Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học tìm HIỂU về lý LUẬN NHẬN THỨC TRONG tác PHẨM CHỦ NGHĨA DUY vật và CNKNPP, ý NGHĨA đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.26 KB, 26 trang )

TÌM HIỂU VỀ LÝ LUẬN NHẬN THỨC TRONG TÁC PHẨM
“CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN”
Ý NGHĨA THỰC TIỄN ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

V.I Lênin viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” trong khoảng thời gian từ tháng Hai- tháng Mười năm 1908 và được in
thành sách riêng vào tháng Năm 1909. Đây là một trong những tác phẩm triết
học chủ yếu của V.I Lênin, được viết dưới ngòi bút luận chiến, nó có vai trị to
lớn là cơ sở lý luận cho một đảng chính trị kiểu mới, đồng thời góp phần bảo vệ
và phát triển triết học Mác lên một tầm cao mới phù hợp với điều kiện nước Nga
lúc bấy giờ và nó cịn có giá trị đến hôm nay cung cấp luận cứ khoa học, vũ khí
sắc bén cho giai cấp cơng nhân.
1. Hồn cảnh ra đời , kết cấu của tác phẩm
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
V.I Lênin viết tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” trong hoàn cảnh nước Nga sau thất bại của cuộc cách mạng dân chủ tư sản
(1905-1907). Trước tình trạng thối trào của cách mạng, nước Nga bị đặt dưới
quyền thống trị hà khắc của chế độ quân chủ chuyên chế Nga Hoàng, đời sống nhân
dân vô cùng cực khổ. Nguy hại hơn, sự thất bại của cuộc cách mạng 1905 không
những đem lại sức mạnh cho cuộc tấn công trực diện của bọn phản động vào triết
học Mác, mà còn làm cho bộ phận tham mưu của giai cấp công nhân Nga bị phân
hóa sâu sắc, trong hàng ngũ những người Bơnxêvích nảy sinh tư tưởng dao động,
mất tinh thần, chạy dài, từ bỏ lập trường, họ dựa vào chủ nghĩa Makhơ để chống
lại chủ nghĩa Mác, đòi xét lại các nguyên tắc sách lược của Đảng trong đấu tranh
chính trị và mưu toan dùng chủ nghĩa duy tâm chủ quan của chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán do Makhơ sáng lập để thay thế triết học Mác. Đây cũng là thời kỳ mà V.I


Lênin nhận xét “chủ nghĩa duy vật đâu đâu cũng bị ruồng bỏ” và các thế lực thù
địch đủ loại “ liên minh với nhau vì cùng thù ghét chủ nghĩa duy vật biện
chứng”1…. Trong triết học, một số ngả theo chủ nghĩa duy tâm, thần bí, xuất hiện


trào lưu “tìm thần” và “tạo thần” trong giới tri thức.
Trong những năm cuối cùng của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước sự phát
triển của khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lý học phát triển như vũ bảo. V.I
Lênin gọi sự kiện này là “cuộc cách mạng vật lý học”. Hàng loạt các phát minh
mang tính “vạch thời đại” ra đời như: Rơnghen phát hiện ra tia X (1895) phát
minh này nó có ý nghĩa cho việc mở đầu cho cuộc cách mạng đi vào nghiên cứu
thế giới vi mơ; béccơli phát hiện ra hiện tượng phóng xạ (1896) chứng minh
nguyên tử không phải phần tư nhỏ nhất, mà nó có thể phân chia, phân rã, chứ
khơng phải tồn tại bất biến; Tômxơn phát hiện ra điện tử (1897) phát minh này
càng chứng minh nguyên tử có thật, nhưng không phải là nhỏ nhất, người ta thấy
rằng khối lượng của nó có thể biến đổi tùy theo tốc độ; Năm 1898 tìm ra chất
phóng xạ mạnh ra-đi-um…đến năm 1905 Anhxtanh phát minh ra thuyết tương
đối, điều này khẳng định không gian và thời gian không phải là bất biến. Chính
những phát minh khoa học đã dẫn đến “cuộc khủng hoảng vật lý”. Đặc biệt là
việc phát hiện ra điện tử và cấu tạo nguyên tử. Do không nắm vững lý luận nhận
thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhiều nhà khoa học đã rơi vào chủ nghĩa
duy tâm. Nhân cơ hội này, những người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng tình
hình đó chống lại triết học duy vật, làm đảo lộn căn bản những quan niệm về thế
giới và cấu tạo thế giới làm cho một số nhà duy vật chuyển sang duy tâm.
Đồng thời, ở nước Nga sau thất bại của cuộc cách mạng (1905 – 1907)
những trào lưu tư tưởng phản động ra đời như: nhà vật lý học người áo
MaKhơ theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan một trong những người theo chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán; nhà triết học người Đức R.Avênariút theo
1

1

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 9



chủ nghĩa duy tâm chủ quan, đã trình bày những luận điểm cơ bản của chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán. Họ viễn cớ “Bảo vệ chủ nghĩa Mác”, nhưng
thực chất là đã xuyên tạc triết học Mácxít. Chúng lớn tiếng ca ngợi thế giới
quan duy tâm thần bí và cố gắng phục hồi tôn giáo nhằm biện hộ về phương
diện tư tưởng cho các thế lực phản cách mạng và sử dụng các giáo lý tôn
giáo để làm cho giai cấp vô sản xa rời đấu tranh cách mạng. Những quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm hay chủ nghĩa duy vật siêu hình lúc này vẫn
khơng thể giải thích được những biến đổi mạnh mẽ của thực tiễn. Một đòi
hỏi cấp bách phải có sự khái quát thành tựu khoa học tự nhiên, đúc kết
thành lý luận để chỉ đạo phong trào cơng nhân.
Trước địi hỏi ấy, Lênin đã đấu tranh kiên quyết chống lại mọi trào lưu
triết học phản Mácxít, bảo vệ và phát triển triết học Mác. Tháng Hai Năm 1908
Người bắt tay vào viết tác phẩm triết học nổi tiếng: “Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Đây là tác phẩm kinh điểm của Lênin trong giai
đoạn phát triển triết học Mác.
1.2. Kết cấu của tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán”.
Tác phẩm tính đến xuất bản lần thứ nhất (5 -1909), gồm lời tựa, phần
Thay lời mở đầu và phần Kết luận, tác phẩm gồm 6 chương với 39 mục.
Chương 1: Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chương này Lênin tập trung phê phán những
nguyên lý triết học của phái Makhơ cho rằng, cảm giác (hay cái gọi là “yếu tố”)
là cái có trước, rằng các quan niệm của họ là hoàn toàn mâu thuẫn với những kết
luận được kiểm chứng trong lịch sử khoa học tự nhiên, và phát triển thêm một
bước tư tưởng của Ăngghen về vật chất.


Chương 2: Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chương này V.I Lênin phân tích thực chất nhị
nguyên trong quan niệm của Cantơ đối “vật tự nó” qua đó đi đến kết luận:

Makhơ và môn phái đã bắt đầu từ triết học của Cantơ, nhưng đã không tiến lên
theo hướng duy vật mà đi lùi lại về phái bất khả tri của G.Beccơli và D.Hium.
đồng thời ông đưa ra những kết luận làm nền tảng cho lý luận nhận thức duy vật
và đưa ra định nghĩa vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chương 3: Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và
chủ nghĩa duy vật biện chứng. V.I Lênin phê phán tính chất duy tâm chủ quan
của phái Makhơ xung quanh vấn đề vật chất, các mối liên hệ và các hình thức
tồn tại của nó. Qua đó Lênin làm rõ một số phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy
vật biện chứng như vấn đề vật chất, định nghĩa vật chất, không gian, thời gian,
mối quan hệ nhân quả, tự do và tất yếu…
Chương 4: Những nhà triết học duy tâm, bạn chiến đấu và kẻ kế thừa của
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Đồng thời đưa ra quan điểm có tính ngun tắc
của chủ nghĩa duy vật, rằng tự nhiên tồn tại trước con người và ý thức là đặc
trưng của óc người.
Chương 5: Cuộc cách mạng mới nhất trong khoa học tự nhiên và chủ
nghĩa duy tâm triết học. Lênin phân tích thực chất và vai trị của cuộc cách
mạng trong lĩnh vực khoa học tự nhiên; vạch ra nguyên nhân của cuộc “khủng
hoảng vật lý”, từ đó vạch ra lối thốt cho cuộc khủng hoảng này. Trên cơ sở đó
V.I Lênin làm giàu thêm lý luận nhận thức Mác xít về chân lý khách quan, về
tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý, về mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn.
Chương 6: Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Lênin phê phán chủ nghĩa duy tâm của Makhơ, qua đó phát triển quan điểm


của Mác và Ăngghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lênin nêu lên tính đảng
trong triết học và phê phán các triết gia tư sản muốn đứng “lên trên” các đảng
phái trong triết học.
Kết luận: Lênin đã phê phán tính chất sai lầm, phản tiến bộ của chủ nghĩa
Makhơ, chỉ ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa Makhơ và chủ nghĩa duy tâm trong

khoa học tự nhiên. Ở phần kết luận, với mấy dịng cơ đọng, Ơng nêu ra bốn chỉ
dẫn quan trọng trong việc đánh giá chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
2. Nội dung thu hoạch, làm rõ lý luận nhận thức trong tác chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
Tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” là
một trong những tác phẩm lớn nghiên cứu nhiều nội dung của triết học như:
V.I.Lênin giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật Mácxít;
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng; phát triển xuất sắc lý luận
nhận thức của triết học Mác, phát triển những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Với phạm vi bài viết, tác giả muốn làm rõ nội dung cơ bản về lý
luận nhận thức trong tác phẩm này.
2.1. Phát triển lý luận nhận thức, xây dựng học thuyết phản ánh
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề của lý luận nhận thức, và do đó, hầu
hết tiêu đề của các chương trong tác phẩm này, Ông đều bắt đầu dùng cụm từ
“lý luận nhận thức”. Điều đó một phần là vì thời đại mới, bức tranh vật lý mới
về thế giới đang địi hỏi phải có những bước chuyển biến mới, căn bản về lý
luận nhận thức, phần khác là do V.I.Lênin muốn vạch trần bọn theo chủ nghĩa
Makhơ “Giả mạo chủ nghĩa Mác một cách ngày càng tinh về dùng các học
thuyết phản duy vật để giả làm chủ nghĩa Mác một cách ngày càng tinh vi, đó


là đặc điểm của chủ nghĩa xét lại hiện đại trong kinh tế chính trị học cũng như
trong vấn đề sách lược và triết học nói chung, trong nhận thức luận cũng như
trong xã hội học”2.
V.I.Lênin chỉ trích những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là
đã xuyên tạc quan điểm của Ph.Ăngghen, đem đối lập nó với quan điểm của
C.Mác. Chúng ta có thể thấy điều này hiện nay ở một số nhà triết học phương
Tây hiện đại và những đại diện của chủ nghĩa xét lại, coi việc xuyên tạc chủ
nghĩa Mác là thứ “mốt” phổ biến.

V.I.Lênin phê phán quyết liệt thuyết bất khả tri và phân tích tính phản
động của chủ nghĩa Makhơ
Theo Makhơ, nếu vật thể là những “phức hợp cảm giác”, hay Béccơli, vật
thể là những “tổ hợp cảm giác” thì tất nhiên là sẽ đi đến kết luận rằng toàn bộ thế
giới chẳng qua chỉ là biểu tưởng của tôi mà thôi. Theo Béccơli đã từng cho rằng
vật chất là một tưởng trưng trừu tượng trần trọi. Còn Makhơ cho rằng cảm giác
gắn liền với những quá trình nhất định phát sinh trong cơ thể. Từ đó V.I.Lênin
khẳng định chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa Makhơ khắc hẳn về chất khi nói đến
cảm giác: “Chủ nghĩa duy vật, hồn tồn nhất trí với khoa học tự nhiên, coi vật
chất là cái có trước, coi ý thức, tư duy, cảm giác là cái có sau, vì cảm giác, trong
hình thái rõ rệt của nó chỉ gắn liền với những hình thái cao của vật chất (vật chất
hữu cơ), và người ta chỉ có thể giả định là “trên nền móng của bản thân lâu đài
vật chất” có sự tồn tại của một năng lực giống như cảm giác”3.
V.I.Lênin khi đấu tranh và phân tích chủ nghĩa Makhơ chỉ ra rằng thứ chủ
nghĩa Makhơ đứng trên quan điểm đối lập duy tâm và lập tức dẫn đến chỗ vô lý,
ông coi cảm giác là cái có trước. Makhơ có tư tưởng này là do điểm xuất phát
của ông ta là chủ nghĩa duy tâm triết học. Và từ đó V.I.Lênin phân tích cảm giác
2
3

2
3

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 409
V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 43


là gì? q trình hình thành nó ra sao và ông viết: “Cảm giác quả thật là mối liên
hệ trực tiếp của ý thức với thế giới bên ngoài, là sự chuyển hóa năng lượng của
sự kích thích bên ngồi thành một sự kiện tuộc về ý thức. Sự chuyển hóa đó,

mỗi người đều và đang thực tế quan sát được hàng triệu lần ở khắp nơi” 4 qua đó
V.I Lênin làm rõ lối ngụy biện của chủ nghĩa duy tâm theo học thuyết bất khả tri
coi cảm giác là một tấm vách, một bức tường ngăn cách ý thức với thế giới bên
ngoài “Lối ngụy biện của triết học duy tâm là ở chỗ không coi cảm giác là mối
liên hệ của ý thức với thế giới bên ngoài, mà lại coi đó là một tấm vách, một bức
tường ngăn cách ý thức với ngoại giới; khơng coi đó là hình ảnh của một hiện
tượng bên ngồi tương ứng với cảm giác, mà lại coi đó là cái “tồn tại duy
nhất””5.
Trong khi luận chứng đấu tranh với Piếc-xơn. ông này cũng tuyên bố là
nhất trí với Makhơ, cho rằng vật chất là hư vô, nhưng khi ông ta bàn về mối
quan hệ giữa óc và tư tưởng thì ơng ta lại tuyên bố quả quyết rằng: từ cái ý chí
và ý thức, gắn liền với một cơ chế vật chất mà khơng có nó thì chúng ta khơng
thể suy ra bất cứ một cái gì giống như ý chí và ý thức. Piếc-xơn đã đi đến một sự
lẫn lộn không thể tha thứ được! Vật chất chỉ là những nhóm tri giác cảm tính như
thế có nghĩa là cảm giác và tri giác đều là những cái có trước, cịn vật chất là cái
có sau: thơng qua lời chỉ trích của V.I.Lênin đối với Piếc-xơn ơng đã khẳng định:
“Khơng, khơng có vật chất và thậm chí hình như khơng có hệ thần kinh thì
khơng có ý thức! Nói một cách, ý thức và cảm giác là cái có sau”6.
Trong khi bàn khả năng nhận thức của con người về thế giới V.I. Lênin
chỉ ra trong lịch sử triết học nhiều nhà triết học không thừa nhận khả năng nhận
thức được thế giới Trong số đó tiền bối có 2 nhà triết học “tối tân” là Hium và
Cantơ, họ đưa ra học thuyết bất khả tri, tức là thừa nhận “vật tự nó” nhưng
4
54 5.V.I. Lênin , tịan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 51
66 V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 104


“khơng thể nhận thức được” nó. Nhưng V.I.Lênin lại phân tích khả năng nhận
thức của con người về “vật tự nó” cũng như các sự vật hiện tượng khác. Trong
lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khoa học, cần suy luận

một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất
di, bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết được nảy sinh ra từ
sự chưa hiểu biết, sự hiểu biết không đầy đủ và khơng chính xác trở thành đầy
đủ hơn và chính xác hơn. Từ đó V.I.Lênin đưa ra kết luận duy nhất và không
tránh khỏi mà mọi người rút ra trong đời sống thực tiễn, mà chủ nghĩa duy vật
lấy làm cơ sở cho nhận thức của mình một cách tự giác: “Có những đối tượng,
vật, vật thể tồn tại ở ngồi chúng ta, không lệ thuộc vào chúng ta; và cái cảm
giác của chúng ta đều là những hình ảnh của thế giới bên ngồi” 7.
Thơng qua việc phê phán thuyết bất khả tri và phân tích chủ nghĩa
Makhơ bằng những kết luận mang tính chất nhận thức luận quan trọng sau
đây:
1. “Có những vật tồn tại độc lập đối với ý thức chúng ta, độc lập đối với
cảm giác của chúng ta…”
2.“Dứt khốt là khơng có và khơng thể có bất kỳ sự khác nhau nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã nhận
thức và cái chưa được nhận thức”
3.“Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa
học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của
chúng ta là bất di, bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết được nảy
sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết khơng đầy đủ và khơng chính
xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào”8. Như vậy, chỉ bằng ba kết
luận trên về lý luận nhận thức, V.I Lênin đã chỉ ra: thứ nhất, xác định đối tượng,
7
8

7
8

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 118
V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 117



nguồn gốc và bản chất của nhận thức nhằm chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy
tâm về vấn đề nhận thức; thứ hai, khẳng định khả năng có thể nhận thức được thế
giới khách quan của con người, chống lại hoài nghi luận và thuyết bất khả tri; ba là,
chỉ ra tính chất biện chứng của q trình nhận thức, chống lại quan điểm siêu hình
về vấn đề nhận thức.
Khi tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và thuyết bất khả tri trong triết học duy tâm hiện đại, V.I.Lênin đã khẳng
định quan niệm của triết học về tính chất có thể nhận thức được thế giới và phát
triển thêm nhận thức luận duy vật biện chứng đó bằng học thuyết phản ánh. ông
khằng định: với tư cách là sản phẩm cao nhất của vật chất, là chức năng của bộ
óc, tư duy, ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngồi; rằng “cảm giác là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan”, nó bao hàm một nội dung khách quan. Và
chính cái nội dung khách quan đó trong cảm giác của chúng ta, trong ý thức của
chúng ta, không phụ thuộc vào con người, vào loài người là chân lý khách
quan. V.I.Lênin đã đưa ra học thuyết phản ánh-đó là tiên đốn về đặc tính phản
ánh của mọi vật chất. Lý thuyết này không những làm phong phú thêm quan
điểm nhận thức duy vật biện chứng, mà cịn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
sự phát triển của khoa học và kỹ thuật hiện đại. Thông qua lý luận phản ánh của
V.I.Lênin là cơ sở của nhận thức luận duy vật, nhằm xác lập quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất của ý thức.
Nội dung lý thuyết phản ánh được V.I.Lênin khái quát “Sự vật tồn tại ở
ngoài chúng ta. Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh của các sự vật
đó. Chúng ta dựa và thực tiễn mà kiểm tra các hình ảnh ấy và phân biệt hình ảnh
đúng với những hình ảnh sai”9. Thừa nhận thế giới khách quan tồn tại bên ngoài,
độc lập với ý thức, ý thức, tư tưởng chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của sự vật đó

9


9

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 126


là chủ nghĩa duy vật. Còn thế giới vật chất phụ thuộc vào tinh thần cảm giác là
duy tâm.
V.I.Lênin đã phát hiện ra thuộc tính phổ biến của vật chất là thuộc tính phản
ánh. Chính điều đó đã bác bỏ thuyết “vật hoạt nhân” cho rằng mọi sự vật đều có ý
thức. V.I.Lênin khẳng định: hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất
gần giống như cảm giác, đặc tính phản ánh. Trong q trình phát triển lâu dài của
thế giới vật chất, tương ứng với các hình thức vận động của vật chất, thì thuộc tính
phản ánh của vật chất cũng phát triển. Hệ thống vật chất càng phức tạp thì năng
lực phản ánh càng cao. Như vậy, không phải phản ánh của mọi vật chất đều sinh
ra ý thức mà chỉ có phản ánh của óc người mới có ý thức. Sự phản ánh đó khơng
lệ thuộc vào ý thức, V.I.Lênin viết: “Cái được phản ánh thì tồn tại khơng phụ
thuộc vào cái phản ánh (thế giới bên ngồi khơng phụ thuộc và ý thức), đó là tiền
đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật. Sự khẳng định của khoa học tự nhiên rằng quả
đất có trước khi có lồi người, là một chân lý khách quan”10.
2.2. Vấn đề chân lý và vai trò của thực tiễn trong tác phẩm chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiêm phê phán.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Makhơ và trong quá trình phát triển
triết học Mác, V.I.Lênin đã xuất phát từ nguyên lý về sự thống nhất phép biện
chứng và lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật. Ngay trong khi phân tích
quan điểm của Avênariút và Ma khơ về vấn đề nguồn gốc sản sinh ra tri thức của
chúng ta là cảm giác là tiền đề của lý luận vì nhận thức, họ khẳng định cảm giác
là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết của con người. Như vậy, họ thừa nhận tiền
đề thứ nhất ấy mà làm lu mờ tiền đề quan trọng thứ hai, tức là tiền đề cho rằng:
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, hay thực tại
khách quan là nguồn gốc của cảm giác của con người: xuất phát từ cảm giác,

người ta có thể đi theo con đường của chủ nghĩa chủ quan là chủ nghĩa dẫn đến
10

10

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 143


chủ nghĩa duy ngã, hoặc đi theo con đường của chủ nghĩa khách quan là chủ
nghĩa dẫn đến chủ nghĩa duy vật (cái cảm giác là những hình ảnh của các vật thể,
của thế giới bên ngoài). Như vậy, xét theo quan điểm thứ nhất, của chủ nghĩa
duy tâm chủ quan thì khơng thể có chân lý khách quan. Xét theo quan điểm thứ
hai, tức là quan điểm chủ nghĩa duy vật, thì chủ yếu là thừa nhận chân lý khách
quan. Thông qua phê phán phái duy ngã và thuyết bất khả tri của Hium và Cantơ
V.I.Lênin khẳng định thế giới tồn tại khách quan và từ đó chân lý cũng tồn tại
khách quan: “Đối với người duy vật, cảm giác của chúng ta là hình ảnh của thực
tại khách quan duy nhất và cuối cùng, -cuối cùng, không phải theo nghĩa là nó đã
được nhận thức triệt để rồi, mà theo nghĩa ngồi nó ra, khơng có và khơng thể có
một thực tại nào khác nữa”11.
Khi coi chân lý khách quan đó là một q trình phát triển phức tạp và
mâu thuẫn của tri thức, V.I.Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập, tính khách quan
trong nội dung của những tri thức đối với chủ thể nhận thức và khẳng định rằng
nhận thức của con người là quá trình phát triển của chân lý tương đối thành chân
lý tuyệt đối. Ông viết: “Theo bản chất của nó, tư duy của con người có thể cung
cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng
số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm
những hạt mới vào các tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn
chân lý của mọi định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu
hẹp lại, tùy theo sự tăng tiến của tri thức” 12. Với quan niệm đó, V.I.Lênin khẳng
định rằng đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng, “giữa chân lý tương đối và chân

lý tuyệt đối khơng có ranh giới, không thể vượt qua được”, rằng “những giới hạn
của sự nhận thức gần đúng của chúng ta so với chân lý khách quan, tuyệt đối,
đều là những giới hạn có điều kiện về mặt lịch sử, nhưng bản thân sự tồn tại của
11
12

11
12

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 150
V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 158


chân lý đó là vơ điều kiện, cũng như việc chúng ta đang tiến gần đó là vơ điều
kiện”13. Nói cách khác trong quan niệm của ông nhận thức của con người là một
q trình khơng ngừng, nó vận động và phát triển theo hướng đi lên, từ chỗ
không biết đến biết, từ những hiểu biết không đầy đủ và khơng chính xác đến
những hiểu biết đầy đủ và chính xác hơn, từ chân lý tương đối đến chân lý tuyệt
đối.
V.I.Lênin coi chân lý là những tri thức phù hợp với khách thể nghiên cứu
và được thực tiễn kiểm nghiệm, cịn q trình biện chứng của nhận thức chân lý
khách quan được biểu hiện trong mối quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý
tuyệt đối. Ông chỉ rõ chân lý tương đối là những tri thức phản ánh đúng hiện
thực khách quan, nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện. Tri thức đó cần được tiếp
tục bổ sung, hồn thiện trong những giai đoạn tiếp theo của nhận thức để nó
ngày càng sâu sắc thêm. Những tri thức hồn tồn đúng và đầy đủ về thế giới thì
đạt đến chân lý tuyệt đối. Mối quan hệ tác động giữa chân lý tương đối và chân
lý tuyệt đối mang tính chất biện chứng. Mỗi chân lý tương đối chứa trong mình
nó hạt nhân của chân lý tuyệt đối. Cho nên, chân lý tuyệt đối là tổng số những
chân lý tương đối đối. Mỗi chân lý tương đối là những nấc thang trên con đường

nhận thức chân lý tuyệt đối. Khi phân tích chân lý tuyệt đối V.I.Lênin viết:
“Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát
triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn
tại độc lập đối với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác
hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố
của chân lý tuyệt đối”14.
Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin, nhận thức của con người xét
trong một thời điểm lịch sử nhất định thì chỉ có thể thu nhận được những
13
14

13
14

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 159
V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 383


chân lý tương đối, nghĩa là con người chỉ có thể “mãi mãi tiến gần đến chân
lý tuyệt đối”. Bởi vì, mỗi chân lý đều được hình thành trong một thời điểm
nhất định với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Khi đó, mọi sự
vật hiện tượng trong thế giới khách quan luôn vận động biến đổi và phát
triển không ngừng. Một luận điểm, hay một mệnh đề có thể đúng hơm nay,
nhưng có thể khơng hồn tồn đúng, thậm chí có thể sai lầm ở ngày mai.
Đây cũng là lời cảnh báo đối với các nhà khoa học khi họ cứ khư khư bán
giữ lấy cái chân lý “cũ” về sự tuyệt đối của lý thuyết nguyên tử đã ra đời từ
25 thế kỷ trước đó.
Từ trình bày trên, rõ ràng, quan niệm của V.I Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối hoàn toàn đối lập với quan
niệm của chủ nghĩa tương đối. Những người theo chủ nghĩa tương đối thường

tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức, phủ nhận tính tương đối của chân lý.
Cho nên, xét về mặt phương pháp chủ nghĩa tương đối là siêu hình, khơng hiểu
được chân lý là một q trình cũng như “cố tình” khơng hiểu mối quan hệ giữa
chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. V.I.Lênin vạch rõ bản chất của chủ nghĩa
tương đối, ông viết: “Là cơ sở lý luận về nhận thức, chủ nghĩa tương đối khơng
những là sự thừa nhận tính tương đối của các hiểu biết của chúng ta, mà còn là
sự phủ định mọi tiêu chuẩn, mọi mẫu mực khách quan, tồn tại khơng phụ thuộc
vào lồi người, những tiêu chuẩn và mẫu mực mà nhận thức tương đối của chúng
ta ngày một tiến đến gần”15. (tr 160).
Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin thì chỉ có một chân lý - đó là chân
lý khách quan, khơng có chân lý chủ quan. Tính khách quan của chân lý là ở
chỗ: nội dung của nó do hiện thực khách quan quy định, không phủ thuộc vào ý
thức của chủ thể. Những người theo chủ nghĩa Makhơ đã cơng kích kịch liệt và
gạt bỏ khái niệm chân lý khách quan ra khỏi khoa học. Họ cho rằng chân lý
15

15

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 160


không liên quan đến thế giới khách quan mà chỉ liên quan đến tư duy, đến tri
thức mà thôi. Họ gắn chân lý với “tinh thần vũ trụ”, hoặc với “cảm nghĩ chủ
quan”. Theo V.I.Lênin, đó là một sai lầm không thể dung tha. Sở dĩ họ mắc phải
sai lầm đó là do họ thốt ly tính hiện thực khách quan, phản ánh phiến diện hoặc
xuyên tạc khách quan. Ông viết “khơng phải là một trừu tượng trống rỗng”, đó là
sự phản ánh xuyên tạc, bóp méo sự thật, là “sự thăng háo tất yếu” của cái hiện
thực khách quan khi đã bị “ thần thánh hóa”, tuyệt đối hóa.
Như vậy, nguyên lý về sự thống nhất giữa phép biện chứng duy vật và lý
luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được V.I Lênin mở rộng

phát triển sáng tạo trong việc giải quyết mối quan hư biện chứng giữa chân lý
khách quan, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, giữa chân lý và sai lầm.
Nguyên lý ấy về cơ bản đã được Ph.Ăngghen đưa ra. Song vấn đề là ở chỗ, toàn
bộ nguyên lý đã bị xuyên tạc bởi các quan điểm duy tâm chủ quan và chủ nghĩa
tương đối của những người theo phái Makhơ. Giờ đây, đem lại một quan niệm
thật sự khoa học về chân lý là rất cần thiết. Đúng như V.I Lênin đã nói: chân lý
là sự phản ánh đúng đắn đối tượng nghiên cứu vào ý thức của chúng ta phản ánh
hiện thực khách quan tiến gần sát đến sự gần đầy đủ và chính xác, nhưng khơng
bao giờ đạt được sự phù hợp tuyệt đối. Cách quan niệm của V.I.Lênin đã đem lại
cho chúng ta “chìa khóa” để mở ra sự nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan
và cải tạo nó vì lợi ích của con người và xã hội loài người.
Thừa nhận rằng nhận thức là phản ánh thế giới khách quan nhưng nếu
không thấy được vai trị của thực tiễn trong nhận thức thì những nhà duy
vật chưa vượt khỏi chủ nghĩa duy vật trước Mác, kể cả chủ nghĩa duy vật
của Phoi-ơ-bắc.
Các nhà triết học trước C.Mác, do tính chất trực quan máy móc khơng
thấy được vai trị của thực tiễn đối với nhận thức. V.I.Lênin viết: “Chúng ta đã


thấy rằng Mác, vào năm 1945 và Ăngghen, vào những năm 1888 và 1892 đã
đưa tiêu chuẩn thực tiễn vào làm cơ sở cho lý luận duy vật về nhận thức.
Đứng ngoài thực tiễn mà đặt vấn đề xét xem “chân lý vật thể” (tức là chân lý
khách quan) “có nhất trí với tư duy con người hay khơng” thì như thế là triết
học kinh viện, - Mác đã nói điều đó trong luận cương thứ hai của mình về
Phơ-bách. Ăngghen nhắc lại rằng thực tiễn là cái bác bỏ một cách tốt nhất
thuyết bất khả tri của Can-tơ và của Hi-um, cũng như tất cả những quái tưởng
khác trong triết học” 16.
Bảo vệ và phát triển một cách sáng tạo lý luận nhận thức duy vật biện
chứng, V.I.Lênin đã chỉ rõ về vị trí, vai trị và ý nghĩa của thực tiễn trong q
trình nhận thức. Ơng khằng định thực tiễn là cơ sở, là mục đích và là động lực

chủ yếu của nhận thức, rằng “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức” 17. Không chỉ là cơ sở, mục đích
và động lực của nhận thức, thực tiễn theo V.I Lênin còn là tiêu chuẩn của chân lý
và là cái tốt nhất để bác bỏ mọi hình thức của chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất
khả tri, của mọi sự bịa đặt và nhầm lẫn. Ông viết: “Tiêu chuẩn thực tiễn, xét về
thực chất không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách hồn tồn một
biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa. Tiêu
chuẩn đó cũng khá “khơng xác định” để khơng cho phép các hiểu biết của con
người trở thành một cái “tuyệt đối”; đồng thời nó cũng khá xác định để có thể
tiến hành đấu tranh quyết liệt chống tất cả các thứ chủ nghĩa duy tâm và bất khả
tri”18. Chỉ rõ tiêu chuẩn thực tiễn của nhận thức vừa mang tính tương đối, vừa
mang tính tuyệt đối, V.I.Lênin đồng thời khẳng định: nếu cái mà thực tiễn của
chúng ta xác nhận là chân lý khách quan, “duy nhất, cuối cùng”, thì con đường

16
17
18

16

V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 161
V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 167
18 19
.V.I. Lênin , tòan tập, tập 18, Nxb tiến bộ, Mátxcơva. 1980. tr 168
17


duy nhất dẫn đến chân lý đó là con đường của khoa học được xây dựng trên cơ
sở của quan niệm duy vật biện chứng.
Đóng góp của V.I.Lênin trong vấn đề này không chỉ ở khẳng định quan

điểm duy vật về nhận thức, ở sự khẳng định về tính phức tạp biện chứng của sự
nhận thức ở quan niệm rất mới về tính tuyệt đối và tính tương đối của tiêu chuẩn
thực tiễn trong nhận thức mà còn là ở chỗ coi phép biện chứng chính là lý luận
nhận thức của chủ nghĩa Mác.
V.I Lênin đã giải quyết mối quan hệ hài hịa giữa chân lý với thực tiễn, Ơng
đã làm rõ tính đúng đắn của chân lý phải được chứng minh trong thực tiễn, nghĩa
là phải chứng minh tính hiện thực, sức mạnh tư duy con người trong thực tiễn. V.I
Lênin đã phân tích một cách sâu sắc học thuyết Mác về vai trò quyết định của thực
tiễn đối với q trình nhận thức nói chung và đối với chân lý nói riêng. Theo ơng,
thực tiễn là cơ sở, động lực và mục tiêu của nhận thức chân lý.
Trên cơ sở phê phán sâu sắc chủ nghĩa Makhơ, V.I Lênin đi đến khẳng
định lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một thành tựu vĩ
đại của loài người “.. đi theo con đường mà lý luận của Mác vạch ra thì chúng
ta ngày càng đi gần chân lý khách quan (tuy không bao giờ nắm hết được); nếu
đi theo bất cứ con đường nào khác, chúng ta chỉ có thể đi đến sự lẫn lộn và dối
trá”19.
3. Ý nghĩa và giá trị của lý luận nhận thức trong tác phẩn chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiêm phê phán ảnh hưởng đến cách mạng
Việt Nam
3.1. Ý nghĩa của lý luận nhận thức trong tác phẩm
Như vậy, thông qua việc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản của
Makhơ và các trào lưu tư tưởng phi Mác xít đầu thế kỷ XX, Lênin đã bảo vệ
19


thành cơng chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Bằng lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Lênin đã làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề
trong triết học, đặc biệt là vấn đề lý luận nhận thức trong tác phẩm. Những
cống hiến của Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” khơng chỉ đáp ứng địi hỏi cấp bách của thực tiễn lịch sử

đặt ra, giáng một đòn mạnh mẽ vào những trào lưu tư tưởng cơ hội, xét lại đang
lũng đoạt tư tưởng trong phong trào công nhân mà còn bảo vệ và phát triển lý
luận chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới, giải đáp được những câu hỏi do lịch
sử đặt ra.
Vượt qua mọi thử thách của thời gian, những tinh thần luận chiến của Lênin
trong tác phẩm này còn thật sự quý giá đối với chúng ta trong điều kiện hiện nay,
khi mà chủ nghĩa xã hội cũng đang gặp phải vơ vàn khó khăn chẳng kém gì giai
đoạn thất bại và thối trào mà cách mạng Nga đã gặp phải vào những năm 19051907 ; khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang tạo ra
những điều kỳ diệu mà loài người chưa từng thấy trong quá khứ và đang đòi hỏi
những khái quát mới về mặt triết học.
Những tư về lý luận nhận thức được V.I Lênin trình bày trong tác phẩm chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là hết sức phong phú. Tư
tưởng trên đã cung cấp cho chúng ta một cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận khoa học để tiến hành cuộc đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi sự xem xét,
mọi sự phủ định và bài xích chủ nghĩa Mác nói chung và lý luận nhận thức Mác
xít nói riêng, chống lại những quan điểm duy tâm và siêu hình, nhằm bảo vệ và
phát triển triết học duy vật biện chứng trong thời đại có những phát minh khoa
học làm đảo lộn nhận thức cũ.
Lý luận nhận thức được Lênin trình bày trong cuốn chủ nghĩa duy vật và
chủ nghiã kinh nghiệm phê phán nó có vai trị sâu sắc trong việc vũ trang tư


tưởng cho Đảng cộng sản làm vũ khí lý luận sắc bén đấu tranh chống lại mọi
hình thức biến dạng, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa kinh nghiệm
và chủ nghĩa giáo điều nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung về Lý
luận nhận thức nó riêng, nhằm trang bị nhận thức cho giai cấp vô sản và sự
nghiệp cải tạo thế giới bằng con đường cách mạng.
Có thể nói, việc giải quyết một cách triệt để, có luận cứ khoa học và được
chứng thực bằng thực tiễn tất cả những vấn đề về lý luận nhận thức trong tác
phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phên phán xứng đáng được

coi là một mẫu mực về sự bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đánh
dấu một giai đoạn mới, giai đoạn Lênin trong lịch sử triết học mácxít và bây
giờ, gầm 100 năm ra đời, tác phẩm vĩ đại này vẫn giữ nguyên vai trò định
hướng và ý nghĩa phương pháp luận cho Đảng của giai cấp công nhân.
Tác phẩm "chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" cho
đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, là cơ sở lý luận và
phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
thế giới, trong quá trình nhận thức, xem xét và cải tạo thế giới khách quan, cơ sở
lý luận để vạch ra đường lối chiến lược, sách lược của của Đảng cộng sản Việt
Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
3.2. Giá trị của lý luận nhận thức trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, địi hỏi Đảng ta phải vận dụng
nghiêm túc phương pháp xuất phát từ thực tế khách quan, từ bản chất, quy luật
vận động của sự vật trong hoạt động thực tiễn. Đồng thời, phải dựa trên những
tri thức hiểu biết của mình về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở đề ra mục tiêu, phương


hướng, biện pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy, tránh căn bệnh chủ
quan, duy ý chí.
Trong hoạt động thực tiễn, còn cần phải thấy được vai trò to lớn của ý
thức đối với vật chất, đồng thời thấy được mối quan hệ và sự tác động giữa lý
luận nhận thức vời đời sống thực tiễn trong q trình cải tạo hiện thực khách
quan. Điều đó có nghĩa trong hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu
nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách
quan, vào trong hoạt động thực tiễn. Vai trò lý luận nhận thức nhằm trang bị cho
chúng ta những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ
sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động
phù hợp. Đồng thời, xác định các biện pháp sát để tổ chức các hoạt động thực

tiễn, bằng sự nỗ lực và bằng ý chí mạnh mẽ của mình, con người có thể thực
hiện được mục tiêu đề ra. Đồng thời khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu
cực, thụ động, ỷ lại, trơng chờ và chủ quan, nơn nóng, duy ý chí trong quá trình
đổi mới.
Trong quá trình nhận thức và hành động chúng ta phải đảm bảo tính khách
quan, hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng sự
thật, tôn trọng lịch sử và phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng thực tế
khách quan, chứ không phải là sự sáng tạo thuần tuý của ý thức, không được nảy
sinh ý muốn chủ quan, khơng được đặt tính chủ quan của mình để làm cơ sở định
ra chủ trương, chính sách, áp đặt cho thực tế mà phải luôn luôn tôn trọng sự thật,
dựa vào những gì đang có trong hiện thực, tránh nóng vội, định kiến, không
trung thực; tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách
quan. Quá trình đề ra chủ trương, biện pháp cải tạo hiện thực xã hội phải là q
trình khảo cứu, tìm tịi. Đồng thời, cũng phải chú ý phát huy tính năng động,
sáng tạo của chủ thể, phát huy vai trò nhân tố con người, kiên quyết đấu tranh


khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí, thái độ thụ động, bảo thủ, trì
trệ, quan liêu, v.v…
Trong quá trình Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng nước ta từ
ngày thành lập đến nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trong một thời gian khá dài Đảng ta đã
phạm một số sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan và nó đã
gây trở ngại lớn trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố và
hiện đại hố, Đảng ta chủ trương: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải khơi dậy lịng u nước
của nhân dân, ý chí quật cường, phát huy tài trí của con người Việt Nam, quyết
tâm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vv … trong những điều kiện và
đặc điểm của thời đại ngày nay, nhanh chóng tiến kịp các nước trong khu vực và

trên thế giới
Trước tình hình phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học –công
nghệ, đã và đang đề xuất những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng,
những phương pháp nghiên cứu hết sức mới, và có tính chất cách mạng thật sự.
Mặt khác các trào lưu triết học phương Tây ngày càng phát triển, những vấn đề
cơ bản của triết học vẫn chưa được giải quyết triệt để, cuộc đấu tranh giữa hai
trường phái của triết học chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm vẫn đang diễn ra
dưới nhiều hình thức gay go, quyết liệt. Đặc biệt, lợi dụng sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với những tác động tiêu cực từ mặt
trái của nền kinh tế thị trường, các thế lực thù địch đang ráo riết tấn công quyết liệt
và điên cuồng vào Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để nhìn nhận đúng đắn cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, giải quyết
hợp lý những vấn đề thực tiễn đặt ra cho nhân loại và đấu tranh chống hệ tư tưởng


tư sản trong lĩnh vực này, thì địi hỏi chúng ta phải đứng vững trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật triệt để, không được dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, đấu tranh không khoan nhượng chống các biểu hiện của chủ nghĩa
duy tâm siêu hình. Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản chống lại
chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, bọn cơ hội.
Muốn thực hiện được điều đó, khơng thể khơng có tư duy lý luận, nhưng
tư duy lý luận ấy phải được rèn luyện, phát triển dựa trên cơ sở khoa học của
triết học Mác – Lênin, vận dụng những nguyên lý, những quy luật ấy vào nghiên
cứu khoa học và hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, việc xây dựng thế giới quan
duy vật và phương pháp tư duy biện chứng cho mỗi người chúng ta có vị trí rất
quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Thực hiện được nhiệm vụ này, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên
chúng ta phải không ngừng học tập nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, trong đó quán triệt sâu sác tư tưởng của chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập khơng đúng

thì sẽ khơng có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận chúng ta cần nhấn
mạnh : lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù qng. Lý luận khơng liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông”.20
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, nguyên tắc nói trên đặc biệt quan
trọng. Sự nghiệp đổi mới toàn diện mọi mặt trong đời sống xã hội đòi hỏi phải đổi
mới tư duy lý luận. Chỉ có đổi mới tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn, chúng ta mới
có thể nhận thức được các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội và trên cơ sở đó đề ra được những
phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở đây cần phải hiểu
2020 .Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Nxb ST, Hà Nội 1960, Tr 638-639


đổi mới tư duy khơng có nghĩa là đi tìm một kiểu tư duy hoàn toàn khác, mà thực
chất là trở về với bản chất cách mạng và sáng tạo của tư duy biện chứng duy vật do
C. Mác- Ăngghen và Lênin đã xây dựng và phát triển.
Đội ngụ cán bộ, giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa học trong quân đội, hơn
lúc nào hết phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao hiểu biết về kiến thức và
năng lực công tác thực tiễn. Trong công tác phải luôn ln tích cực, chủ động
tun truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn về và quần
chúng nhân dân, giữ vững niềm tin, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thư thách,
kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, bảo thủ, kinh viện, giáo điều,
máy móc, đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phấn đấu vì
mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy cần
nghiên cứu kỹ những vấn đề có tính kinh điểm trong các tác phẩm gốc của MácĂngghen và Lênin, để hiểu rõ nguồn gốc xuất xứ quan điểm của các ơng, từ đó
soi vào thực tiễn của đất nước để luận chứng những vấn đề thực tiễn trong nước
và thế giới đặt ra. Chính điều đó chúng ta nghiên cứu sâu tác phẩm chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán càng có ý nghĩa sâu sắc, Đặc biệt là

phạm trù lý luận nhận thức càng làm cho người học cơ sở lý luận vững chắc
trong vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác- Lênin nói riêng.
Đội ngụ giảng viên trong các Nhà trường, Học viện Quân đội không ngừng
nâng cao chất lượng bài giảng các môn lý luận Mác - Lênin. Đây là một yêu cầu
cần thiết, quan trọng, góp phần giữ vững và nâng cao trình độ tri thức, bản lĩnh
chính trị của học viên, của đội ngụ sỹ quan trong quân đội hiện nay. Để có bài
giảng các mơn lý luận Mác - Lênin có chất lượng tốt, sức thuyết phục cao đối với
người học, thực sự nâng cao nhận thức lý luận cho học viên. Đòi hỏi yêu cầu cao
đối với đội ngụ giảng viên khi trình bày các mơn lý luận Mác - Lênin trong quá


trình giảng dạy, có phương pháp trình bày lơgíc chính xác, đầy đủ các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin, làm sáng tỏ giá trị lý luận, giá trị thực tiễn, giá trị
phương pháp luận của nó có tác dụng chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn cũng như
hoạch định đường lối chính sách của Đảng cộng sản trong xây dựng và phát triển
đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
Bài giảng phải làm sáng tỏ sự đúng đắn của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam do Đảng ta đề ra. Phải gắn lý luận với những thành tựu của công cuộc
phát triển kinh tế, cũng cố quốc phòng, mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng – Nhà
nước, nhân dân ta trong thời gian qua. Bài giảng phải gắn liền những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin vào lĩnh vực quân sự, với lịch sử đấu tranh vũ trang của
nhân dân ta. Mỗi bài giảng phải có phương pháp phù hợp cho từng đối tượng học
viên, mỗi một nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải
được cắt nghĩa một cách ngắn gọn, súc tích, rõ ràng mạch lạc, người học dễ hiểu,
dễ tiếp thu. Muốn làm được điều đó, người giảng viên chủ động tích cực học tập,
phấn đấu nâng cao kiến thức tồn diện, hiểu sâu các mơn khoa học xã hội nhân
văn: Vận dụng kiến thức của các mơn khoa học đó để luận giải sáng tỏ các nguyên
lý của chủ nghĩa Mác – Lênin. Phải đặt các môn lý luận Mác - Lênin trong mối
quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học xã hội nhân văn với thực tiễn lịch sử cách
mạng trên thế giới và thực tiễn đang diễn ra trong khu vực, trên diễn đàn quốc tế.

Có như vậy, bài giảng mới có sức thuyết phục cao, sinh động cuốn hút được người
học, tránh sự gượng ép, rập khuôn, giáo điều, mà vẫn bảo đảm được tính cách
mạng khoa học, tính tư tưởng của từng chủ đề và của cả môn học. V.I. Lênin từng
viết: Điều quan trọng nhất là phương hướng chính trị của các giáo trình, cái gì
quyết định phương hướng ấy, rõ ràng là thành phần các giảng viên.
Kết luận
Tìm hiểu các nội dung trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán” có nhiều nội dung bao hàm cả hệ thống triết học được


thông qua bút chiến của V.I. Lênin đấu tranh và bảo vệ, phát triển, làm giàu thêm
triết học Mác. Trong đó có nội dung về lý luận nhận thức nó có một ý nghĩa rất
quan trọng. Những phân tích của V.I. Lênin về cuộc khủng hoảng thế giới trong
vật lý học, về sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm vật lý học và hướng khắc phụ
khủng hoảng ấy có tác dụng định hướng đối với các nhà khoa học tự nhiên, và
mở đường cho các ngành khoa học phát triển phù hợp với quy luật vận động nội
tại của thế giới thống nhất ở tính vật chất, mà học thuyết lý luận nhận thức làm
cơ sở để nhận thức thế giới ấy. Chúng ta cũng thấy được vai trò to lớn của triết
học biện chứng đối với các nhà khoa học tự nhiên cũng như vũ khí sắc bén đối
với giai cấp công nhân đấu tranh chống lại ý thức hệ phản động nhằm xuyên tạc
chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Trong tác
phẩm V.I. Lênin không chỉ biết tổng kết, đánh giá một cách khoa học các vấn đề
hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức, mà điều quan trong là biết sử dụng
tốt phương pháp biện chứng để đấu tranh các đại biểu hệ tư tưởng đối lập với
giai cấp vô sản.
Tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” được
V.I.Lênin viết cách đây gần 100 năm, thế giới đã trải qua nhiều biến động, chúng
ta nghiên cứu tác phẩm, không chỉ là nghiên cứu các sự kiện, các nguyên lý, các
phát minh khoa học, mà cần xác định vấn đề phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa
của nó đối với người học, đặc biệt là người học viên chuyên triết, vận dụng triết

học duy vật trong điều kiện ngày nay. Lịch sử thời đại ngày nay khác với những
năm đầu thế kỷ XX, còn khoa học đã có bước tiến dài so với trước đây. Tính
chất của cuộc tranh luận về thế giới quan trong quá trình tồn cầu hóa và hội
nhập cũng có những biểu hiển đặc thù của nó. Do vậy, đọc tác phẩm của V.I.
Lênin chúng ta không chỉ tiếp thu một cách máy móc những tư tưởng cơ bản, mà
phải biết kế thừa, vận dụng, bổ sung và phát triển những kiến thức ấy phù hợp
với điều kiện của lịch sử mới. Làm được điều này chính là tăng thêm sức sống,


sự trường tồn của chủ nghĩa Mác-V.I.Lênin và cũng là sự tiếp thu, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay.


×