, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống. Một trong những giá
trị đạo đức truyền thống đạo đức đó chính là luân lý, đạo đức của Nho giáo về gia đình, về
xã hội. Đó là: tư tưởng về lòng hiếu thảo và kính trọng với ông bà, cha mẹ cũng như những
người lớn tuổi; tư tưởng về anh chị em phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, bảo ban
nhau cùng tiến bộ; tư tưởng về bạn bè phải biết tin nhau, biết thương người như thể thương
thân, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong hoạn nạn; tư tưởng về lòng trung thành với Tổ quốc, với
nhân dân, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết...
Thứ tư, việc kế thừa truyền thống ham học, tinh thần học không biết chán, dạy
không biết mỏi của Nho giáo là một việc làm hết sức cần thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng dạy: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ
nghĩa. Con người mới xã hội chủ nghĩa không tự nhiên mà có, mà phải trải qua quá trình
rèn luyện học tập. Tất nhiên, việc học tập ở đây không phải là học tập những sách vở thánh
hiền, mà trước hết là học tập những tri thức khoa học tiên tiến của thời đại. Có nắm vững
được những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại, có kế thừa được những di sản văn
hoá của dân tộc và nhân loại, chúng ta mới có khả năng hội nhập được với xu thế phát triển


16


16

chung của thế giới, tránh được nguy cơ tụt hậu về kinh tế, đồng thời không bị hoà tan, đánh
mất bản sắc dân tộc và xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, chúng ta còn phải biết kế thừa tinh thần tôn sư trọng đạo của Nho
giáo. "Không thầy đố mày làm nên", đó là một chân lý. Là cây phải có gốc, là sông phải có
nguồn. Để trở thành một con người đúng nghĩa phải có thầy. Nhớ công ơn thầy là đạo lý
làm người, đồng thời cũng là nét đẹp truyền thống "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc.
Tóm lại, những điểm tích cực về luân lý và đạo đức của Nho giáo là những cái
cần thiết đối với việc duy trì kỷ cương trật tự xã hội. Tiếc rằng, trong xã hội có giai cấp nói
chung và trong xã hội phong kiến nói riêng, các tư tưởng đó chỉ là không tưởng. Đúng như
Hồ Chủ Tịch đã từng nhận xét: "Đạo lý ngày xưa của các cụ nêu lên không phải ai cũng
làm được, vì con người sống trong xã hội cũ là xã hội người đi áp bức, bóc lột người, quan
hệ giữa người với người thường là xấu. Bây giờ xã hội mới, không có áp bức bóc lột, ai
cũng có thể vươn tới đỉnh cao của đạo đức cách mạng. Những gương thánh hiền ngày xưa
chỉ có mấy chục và là chuyện nước ngoài, chuyện tưởng tượng ra. Còn thánh hiền ngày
nay bao gồm hàng triệu con người có thật trong nhân dân Việt Nam ta, ở trong nhà hay ra
ngõ đều có thể gặp được". Luân lý và đạo đức ngày nay chính là và là những chuẩn mực
mới, hợp lý của đạo đức xã hội. Để đạo đức cách mạng có thể đi vào cuộc sống, chúng ta
cần phải tăng cường công tác giáo dục, tạo ra và xây dựng cho được một hệ thống chuẩn
mực xã hội mới về Nhân, Lễ và Danh. Ví dụ: nếu trước kia là trung quân thì ngày nay là
trung với nước, với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nếu trước kia hiếu chỉ có nghĩa hẹp là hiếu
với cha mẹ, mà còn là hiếu với tất cả các bậc cha mẹ trong cả nước; biết ghi nhớ công lao
của những người có công với Tổ quốc; biết kính trọng những nguời già cả, tôn trọng phụ
nữ... Nếu trước kia làm quan là đem vinh thân phì gia, thì ngày nay làm cán bộ cách mạng
là làm người đầy tớ trung thành của nhân dân, là để lo cái lo trước thiên hạ, vui cái vui sau
thiên hạ. Như vậy có thể nói, việc kế thừa tư tưởng luân lý đạo đức của nho giáo, và đưa
vào đó những nội dung, chuẩn mực mới là việc làm hết sức cần thiết, nhất là trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, khi mà mọi người đều được phép

làm giàu một cách chính đáng, thì việc coi tiền hơn luân lý đạo đức, việc đánh mất danh
phận, đánh mất đạo đức cách mạng là một việc làm thường xảy ra. Do đó vì hiện tại và vì
tương lai, việc cấp bách là cần phải giáo dục rèn luyện cho thế hệ trẻ có được đạo đức cách


17

17

mạng, sống có lễ phép, biết kính già, yêu trẻ, nhớ công ơn cha mẹ, làm tròn trách nhiệm
mà Đảng và nhân dân giáo phó.
Với hơn 2500 năm tồn tại và ảnh hưởng, Nho giáo đã có những đóng góp không
nhỏ vào kho tàng tư tưởng triết học của thế giới. Ngày nay, nếu biết chắt lọc, tiếp thu và
phát triển những tư tưởng tích cực, tiến bộ của Nho giáo thì chúng ta có thể có được những
hạt ngọc quý giá, góp vào việc định hướng, xây dựng, phát triển những nhân cách mới và
những mối quan hệ xã hội lành mạnh, nhằm thực hiện một thế giới hoà bình, phát triển.
Trong đó, tiếp thu những hạt nhân tích cực của Nho giáo, triệt tiêu những điểm tiêu cực,
đưa vào đó những nội dung mới, chúng ta hoàn toàn có thể có những nội dung, biện pháp
tích cực trong giáo dục con người Việt Nam chân, thiện, mỹ đáp ứng với mục tiêu xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



×