Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học QUAN điểm của LÊNIN về vật CHẤT TRONG tác PHẨM CHỦ NGHĨA DUY vật và CNKNPP và ý NGHĨA HIỆN THỜI của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.97 KB, 20 trang )

1

1

QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ VẬT CHẤT TRONG TÁC PHẨM
“CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ
PHÁN” VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

Lênin là một nhà lý luận thiên tài, đồng thời lại là một nhà chỉ đạo thực
tiễn tài ba, xuất chúng, Lênin đã đấu tranh bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác trong điều kiện, hoàn cảnh mới; đồng thời cũng là người đầu tiên
đưa lý luận của chủ nghĩa Mác trở thành hiện thực bằng cuộc cách mạng
tháng 10 Nga vĩ đại.
Với những cống hiến to lớn đó, Lênin không nhưng đã làm tăng sức
sống cho chủ nghĩa Mác, làm còn làm cho chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Về mặt lý luận, trong quá trình đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác, Lênin đã để lại cho giai cấp vô sản và toàn nhân loại một kho tàng lý
luận đồ sộ và vô giá. Trong hệ thống lý luận đồ sộ mà Lênin để lại, tác phẩm
“Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” có một vị trí vai trò
đặc biệt quan trọng. Tác phẩm đã đánh dấu về sự phát triển mới của triết học
trong giai đoạn Lênin. Có thể nói, đây là cuốn sánh có tính chất giáo khoa,
nhập môn triết học Mác - Lênin, đặc biệt là các vấn đề về chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Trong tác phẩm này, Lênin đề cập đến rất nhiều vấn đề, song có lẽ
phần biện chứng là phần được đánh giá là trọng tâm và cốt lõi nhất. Phần này
được Lênin trình bày từ chương 1 đến chương 3 của tác phẩm. Trong những
vấn đề về chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm về vật chất của Lênin
trong tác phẩm, mà đặc biệt là định nghĩa vật chất kinh điển của người, có ý
nghĩa rất quan trọng. Nó không những có ý nghĩa lịch sử lúc bấy giờ mà còn
có cả ý nghĩa mang tính thời đại, thời sự. Ngày nay, khi nghiên cứu lại những




2

2

tư tưởng của Lênin về vật chất trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán” chúng ta thấy nó vẫn còn giữ nguyên giá trị.
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
được V.I.Lênin viết trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1908
và được xuất bản lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1909 tại Nga. Đây là một
trong những tác phẩm triết học chủ yếu của V.I.Lênin, được viết dưới dạng
luận chiến và đã đóng vai trò là cơ sở lý luận cho một đảng chính trị kiểu mới,
đồng thời góp phần tạo nên một giai đoạn mới trong sự phát triển của triết học
mácxít. Bối cảnh mà Lênin viết tác phẩm này cũng hết sức đặc biệt. Như
chúng ta đã biết, vào những năm cuối của thế kỷ XIX và đến những năm đầu
của thế kỷ XX, lúc này cách mạng tư sản về cơ bản đã toàn thắng, chủ nghĩa
tư bản đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đồng thời cũng
ngày càng bộc lộ rõ bản chất hiếu chiến, phản động, phản khoa học của nó.
Lúc này C. Mác và Ph. Ăngghen đã qua đời, sự qua đời của hai ông là một
tổn thất lớn lao cho phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế,
đồng thời nó cũng tạo cơ hội cho bọn phản bội, bọn cơ hội trong Quốc tế 2
trỗi dậy đả kích, chống phá. Tiêu biểu cho những trào lưu đó là khuynh hướng
triết học “kinh nghiệm phê phán”, “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” hay gọi
là chủ nghĩa Makhơ.
Makhơ là nhà triết học, nhà vật lý học người Áo, ông ta đã cùng với
nhà triết học người Đức Avênariút khởi xướng ra cái thứ triết học “kinh
nghiệm phê phán”. Chủ nghĩa Makhơ khi mới ra đời, để thu hút sự quan tâm,
chú ý của công chúng đã lớn tiếng hô hào “chống” chủ nghĩa duy tâm, ủng hộ

khoa học triết học hiện đại. Makhơ đã đưa ra một thứ triết học mà ông ta coi
là mới, và ông ta cũng không hề giấu diếm tham vọng muốn trở thành thứ
triết học “duy nhất khoa học”, thứ triết học mà có khả năng có thể khắc phục


3

3

được tính phiến diện của cả chủ nghĩa duy tâm lẫn chủ nghĩa duy vật cũ. Tuy
nhiên, về thực chất, chủ nghĩa Makhơ chỉ là một biến tướng của chủ nghĩa
thực chứng và bản chất của nó cũng chỉ là thứ triết học duy tâm chủ quan, vay
mượn, nhai lại béccli và Hiun khi cho rằng: cơ sở của tồn tại của thế giới
không phải là vật chất, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại chẳng qua chỉ là sự
“phức hợp của cảm giác” mà thôi. Từ cách tiếp cận như vậy, chủ nghĩa
Makhơ đi đến phủ nhận tính khách quan của các quy luật, phủ nhận các quy
luật phát triển của tự nhiên, xã hội, phủ nhận khả năng nhận thức và cải tạo
thế giới của con người.
Bối cảnh nước Nga lúc này cũng rất phức tạp, sau thất bại của cuộc
cách mạng dân chủ tư sản (1905-1907). Chế độ chuyên chế Nga hoàng đã
thiết lập một chế độ khủng bố vô cùng tàn bạo đối với những người cách
mạng, đồng thời, các thế lực phản động đã ngự trị trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội Nga; trong bối cảnh ấy, những tư tưởng thần bí, tôn giáo,
bi quan đủ loại không những được phục hồi mà còn nảy nở thêm và lan tràn
nhanh chóng như một bệnh dịch. Nguy hại hơn nữa, sự thất bại của cuộc cách
mạng 1905 không những đã đem lại sức nặng cho cuộc tiến công trực diện
của bọn phản động vào triết học Mác, mà còn làm cho bộ tham mưu của giai
cấp công nhân Nga bị phân hoá sâu sắc. Không chỉ những kẻ thuộc phái men
sê vích mà cả những người thuộc phái bôn sê vích trước đây như
A.Bôgđanốp, V.Badarốp, A.V.Lunatsatxki…cũng dựa vào chủ nghĩa Makhơ

để chống lại chủ nghĩa Mác, đòi xét lại cả các nguyên tắc sách lược của Đảng
trong đấu tranh chính trị và mưu toan dùng chủ nghĩa duy tâm chủ quan của
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán do E.Makhơ sáng lập để thay thế triết học
Mác. Đây đúng là thời kỳ mà như V.I.Lênin nhận xét: "Chủ nghĩa duy vật


4

4

đâu đâu cũng bị ruồng bỏ" và các thế lực thù địch đủ loại "liên minh với
nhau vì cùng thù ghét chủ nghĩa duy vật biện chứng"1
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ khoa học tự nhiên, đặc biệt là
trong lĩnh vực vật lý học xuất hiện những phát minh vĩ đại. V.I.Lênin gọi sự
kiện này là "cuộc cách mạng vật lý học" vì nó đã phá huỷ tận gốc rễ những
quan niệm cổ truyền mang tính chất siêu hình trước đó về thế giới vật chất .
Theo đó, nó dồn các nhà khoa học "giỏi về khoa học nhưng kém cỏi về triết
học" vào một cuộc khủng hoảng thật sự về thế giới quan – cái mà V.I.Lênin gọi
là "cuộc khủng hoảng vật lý học"; và những nhà khoa học trên đây đã từng
bước trượt dần xuống vũng bùn của chủ nghĩa duy tâm, tán đồng sự luận giải
mang tính chất duy tâm chủ quan của phái Makhơ về những thành tựu vĩ đại do
khoa học tự nhiên đem lại - V.I.Lênin gọi đó là "chủ nghĩa duy tâm vật lý học".
Có thể nhận thấy, để bảo vệ và phát triển triết học Mác, lịch sử đòi hỏi
V.I.Lênin phải tiến hành cuộc luận chiến chống lại các thế lực phản động
đồng thời trên nhiều phương diện của lĩnh vực chính trị – tư tưởng. Việc tiến
hành cuộc luận chiến này, như V.I.Lênin khẳng định, không chỉ "là một nghĩa
vụ văn học mà còn là một nghĩa vụ chính trị thật sự nữa". Những nghĩa vụ đó
đã được V.I.Lênin hoàn thành một cách xuất sắc trong tác phẩm “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
Về kết cấu của tác phẩm

Tính theo lần xuất bản thứ nhất (5-1909) ngoài phần lời tựa, phần thay
lời mở đầu và phần kết luận, tác phẩm gồm 6 chương với 39 mục (tiết). Đây
là một tác phẩm đồ sộ, chứa đựng nhiều nội dung quan trọng, mang tính chất
giáo khoa, nhập môn triết học.

1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tr 9.


5

5

Trong Lời tựa, sau khi điểm tên một loạt tác giả và các luận văn tương
ứng như Khái niệm về triết học mácxít (của bảy tác giả), Chủ nghĩa duy vật
và thuyết thực tại phê phán (của P.X.Iuskêvích), Phép biện chứng dưới ánh
sáng của nhận thức luận hiện đại (của Béc man), Những cơ cấu triết học của
chủ nghĩa Mác (của N.Valentinốp). V.I.Lênin đặt cho mình nhiệm vụ "Tìm
xem những kẻ đã đưa ra, dưới chiêu bài chủ nghĩa Mác, những cái vô cùng
hỗn độn, hồ đồ và phản động, đã lầm đường lạc lối ở chỗ nào"2.
Trong phần Thay lời mở đầu với tiêu đề Vào năm 1908, một số người
"C.Mác xít" và vào năm 1710, một số nhà duy tâm đã bác bỏ chủ nghĩa duy
vật như thế nào, V.I.Lênin đã chỉ rõ sự liên hệ "máu thịt", sự giống nhau hoàn
toàn về bản chất giữa quan niệm của những nhà triết học theo phái Makhơ ở
Nga đương thời với chủ nghĩa duy tâm chủ quan của G.Béc cơ li (1710) trong
việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Ở chương I, V.I.Lênin tập trung phê phán và bác bỏ quan niệm của
phái Makhơ cho rằng, cảm giác (hay cái gọi là "yếu tố") là cái có trước, rằng
các quan niệm của họ là hoàn toàn mâu thuẫn với những kết luận được kiểm
chứng trong lịch sử khoa học tự nhiên.
Trong chương II, V.I.Lênin phân tích thực chất tính chất nhị nguyên

trong quan niệm của E.Cantơ đối "vật tự nó", qua đó đi đến kết luận:
E.Makhơ và môn phái đã bắt đầu từ triết học E.Cantơ, nhưng đã không tiến
lên theo hướng duy vật (không thừa nhận vật tự nó) mà đã đi lùi về phái bất
khả tri của G.Béccơli và Đ.Hium (phủ nhận khả năng và nội dung khách quan
của nhận thức con người).
Cũng ở chương này, V.I.Lênin đã nêu ra những kết luận làm nền tảng
cho lý luận nhận thức duy vật và trình bày định nghĩa kinh điển của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về vật chất.
2 Sđd, tập 18, tr 11


6

6

Ở chương III, V.I.Lênin tập trung phê phán tính chất duy tâm chủ quan
của phái Makhơ xung quanh các vấn đề về vật chất, các mối liên hệ và các hình
thức tồn tại của nó, đặc biệt là quan niệm của phái này coi "yếu tố" (cảm giác) là
cơ sở, nền tảng là điểm xuất phát của tất cả các vấn đề nêu trên. Qua đó,
V.I.Lênin làm rõ quan niệm của chủ nghĩa duy vật về những vấn đề này.
Trong chương IV, V.I.Lênin trình bày chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
qua sự phát triển lịch sử và những mối liên hệ của nó với các khuynh hướng
triết học khác, qua đó, "điểm mặt chỉ tên" những biến tướng của nó ở Nga
như: Thuyết kinh nghiệm ký hiệu, Thuyết kinh nghiệm nhất nguyên, Thuyết
thực tại ngây thơ…Cũng ở chương này, V.I.Lênin đưa ra quan điểm có tính
nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật, rằng giới tự nhiên tồn tại từ lâu trước khi
có con người và ý thức là đặc trưng của óc người.
Chương V: V.I.Lênin phân tích thực chất và vai trò của "cuộc cách
mạng vật lý học" cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; phê phán "chủ nghĩa duy
tâm vật lý học"; chỉ rõ thực chất "cuộc khủng hoảng vật lý học" và vạch ra lối

thoát cho cuộc khủng hoảng này. Trên cơ sở đó, V.I.Lênin làm giầu thêm lý
luận nhận thức mácxít về chân lý khách quan, về tính tuyệt đối và tương đối
của chân lý, về quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Chương VI, V.I.Lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm của E.Makhơ trên
lĩnh vực xã hội, qua đó, phát triển và làm giầu thêm quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời V.I.Lênin khẳng định
tính đảng trong triết học, chỉ rõ thực chất cái gọi là tính "phi đảng" của các
triết gia tư sản.
Trong Phần kết luận, V.I.Lênin phê phán tính chất sai lầm, phản tiến bộ
của chủ nghĩa Makhơ; vạch ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa Makhơ với "chủ
nghĩa duy tâm vật lý" trong khoa học tự nhiên.


7

7

Ở nội dung bài thu hoạch này, chúng tôi chỉ tập trung trình bày quan
điểm của Lênin về vật chất trong tác phẩm, đồng thời chỉ ra ý nghĩa và tầm
quan trọng của quan điểm ấy.


8

8

2. Quan điểm của Lênin về vật chất trong tác phẩm “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Ý nghĩa hiện thời của nó
Có thể khẳng định, phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ
bản nhất, nền gốc nhất của triết học duy vật nói chung, triết học Mác - Lênin

nói riêng. Đây là phạm trù thể hiện trình độ nhận thức của con người về thế
giới hiện thực; đồng thời nó cũng là phạm trù đê phân biệt tính đảng, tính phe
phái trong triết học. Hầu hết các trường phái trong triết học đều bằng cách này
hay cách khác qua tâm giải quyết đến vấn đề này. Tuy nhiên, tuỳ theo trình độ
phát triển của thực tiễn lịch sử xã hội loài người, tuỳ theo trình độ và khả
năng nhận thức mà mỗi thời đại, con người lại có những quan niệm khác nhau
xoay quanh phạm trù vật chất.
Với tính cách là một phạm trù triết học, vật chất đã ra đời từ rất sớm trong
triết học Hy Lạp cổ đại. Nhưng ngay từ khi mới xuất hiện, nó đã tạo ra một cuộc
đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
xung quanh phạm trù này. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, thực thể của thế giới, cơ
sở của sự tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Nó có thể là “ý chí của
thượng đế”, là thế giới “ý niệm” ở đâu đó, cao siêu, bên ngoài con người.
Sau này, khi mà khoa học đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhận
thức về thế giới của chủ nghĩa udy tâm cũng có những bước tiến nhất định, song
nó vẫn không hề xa rời cái quan niệm sai lầm ban đầu, có chăng chỉ là sự thay
đổi cái vẻ bên ngoài cho khỏi lỗi nhịp với thời cuộc, còn về bản chất duy tâm thì
không hề thay đổi. Như Béccli , Hiun thì cho đó là “những tập hợp ý niệm”,
“những phức hợp cảm giác; từ điểm xuất phát đó, Béccli đưa ra một công thức
chung: tồn tại là được cảm giác. Còn Hêghen thì lại đưa ra cái gọi là “ý niệm
tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”- nó chính là khởi nguyên của thế giới”.


9

9

Trái với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà triết học duy vật Hy
Lạp cổ đại khẳng định, chính vật chất mới là khởi nguyên của thế giới, là cái
có trước, tồn tại độc lập với ý thức con người và sin ra ý thức. Tuy nhiên, do

hạn chế của trình độ nhận thức, trình độ phát triển của khoa học lúc bấy giờ,
nên các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đều cơ bản nhầm lẫn giữa vật
chất - với tư cách là một phạm trù triết học - vơi những vật thể cụ thể.
Họ cho rằng thực thể của thế giới là nước (như Talét), không khí (như
Anximen), lửa (như Hêraclít)…Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp
được đánh dấu bởi tên tuổi của Lơxíp và Đêmôcrít. Theo Lơxíp và Đêmôcrít,
thực thể của thế giới là nguyên tử. Đó là các phần tử cực nhỏ, không phân
chia được, không mầu, không mùi, không vị, không thể thẩm thấu, không thể
cảm giác được. Để nhận biết được nguyên tử thì phải nhờ vào tư duy. Các
nguyên tử có nhiều hình dáng, kích cỡ khác nhau. Sự kết hợp hoặc tách rời
của các nguyên tử theo các trật tự, tư thế khác nhau của không gian sẽ tạo nên
toàn bộ thế giới hiện thực.v.v…
Thuyết nguyên tử khi ra đời đã có ảnh hưởng rất mạnh mẽ, ngay cả đến
thời cận đại, các nhà duy vật vẫn tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật
chất nhỏ nhất, không thể phân chia được. Cho mãi đến cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, khi mà xuất hiện những phát minh mới trong khoa học tự nhiên,
con người mới buộc phải nhận thức lại về nguyên tử.
Hiện tượng phát hiện ra tia X, phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, ra điện
tử…đã bác bỏ một cách trực diện những quan niệm siêu hình về vật chất.
Quan niệm cho rằng, nguyên tử là phần tử nhỏ bé nhất, không thể phân chia
được, là giới hạn cuối cùng của vật chất đã bị sụp đổ hoàn toàn trước sự phát
triển của khoa học. Điều này đã làm cho các nhà duy vật siêu hình trở lên
lúng túng, hoài nghi và trượt dài sang chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời đây cũng
là cơ hội ngàn năm có một của chủ nghĩa duy tâm. Trước những thành tựu


10

10


mới của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy tâm triệt để lợi dụng chống phá chủ
nghĩa duy vật, chống phá chủ nghĩa Mác. Chúng rêu rao rằng: như vậy là vật
chất đã tiêu tan , đã biến mất; mà vật chất đã không còn tồn tại nữa thì đương
nhiên chủ nghĩa duy vật cũng bị bác bỏ. Cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực vật
lý học xuất hiện.
Đứng trước bối cảnh phức tạp ấy, Lênin đã phân tích một cách sâu sắc
tình hình và người chỉ ra rằng: những phát minh có giá trị to lớn của vật lý
học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa duy vật; về thực chất của cuộc khủng
hoảng này đó chính là do giới hạn nhận thức của con người đã bị vượt qua.
Lênin cũng cho rằng, nhiệm vụ của triết học duy vật biện chứng lúc này là
phải tiếp tục khái quát hoá về mặt triết học tất cả những thành tựu mới nhất
của khoa học tự nhiên. Và chính Người đã trực tiếp đứng ra để làm cái công
việc khái quát hoá về mặt triết học ấy; bằng cách phê phán những qua điểm
duy tâm, siêu hình về vật chất, khái quát những thành tựu mới của khoa học
tự nhiên, kế thừa những quan niệm của Mác - Ăngghen về vật chất và đưa ra
một định nghĩa hoàn chỉnh, mang tính kinh điển về phạm trù vật chất.
Trước tiên, Lênin tập trung phê phán Makhơ, vạch ra tính chất duy
tâm, bảo thủ trong cái gọi là “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, chủ nghĩa
Makhơ. Để thực hiện nhiệm vụ này, Lênin đã làm việc một cách nghiêm túc
và khoa học, Lênin đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu, cả về mặt triết học và
khoa học tự nhiên, đặc biệt là các tài liệu về vật lý học. Lênin đã bỏ thời gian
để nghiên cứu lại những tác phẩm quan trọng của Mác - Ăngghen và cả
những triết gia khác như Plêkhanốp, Mêrinh, Đít xơgen…Sau khi nghiên cứu
một cách kỹ càng, nghiêm túc và khoa học, Lênin đã tiến hành phê phán một
cách toàn diện và triệt để mọi mưu toan đòi xét lại chủ nghĩa Mác, bóp méo,
xuyên tạc tráng trợn những nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác nói chung,
triết học Mác nói riêng. Để đập lại luận điểm của Makhơ và bọn theo đóm ăn


11


11

tàn, ăn theo của chủ nghĩa Makhơ, Lênin đã chỉ rõ, thứ triết học ấy, về thực
chất chỉ là một thứ chủ nghĩa duy tâm cũ rích được núp dưới một chiêu bài
mới, kỳ quặc và khó hiểu. Chủ nghĩa Makhơ, chẳng qua chỉ là sự phục hồi lại,
sự nhai lại, sự tô vẽ thêm cho cái thứ triết học duy tâm chủ quan ngu dân của
Béccli và Hiun mà thôi.
Nếu như Béccli gọi cái sự vật là sự tổng hợp, “những phức hợp của
cảm giác”, thì Makhơ lại đưa ra học thuyết về “các yếu tố của thế giới”, gọi
sự vật là “tổ hợp của các yếu tố”.Nhưng thực ra thì, cái mà Makhơ gọi là
“Yếu tố ấy”, về thực chất cũng chỉ là kinh nghiệm, là cảm giác mà thôi. Theo
quan niệm của Makhơ, nhận thức của con người không xuất phát từ sự tồn tại
khách quan của sự vật mà lại xuất phát từ những “tài kiệu trực tiếp”, từ những
cảm giác của con người về âm thanh, màu sắc, mùi vị…Để tránh cái từ “cảm
giác”, Makhơ gọi những cái đó là “những yếu tố của những kinh nghiệm
chúng ta” và đó chính là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên toàn bộ thế
giới vật lý và tâm lý. Makhơ cho rằng cái thuật ngữ mà mình mới phát hiện
này đã khắc phục được cuộc tranh cãi bấy lâu giữa các nhà duy vật và duy
tâm. Theo Makhơ, các “Yếu tố” của ông đưa ra, nó không phải là vật chất
cũng chẳng phải là tinh thần, không phải là tâm lý mà cũng không phải là vật
lý. Nó là “cái trung gian” giữa những yếu tố, những vấn đề đó.
Tuy nhiên, học thuyết về các “Yếu tố” lại được nhiều nhà tư tưởng, nhà
triết học ở Nga lúc đó ủng hộ nhiệt thành. Họ cho rằng, đó là một phát minh
vĩ đại, là cơ sở để thống nhất giữa chủ nghĩa Makhơ với chủ nghĩa Mác.
Phê phán nhưng quan điểm sai lầm đó, Lênin cho rằng chủ nghĩa
Makhơ muốn xoá nhoà tính đảng trong triết học Mác, muốn đứng trên cả chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng đáng tiếc, về thực chất nó chỉ
nhắc lại một cách giản đơn những quan niệm cũ của Béccli , Hiun mà thôi.
Cái mà Makhơ cho là thuật ngữ mới, chẳng qua chỉ là sự lợi dụng những



12

12

thành tựu mới của khoa học tự nhiên nhằm che đậy chủ nghĩa duy tâm. Sai
lầm chủ yếu của Makhơ và những người theo chủ nghĩa Makhơ chính là lý
thuyết về “Yếu tố trung gian”. Lênin khẳng định: “Thật là trẻ con nếu nghĩ
rằng bịa ra một từ mới, là có thể tránh được những trào lưu triết học cơ bản,
…triết học của các ngài chỉ là chủ nghĩa duy tâm đã uổng công che đậy sự
trần trụi của chủ nghĩa duy ngã của mình bằng một thuật ngữ “khách quan”
hơn. Hoặc giả “Yếu tố” không phải là cảm giác, và như vậy từ “mới” của
các ngài tuyệt đối không có một chút ý nghĩa gì cả, và các chỉ làm ồn lên vô
ích mà thôi”3.
Hơn nữa, nếu Makhơ cho rằng sự vật, hiện tượng chỉ là những “phức
hợp cảm giác” thì, Lênin cho rằng, dù muốn hay không, nó cũng tất yếu dẫn
đến một quan niệm hết sức phi lý là: thế giới, giới tự nhiên và cả con người
chỉ tồn tại trong những cảm giác của con người, trong cảm giác của bản thân
nhà triết học. Rằng toàn bộ lý luận của Makhơ và những người theo chủ nghĩa
Makhơ - cái lý luận coi “vật thể là những phức hợp cảm giác” hay là một
“phức hợp yếu tố, trong đó cái tâm lý đồng nhất với cái vật lý”…, chẳng qua
chỉ là “một chủ nghĩa ngu dân triết học” - chủ nghĩa duy tâm chủ quan
“được phát triển đến chỗ vô lý”4.
Những người theo chủ nghĩa Makhơ muốn che đậy chủ nghĩa duy tâm
của mình bằng cách coi là những người theo “chủ nghĩa thực tại ngây thơ”.
Nhưng theo Lênin: “Thuyết “thực tại ngây thơ” của bất cứ một người lành
mạnh nào, không qua nhà thương điên hay không qua trường đại học của
những nhà triết học duy tâm, là ở chỗ thừa nhận sự tồn tại của vật, của hoàn
cảnh, của thế giới không phụ thuộc vào cảm giác của chúng ta, vào ý thức

của chúng ta, vào cái tôi của chúng ta và vào con người nói chung”5.
3 Sđd, tập 18, tr. 56.
4 Sđd, tập 18, tr. 85.
5 Sđd, tập 18, tr. 74.


13

13

Lênin đặt ra cho những người theo chủ nghĩa Makhơ một câu hỏi mà
họ không thể trả lời được, đó là: vậy “con người có suy nghĩ bằng óc
không?”. Cái thứ triết học cho rằng “óc của chúng ta không phải là nơi ở, là
trụ sở của tư duy” hay “tư duy không phải người cư trú trong óc”, không phải
là “chủ nhân của óc”, không phải là “một sản phẩm”, “một chức năng sinh lý”
của óc, thì theo như Lênin đã khẳng định, nó chẳng qua chỉ là thứ triết học
duy tâm chủ nghĩa. Nó hoàn toàn trái ngược với khoa học tự nhiên - khoa học
vốn coi “tư tưởng là một chức năng của óc, rằng cảm giác, tức là hình ảnh của
thế giới bên ngoài, tồn tại trong chúng ta, do tác động của vật vào các giác
quan của chúng ta gây nên”. Nó chẳng qua cũng chỉ là thứ triết học “kinh
viện thuần tuý và tối mù”, thứ triết học “không có óc”, mâu thuẫn với khoa
học tự nhiên hiện đại và thực tiễn hàng ngày”6.
Vạch trần sự thoả hiệp, đầu hàng của những người theo phái Makhơ ở
Nga là muốn điều hoà học thuyết Makhơ với chủ nghĩa Mác, Lênin cho rằng:
“Các mưu toan đủ loại của họ để phát triển và bổ sung chủ nghĩa Mác đều
dựa trên những phương pháp cực kỳ ngây thơ”7. Lênin viết tiếp: “Dựa vào
tất cả những học thuyết dường như là tối tân đó, những kẻ phá hoại chủ
nghĩa duy vật biện chứng ở nước ta đã không chút ngại ngùng đi đến chỗ
thừa nhận ngay thuyết tín ngưỡng…nhưng khi cần phải tỏ rõ thái độ của họ
đối với Mác và Ăngghen thì họ lại mất hết cả dũng khí, mất hết cả sự tôn

trọng đối với niềm tin của bản thân họ. Trên thực tế, như thế là hoàn toan rời
bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng, tức chủ nghĩa Mác”8.
Cùng với việc phê phán, đấu tranh chống chủ nghĩa Makhơ và những
trào lưu triết học đi theo khuynh hướng này ở Nga, Lênin đã kế thừa sâu sắc
những quan điểm của Mác - Ăngghen về vật chất. Người cho rằng, do điều
6 Sđd, tập 18, tr. 96- 105.
7 Sđd, tập 18, tr. 424 - 425.
8 Sđd, tập 18, tr. 10.


14

14

kiện của lịch sử lúc bấy giờ chưa cấp thiết cho nên Mác - Ăngghen chưa đưa
ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất, nhưng hai ông đã chỉ ra
những vấn đề cơ bản của phạm trù này. Những vấn đề đó chính là cơ sở, nền
tảng để Lênin tiếp cận, bổ sung, phát triển sáng tạo nhằm đưa ra một định
nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất.
Những nội dung chủ yếu về phạm trù vật chất mà mác và Ăngghen đã
chỉ ra đó là:
Thứ nhất, không được đồng nhất phạm trù vật chất với các phạm trù
của các khoa học cụ thể hoặc với những dạng vật thể cụ thể như các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại và các nhà triết học trước đó đã làm. Phạm trù vật chất là
phạm trù rộng nhất, bao quát nhất, các phạm trù của các khoa học cụ thể chỉ
bao quát trong lĩnh vực cụ thể của mình mà thôi. Giữa vật chất với tư cách là
phạm trù triết học với các vật thể cụ thể của nó vừa có sự thống nhất, vừa có
sự khác biệt. Chúng ta sẽ không thể hiểu được vật chất nếu như không thông
qua những vật thể cụ thể của nó. Cũng như chúng ta có thể ăn được trái mơ,
trái mận, trái đào chứ không thể ăn được trái cây nói chung. Tuy nhiên, nếu

đem quy vật chất vào một dạng vật thể cụ thể nào đó như các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại đã làm thì lại là hết sức sai lầm và phiến diện.
Thứ hai, theo Mác - Ăngghen, phạm trù vật chất và phạm trù ý thức có
sự khác nhau về cơ bản. Đặc tính chung để phân biệt giữa phạm trù vật chất
với phạm trù ý thức đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức. Mác
- Ăngghen cho rằng: vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, nhưng
tinh thần là sản phẩm cao nhất của vật chất.
Thứ ba, Mác - Ăngghen cũng chỉ ra rằng: thế giới thống nhất ở tính vật
chất, vật chất tồn tại thông qua vô số các dạng vật thể cụ thể của nó và con
người có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nhận thức các dạng vật


15

15

thể cụ thể của nó bằng các hình thức phản ánh khác nhau như trực tiếp, gián
tiếp, cảm giác và tư duy trừu tượng.
Khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, đặc biệt là
của vật lý học đầu thế kỷ XX, kế thừa và phát triển sáng tạo quan niệm của
Mác và Ăngghen về phạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa mang tính
kinh điển về vật chất. Người viết: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”9. Như vậy, với việc đưa ra định nghĩa này, chúng ta thấy Lênin
đã lần đầu tiên đưa ra một phương pháp định nghĩa hết sức khoa học, đó là
định nghĩa vật chất thông qua phạm trù đối lập với nó. Để chống lại đòi hỏi
vô lý của nhưng người theo chủ nghĩa Makhơ đối với chủ nghĩa duy vật biện
chứng: phải đưa ra một định nghĩa về vật chất mà không được nhắc lại rằng
vật chất, giới tự nhiên, tồn tại là cái có trước, còn tinh thần, ý thức, cảm giác

là cái có sau. Lênin khẳng định: “đó là những khái niệm rộng đến cùng cực,
rộng nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt quá được”
và do đó, “chỉ có bịp bợm hay ngu xuẩn đến cực độ mới có thể đòi hỏi cho
hai “loạt” khái niệm rộng đến cùng cực đó, một “định nghĩa” nào khác,
ngoài “sự lặp lại giản đơn”: cái này hay cái kia phải được coi là có trước” 10.
Rõ rằng là, với phạm trù rộng nhất, rộng đến cùng cực như phạm trù vật chất,
thì không thể sử dụng phương pháp định nghĩa thông thường - cái phương
pháp quy phạm trù cần định nghĩa vào một phạm trù khác rộng hơn, rồi chỉ ra
những dấu hiệu riêng, bản chất của nó - được. Người ta không thể quy vật
chất vào một phạm trù rộng hơn nó nữa. Vì vậy, chỉ có thể định nghĩa vật chất
bằng cách đối lập nó với ý thức, xác định nó “là cái mà khi tác động lên cảm
giác của chúng ta thì gây ra cảm giác. Lênin khẳng định, vật chất không có
9 Sđd, tập 18, tr. 151.
10 Sđd, tập 18, tr. 172.


16

16

nghĩa gì khác hơn là “thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con
người và được ý thức con người phản ánh”11.
Vật chất, theo Lênin, là một phạm trù triết học. Chúng ta phải nhận
thức nó đúng như vai trò và vị trí của nó, có như vậy chúng ta mới không
nhầm lẫn giữa vật chất với các dạng vật thể cụ thể của nó, không rơi vào quan
điểm trực quan, siêu hình, máy móc. Đặc biệt, định nghĩa vật chất của Lênin
ra đời, đã lần đầu tiên chỉ ra đặc tính cơ bản của vật chất, đó là “thực tại
khách quan”, tồn tại độc lập bên ngoài ý thức. Theo Lênin, đây là đặc tính
chung nhất, cơ bản nhất của vật chất và đây cũng chính là tiêu chí để phân
biệt đâu là vật chất đâu là ý thức một cách chính xác nhất, rõ ràng nhất. Tất cả

những gì mà cứ tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, không phụ thuộc vào ý
thức của con người, có thể nhận biết được thông qua các giác quan của con
người, thì đều thuộc phạm trù vật chất.
Khách quan, theo Lênin, đó là “cái đang tồn tại độc lập với loài người
và với cảm giác của con người”12. Trong đời sống xã hội thì “khách quan
không phải theo ý nghĩa là một xã hội những sinh vật có ý thức, những con
người, có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những
sinh vật có ý thức…., mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ
thuộc vào ý thức xã hội của con người”13.
Để bảo vệ quan điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề cơ bản của triết
trước những mưu toan muốn phủ nhận sự đối lập vừa có tính tuyết đối, vừa
mang tính tương đối của chủ nghĩa Makhơ và các nhà triết học tư sản hiện
đại, Lênin chỉ rõ: “sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn
trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là
11 Sđd, tập 18, tr. 322.
12 Sđd, tập 18, tr. 374.
13 Sđd, tập 18, tr. 403.


17

17

cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập
đó là tương đối”14. Như vậy, với quan điểm này của Lênin, chúng ta thấy một
vấn đề rõ ràng là, trong lĩnh vực nhận thức luận, chúng ta phải khẳng định
chắc chắn rằng, giữa vật chất và ý thức thì vật chất là có trước, là tính một, là
cái sinh ra và quy định ý thức; ý thức có sau, tính hai, là cái bị sinh ra và bị
quy định bởi vật chất.

Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng, thế giới vật chất đã có, đã tồn
tại khách quan trước đây hàng tỷ năm, trong khi đó con người và ý thức của
con người mới chỉ xuất hiện cách đây khoảng vài triệu năm. Mọi mưu toan
của chủ nghĩa duy tâm muốn cho rằng ý thức có trước, sinh ra vật chất, dù có
che đậy dưới bất kỳ một hình thức nào, cũng đều bị khoa học hiện đại bác bỏ.
Tuy nhiên, ngoài lĩnh vực nhận thức luận ra, thì sự đối lập giữa vật chất và ý
thức lại chỉ là tương đối. Bởi vì, như chúng ta đã biết, ý thức chỉ có thể được
sinh ra ở một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao, đó là bộ óc con người,
trong quá trình con người nhận thức (bằng hình thức phản ánh) và cải tạo thế
giới xung quanh. Mặc dù do vật chất sinh ra và bị quy định như vậy, song đến
lượt mình, ý thức lại không hoàn toàn thụ động, mà có tác động to lớn trở lại
đối với vật chất, cải tạo thế giới vật chất để phục vụ cho nhu cầu vật chất, tinh
thần ngày càng cao của con người. Sở dĩ nó có vai trò tác động to lớn trở lại
như vậy, bởi vì ý thức là ý thức của con người, con người sống và hoạt động.
Bản năng sinh tồn của con người đã mách bảo họ trong quá trình phản ánh thế
giới xung quanh phải hết sức năng động, sáng tạo và chủ động. Hơn nữa, như
chúng ta đã biết, nếu như tư duy, suy nghĩ của chúng ta vẫn còn nằm ở trong
đầu óc, chưa biểu hiện ra ngoài thì nó thuần tuý là ý thức, nhưng khi nó đã
được biểu hiện ra ngoài thành những hành động, cử chỉ cụ thể thì nó lại không
còn là ý thức nữa…
14 Sđd, tập 18, tr. 173.


18

18

Với những gì đã trình bày ở trên, chúng ta thấy định nghĩa vật chất
của Lênin có một ý nghĩa hết sức quan trọng, cả về lịch sử và hiện thực.
Về lịch sử, việc đưa ra định nghĩa về vật chất của Lênin đã giải quyết

triệt để cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa
duy vật biện chứng, đấu tranh bảo vệ và phát triển sáng tạo quan điểm của
Mác và Ăngghen về lĩnh vực này. Bên cạnh việc khẳng định vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức; Lênin bằng việc đưa ra quan
điểm: thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh một cách năng động, sáng
tạo. Lênin cũng khẳng định, không có cái gì mà con người không thể biết, mà
chỉ có cái con người chưa biết mà thôi. Quan điểm này của Lênin có ý nghĩa
hết sức lớn lao, không phải mang tính lịch sử mà nó còn có cả ý nghĩa hiện
thực. Nó mở ra cho con người một khả năng to lớn trong việc phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức con người tiếp tục đi sâu khám phá bản chất
của thế giới, cải tạo nó, để phục vụ cho chính bản thân con người và xã hội
loài người.
Định nghĩa vật chất của Lênin ra đời đã kịp thời khắc phục cuộc khủng
hoảng trong lĩnh vực vật lý học, mở đường cho vật lý học và khoa học tự
nhiên phát triển. Như Lênin đã khẳng định: “Thực chất của cuộc khủng
hoảng của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những
nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là
sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả
tri”15. Đồng thời, Lênin vạch ra con đường để thoát khỏi cuộc khủng hoảng,
đó là các nhà khoa học cần phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, có như vậy họ mới có thể hiểu một cách đúng đắn những phát
minh mới của khoa học. Định nghĩa vật chất ra đời đã kịp thời đập tan những
15 Sđd, tập 18, tr. 318.


19

19


luận điệu phản động, phản khoa học khi cho rằng “vật chất tiêu tan”, “vật chất
biến mất”. Lênin khẳng định: “Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự
nhiên là vô tận, nhưng nó tồn tại một cách vô tận; và chỉ có thừa nhận một
cách tuyệt đối, vô điều kiện như vậy sự tồn tại của tự nhiên ở ngoài ý thức và
cảm giác của con người, thì mới phân biệt được chủ nghĩa duy vật biện
chứng với thuyết bất khả tri tương đối luận và chủ nghĩa duy tâm”16.
Gần đây vào năm 1995, theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học
Châu Âu đã tiến hành nghiệm và tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản
vật thể đầu tiên. Với sự tìm thấy phản nguyên tử đầu tiên, loài người đã có
thêm một cơ sở khoa học tin cậy để khẳng định giá trị to lớn của định nghĩa
vật chất. Thực nghiệm khoa học đã chứng minh rằng, phản nguyên tử cũng là
thực tại khách quan, nhờ sự trợ giúp của các phương tiện khoa học hiện đại,
con người càng nhận thức được một cách sâu sắc hơn những kết cấu phức tạp
của thế giới vật chất.
Đặc biệt, định nghĩa vật chất của Lênin giúp cho các nhà khoa học có
cơ sở lý luận để luận giải, giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các
biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức
sản xuất xã hội; trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra những phương án tối ưu
trong hoạt động nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, phạm trù vật chất của Lênin đã ra đời được 100 năm, nhưng
cho đến nay, mặc dù khoa học đã phát triển rất nhanh chóng, gặt hái được
nhiều thành tựu, song những tư tưởng của Lênin vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Nghiên cứu tư tưởng của Lênin về vật chất nói riêng, nghiên cứu tác phẩm
“Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” giúp chúng ta có cơ
sở khoa học và phương đấu tranh, phê phán, bảo vệ tính cách mạng, khoa học
đồng thời tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện
16 Sđd, tập 18, tr. 323 - 324.


20


20

hoàn cảnh mới. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay, nó đòi hỏi
mỗi người mácxít chân chính phải không ngừng kiên trì tính đảng, đứng vững
lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tôn trọng khách quan, hành
động theo quy luật khách quan, đồng thời tích cực phát huy tính năng động,
sáng tạo của bản thân nhằm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.



×