Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Báo chí cách mạng việt nam từ sau cách mạng tháng tám đến cuối năm 1946

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.3 KB, 173 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
********

NGUYỄN THANH SƠN

BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN CUỐI NĂM 1946

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ

HÀ NỘI - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
********

NGUYỄN THANH SƠN

BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN CUỐI NĂM 1946

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số
: 60.32.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. ĐỖ QUANG HƯNG


HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Điều kiện và tình hình hoạt động của báo chí nước ta sau Cách
mạng Tháng Tám ............................................................................................. 8
1.1. Điều kiện hoạt động báo chí ..................................................................... 8
1.1.1. Bối cảnh lịch sử ..................................................................................... 8
1.1.2. Quan điểm, chính sách báo chí của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa .. 13
1.2. Tình hình hoạt động của dòng Báo chí cách mạng .................................... 16
CHƯƠNG 2:Khảo sát diện mạo và nội dung của báo chí cách mạng ....... 26
2.1. Giới thiệu một số tờ báo cách mạng tiêu biểu thời điểm 1945-1946 ......... 26
2.1.1. Cờ giải phóng ......................................................................................... 26
2.1.2. Sự thật .................................................................................................... 30
2.1.3. Cứu quốc ................................................................................................ 34
2.1.4. Tiên phong ............................................................................................. 41
2.1.5. Sao vàng ................................................................................................. 48
2.1.6. Quyết thắng ............................................................................................ 52
2.2. Khảo sát về nội dung ................................................................................ 56
2.2.1. Tiếp tục tuyên truyền phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin .......................... 56
2.2.2. Thông tin phản ánh diễn tiến của Cách mạng Tháng Tám và không khí hồ
hỡi của quần chúng nhân dân được sống trong không khí hòa bình ................. 60
2.2.3. Tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
và Chính phủ Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng chế độ mới ................. 65


2.2.4. Tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng ............................. 73

2.2.5. Thông tin tuyên truyền các hoạt động của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể,
của nhân dân để giải quyết “giặc đói”, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm” ......... 85
2.2.6. Thông tin tuyên truyền mặt trận ngoại giao của Đảng, Nhà nước và Chính
phủ Hồ Chí Minh ............................................................................................. 103
CHƯƠNG 3: Vai trò, vị trí của báo chí cách mạng với việc bảo vệ và xây
dựng nước Việt Nam mới và những bài học kinh nghiệm ......................... 111
3.1.Vai trò, vị trí của báo chí cách mạng Việt Nam thời điểm 1945 - 1946 ..... 111
3.2. Những bài học kinh nghiệm....................................................................... 120
3.2.1. Bài học kinh nghiệm về xây dựng và quản lý một nền báo chí của cách
mạng ................................................................................................................. 120
3.2.2. Bài học kinh nghiệm cho người làm báo ................................................ 128
3.2.3. Bài học kinh nghiệm trong đấu tranh với các thế lực thù địch .............. 133
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 145
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 151


-1-

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Báo chí đóng vai trò quan trọng và có tác động tích cực đến tiến trình phát
triển của xã hội. Báo chí không những là tấm gƣơng phản ánh mọi khía cạnh của
đời sống xã hội mà còn là nguồn sử liệu quý giá góp phần làm sáng rõ các vấn
đề liên quan đến lịch sử trên mọi phƣơng diện chính trị, kinh tế, văn hóa…
Chính vì vậy, nghiên cứu lịch sử báo chí Việt Nam là công việc rất cần thiết,
góp phần soi sáng lịch sử dân tộc ta và rút ra những kinh nghiệm quý báu cho
những ngƣời làm báo hôm nay.
Đề tài “ Báo chí cách mạng Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám đến
cuối năm 1946” gắn với một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta. Cách

mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đƣa đất nƣớc ta bƣớc sang một kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự do dƣới chế độ dân chủ nhân dân. Ngày
2.9.1945 tại quảng trƣờng Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là thời kỳ mà dân
tộc ta đoàn kết chiến đấu chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ và củng cố
chính quyền non trẻ, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Một đất nƣớc còn non trẻ,
một chính quyền mới vừa thành lập nhƣng phải đƣơng đầu đối phó với những
khó khăn chồng chất trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong số khối lƣợng
công việc đồ sộ mà Đảng, Nhà nƣớc và Chính phủ Hồ Chí Minh tiến hành xây
dựng và củng cố để đảm bảo vị thế của một đất nƣớc có chủ quyền, không thể
không nhắc đến hoạt động báo chí với sứ mệnh đảm đƣơng vai trò quan trọng
trên địa hạt tƣ tƣởng văn hóa. Đây là giai đoạn nƣớc Việt Nam mới đặt nền
móng cho một nền báo chí thực sự của mình trên cơ sở những thành tựu của
dòng báo chí cách mạng trƣớc khi Đảng cộng sản Đông Dƣơng lên nắm chính
quyền.
Về đời sống báo chí, đây là một khoảng thời gian rất ngắn nhƣng chƣa
bao giờ chúng ta có một nền báo chí phong phú và sôi động nhƣ thế. Dƣới chế


-2-

độ dân chủ cộng hòa, Nhà nƣớc ta còn non trẻ lại phải đối diện với thù trong
giặc ngoài, phải chấp nhận một tình trạng đa nguyên về đảng phái, về lực lƣợng
chính trị - trong đó có báo chí, nhƣng vẫn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Báo
chí cách mạng vẫn chiếm địa vị chủ đạo trên mặt trận tƣ tƣởng. Vì vậy, nghiên
cứu báo chí cách mạng thời kỳ này không chỉ giúp chúng ta thấy rõ quy luật
hoạt động cách mạng hiểu theo nghĩa hẹp, mà chúng ta còn hiểu trên một bình
diện rộng lớn hơn - đó là báo chí cách mạng hoạt động trong một môi trƣờng có
rất nhiều dòng báo chí khác nhau, từ đó chúng ta sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm
phong phú cho hoạt động báo chí hiện nay và mai sau.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các công trình nghiên cứu đã đƣợc công bố từ trƣớc đến nay có liên quan
đến nội dung đề tài “Báo chí cách mạng Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng
Tám đến cuối năm 1946” có thể kể đến nhƣ sau:
Tác giả Nguyễn Thành trong cuốn “Báo chí cách mạng Việt Nam 19251945” (NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1984) giới thiệu một số tờ báo cách mạng
nhƣ Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Cờ giải phóng ra đời trong giai đoạn 19391945. Tuy nhiên tác giả cũng chỉ giới thiệu đặc điểm của chúng dừng lại ở mốc
trƣớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tác giả Đỗ Quang Hƣng trong giáo trình “Lịch sử báo chí Việt Nam
1865-1945” (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000) cũng đã nghiên cứu các tờ
báo Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Cờ giải phóng về sự ra đời, phát triển qua từng
chặng đƣờng lịch sử, về những ngƣời làm báo, nội dung và những nét độc đáo
về nghệ thuật làm báo. Tác giả còn chú ý tới những thay đổi quan trọng của các
tờ báo Cứu quốc, Cờ giải phóng sau năm 1945. Cái mốc năm 1945 với những
đổi thay độc đáo của báo chí Việt Nam đƣợc Đỗ Quang Hƣng đặc biệt chú ý :
“Cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 vĩ đại, không những là một biến cố lịch sử
dân tộc, là bƣớc nhảy vọt đầu tiên của cách mạng nƣớc ta hơn nửa thế kỷ qua
mà còn là sự hồi sinh, sự phục hƣng của nền báo chí”. Đỗ Quang Hƣng đề cập
đến chủ trƣơng thành lập Đoàn Báo chí Việt Nam của chính phủ lâm thời


-3-

(28.12.1945), Sắc lệnh số 41 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 29.3.1946 “xem
nhƣ viên gạch đầu tiên về luật pháp báo chí của nƣớc Việt Nam mới”. Tác giả
nhận định: “Đó là thời điểm Lịch sử báo chí Việt Nam đã bƣớc vào trang mới….
Nhƣng tiếng nói chân chính và mạnh mẽ của dòng báo cách mạng với diện mạo
đa dạng, chững chạc hơn vẫn giữ vững vị trí chủ đạo… Nghĩa là, cũng nhƣ
chính con đƣờng cách mạng Việt Nam, báo chí cũng bắt đầu những nhịp thở,
trăn trở của cuộc tranh đấu mới”.
Công trình “Sơ thảo lịch sử báo chí Hà Nội (1905-2000)” (NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2004) của Hội Nhà báo Thành phố Hà Nội đã đề cập đến báo
chí Hà Nội thời kỳ từ cuối tháng 8.1945 đến ngày 19.12.1946 với những nhận
định có cơ sở: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi mở ra giai đoạn phát triển mới
trong lịch sử dân tộc và báo chí. Báo chí Hà Nội đƣợc hƣởng quyền tự do báo
chí đầu tiên trong cả nƣớc, xác lập một nền báo chí vì độc lập dân tộc, tự do dân
chủ, giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ”. “Nói riêng về báo chí, Chính
quyền cách mạng có nhiệm vụ quản lý, sử dụng nó làm công cụ sắc bén phục vụ
nhân dân, bảo vệ, củng cố chính quyền, chống kẻ thù bên trong và bên ngoài,
xây dựng tình hữu nghị với nhân dân các nƣớc, bảo vệ hòa bình trong khu vực
và trên thế giới”.
Cuốn “Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân dân 1951-2001” (NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội, 2001) do báo Nhân dân xuất bản đã đề cập các báo Đảng tiền
thân của báo Nhân dân, trong đó có nhắc đến các tờ báo Cờ giải phóng, Cứu
quốc, Sự thật với những bƣớc phác thảo sơ lƣợc về chúng trong từng chặng
đƣờng lịch sử. Cuốn sách có những dòng nhận định: “Báo chí của Đảng ta trƣớc
khi báo Nhân dân ra đời có một lịch sử oanh liệt và truyền thống rất vẻ vang”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thành trong cuốn “Sự nghiệp báo chí của Chủ
tịch Hồ Chí Minh” (NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005) đã dành nhiều trang
sách giới thiệu nội dung các bài viết của Bác Hồ đăng trên các báo Cứu quốc và
Sự thật. Tác giả viết: “Báo chí cách mạng của ta từ địa vị không hợp pháp, bị đế
quốc truy tố, lùng bắt đã chuyển sang địa vị hợp pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã


-4-

ở tƣ thế ngƣời lãnh đạo đất nƣớc, viết bài cổ động nhân dân xây dựng và bảo vệ
đất nƣớc, đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, đặc biệt là với các dân tộc bị áp
bức”. “Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Cứu quốc là tờ báo cách mạng đầu
tiên đƣợc vinh dự đăng những bài báo của Bác, kể từ tháng 2-1946”.
Trong cuốn “Trận tuyến công khai giữa Sài Gòn (tập 1, NXB Trẻ,

TP.HCM, 2005), các tác giả có những bài ký sự thể hiện khuôn mặt tinh thần
của báo chí cách mạng công khai và phong trào đấu tranh của báo giới với tính
cách đặc thù Nam Bộ - Sài Gòn. Đề cập đến báo chí Sài Gòn thời điểm 19451954, cuốn sách có những bài viết đáng chú ý: “Mấy đặc điểm của báo chí Sài
Gòn thời kháng chiến chống Pháp” (Bằng Giang), “Báo chí cách mạng Sài Gòntrận địa “kháng chiến” công khai” (Lê Hiền), “Báo chí thống nhất Nam Bộ - trận
tuyến công khai giữa Sài Gòn” (Tô Nguyệt Đình), “Làm báo bí mật giữa Sài
Gòn và trong nhà tù” (Trần Cửu Kiến)...
Có thể nói, cho đến nay, chúng ta vẫn chƣa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về báo chí cách mạng Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám đến cuối năm 1946.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Chƣa bao giờ trong lịch sử dân tộc nƣớc nhà diễn ra hoạt động báo chí lạ
lùng nhƣ vào thời điểm 1945-1946. Đảng lãnh đạo đất nƣớc nhƣng không xuất
hiện công khai mà phải lui vào hoạt động bí mật dƣới danh nghĩa Hội nghiên
cứu chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dƣơng (tháng 11.1945). Đây rõ ràng là thời kỳ
đa nguyên về báo chí nhƣng chúng ta vẫn xây dựng vững chắc một nền báo chí
dân chủ cộng hòa. Thực hiện đề tài “Báo chí cách mạng Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám đến cuối năm 1946” sẽ giúp chúng ta rút ra nhiều kinh nghiệm
quý giá về công tác quản lý báo chí, về nghệ thuật làm báo, tinh thần sẵn sàng
lăn xả vào những điểm nóng và nắm giữ vị trí chủ đạo trên mặt trận chính trị - tƣ
tƣởng của những ngƣời làm báo chân chính ở những thời điểm nhạy cảm và khó
khăn nhất của đất nƣớc.


-5-

Tại thời điểm 1945-1946, bên cạnh hệ thống báo Đảng, báo của Mặt trận
Việt Minh và các tổ chức cách mạng trong cả nƣớc, đã tồn tại nhiều tờ báo tƣ
nhân. Nó chứng tỏ sự phong phú của bộ mặt báo chí nƣớc ta và khả năng quản
lý mặt trận báo chí đa diện của Đảng ta vào thời điểm này một cách rất khéo léo
vài tài tình. Hiện nay, trong không khí dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội,

trong đó có hoạt động báo chí, làm sao để quản lý tất cả các tờ báo đi theo đúng
quỹ đạo và đƣờng hƣớng chung do Đảng ta khởi xƣớng? Nghiên cứu đề tài này
sẽ góp phần giải đáp câu hỏi cấp thiết đó.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay, báo chí nƣớc ta đã và đang
từng bƣớc đổi mới, đi vào hoạt động với những chiều kích mới. Trên thực tế báo
chí nƣớc ta đã có một thị trƣờng rộng lớn, đa dạng, thuộc nhiều tổ chức xã hội
và thành phần kinh tế. Vì vậy, những bài học của báo chí cách mạng thời điểm
1945 - 1946 chắc chắn sẽ mang lại nhiều ý nghĩa tích cực.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm rõ bối cảnh lịch sử và diện mạo của báo chí cách mạng Việt
Nam gắn với một thời điểm rất đặc biệt của dân tộc ta từ sau Cách mạng Tháng
Tám 1945 đến cuối năm 1946; phân tích cụ thể nội dung thông tin tuyên truyền,
hiệu quả tác động và nghệ thuật làm báo của báo chí cách mạng Việt Nam thời
điểm 1945-1946; giới thiệu đặc điểm của một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
xuất bản vào thời điểm này; rút ra những bào học kinh nghiệm bổ ích cho hoạt
động báo chí trong thời kỳ mới hiện nay. Luận văn sẽ góp phần soi sáng và vẽ
lên một bức tranh khái quát về hoạt động báo chí cách mạng nƣớc ta ở thời khắc
lịch sử đáng nhớ này. Đây sẽ là nguồn tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm tìm
hiểu lịch sử báo chí Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng cụm từ “báo chí cách mạng” với ý
nghĩa rộng là báo chí của một nƣớc Việt Nam mới sau Cách mạng Tháng Tám.
Bởi lẽ, trƣớc năm 1945, báo chí cách mạng chủ yếu bao hàm là báo chí của


-6-

những ngƣời cộng sản, còn báo chí yêu nƣớc chỉ đƣợc coi nhƣ thuộc nhóm “báo
chí khuynh tả”). Sau năm 1945, khái niệm báo chí cách mạng đƣợc hiểu không
chỉ là báo do Đảng trực tiếp cầm quyền mà nó còn bao hàm cả báo chí yêu nƣớc

và tiến bộ. Chúng tôi không hoàn toàn có ý đối lập báo chí cách mạng với các
báo còn lại, trừ việc đối lập với các tờ báo của các tổ chức chính trị phản động
lúc bấy giờ. Còn lại, những tờ báo khác, tuy không quan niệm trực tiếp là báo
chí cách mạng nhƣng nó vẫn là báo hợp pháp và có khuynh hƣớng tiến bộ. Nếu
xét theo nghĩa hẹp, chúng tôi vẫn tiếp tục sử dụng khái niệm này để chỉ báo của
các tổ chức Đảng và tổ chức mặt trận (nhƣ công đoàn, hội cứu quốc…), và coi
nó là lực lƣợng chủ lực của nƣớc Việt Nam mới, là đối tƣợng chính để khai thác
trong quá trình thực hiện đề tài.
Luận văn xác định rõ đối tƣợng nghiên cứu là báo chí cách mạng Việt
Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến cuối năm 1946. Những tờ báo phi
cách mạng, báo chí có khuynh hƣớng phục vụ chính quyền thực dân và bù nhìn
tay sai, báo chí có khuynh hƣớng ôn hòa - đối lập, báo chí chuyên biệt… không
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. Ngoài ra, do điều kiện tƣ liệu báo chí
lƣu trữ hiện nay là khá hiếm hoi, nên luận văn giới hạn khảo sát qua bộ lƣu trữ ở
miền Bắc và miền Trung nƣớc ta, chúng tôi chƣa có điều kiện khảo sát trực tiếp
các báo chí cách mạng của đảng bộ miền Nam trong thời điểm lịch sử này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử,
khảo sát, trực tiếp đọc, sao chụp các tƣ liệu và hiện vật còn lƣu trữ, kết hợp với
phƣơng pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thẩm định.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, riêng phần nội dung gồm có ba
chƣơng cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Điều kiện và tình hình hoạt động của báo chí nƣớc ta sau Cách
mạng Tháng Tám


-7-

Chƣơng 2: Khảo sát diện mạo và nội dung của báo chí cách mạng

Chƣơng 3: Vai trò, vị trí của báo chí cách mạng với việc bảo vệ và xây
dựng nƣớc Việt Nam mới và những bài học kinh nghiệm


-8-

CHƢƠNG 1:
ĐIỀU KIỆN VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ
NƢỚC TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

1.1. Điều kiện hoạt động của báo chí
1.1.1. Bối cảnh lịch sử
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 diễn ra với hào khí “long trời lở
đất” đã thành công trên phạm vi cả nƣớc khi dân tộc ta chớp lấy thời cơ “ngàn
năm có một”. Chiều ngày 2.9.1945, tại cuộc mít tinh ở quảng trƣờng Ba Đình,
trƣớc đông đảo nhân dân thủ đô và các vùng lân cận tham dự, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với thế
giới: Nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa độc lập, tự do ra đời. Ngày 2.9.1945 trở
thành mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Nó đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80
năm và của phát xít Nhật, đồng thời lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại
ngót ngàn năm. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, nƣớc ta từ một nƣớc
thuộc địa đã trở thành một nƣớc độc lập dƣới chế độ dân chủ cộng hòa, nhân dân
ta từ thân phận nô lệ đã trở thành ngƣời dân độc lập, tự do, làm chủ nƣớc nhà.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bƣớc phát triển nhảy vọt của
Cách mạng Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển lịch sử dân
tộc: kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân Việt Nam trở thành ngƣời làm chủ đất nƣớc, làm chủ xã hội, đƣợc

hƣởng những quyền lợi do cách mạng đem lại. Họ hiểu rõ giá trị thiêng liêng
của những quyền lợi ấy, một lòng gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách
mạng. Đây chính là nguồn sức mạng vô tận giúp cho Nhà nƣớc cách mạng còn
đang trong thời kỳ trứng nƣớc vƣợt qua mọi khó khăn, thử thách.


-9-

Về quốc tế, Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi đầu tiên trong thời đại
mới của một dân tộc nhƣợc tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân.
Thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nƣớc thuộc
địa và nửa thuộc địa trên thế giới, đặc biệt là nhân dân châu Á và châu Phi. Về ý
nghĩa dân tộc và quốc tế của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công,
đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Tại thời điểm 1945-1946, chúng ta chứng kiến sự đa dạng của các lực
lƣợng chính trị xã hội ở nƣớc ta. Sau Cách mạng Tháng Tám, Mặt trận Việt
Minh phát triển rất nhanh chóng. Một số đoàn thể quần chúng và nhiều đảng
phái thuộc nhiều khuynh hƣớng chính trị khác nhau ra công khai hoặc lần lƣợt ra
đời. Các Hội cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ đƣợc tổ
chức thống nhất trong cả nƣớc. Nhiều Hội cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm
những tầng lớp yêu nƣớc còn đứng ngoài Mặt trận nhƣ: Công thƣơng Cứu quốc,
Công giáo Cứu quốc, Đoàn Hƣớng đạo Cứu quốc, Đoàn sinh viên Cứu quốc,
Viên chức cứu quốc, Cựu binh sĩ cứu quốc… Các hội Công nhân cứu quốc,
Thanh niên cứu quốc ở ba miền lần lƣợt mở hội nghị để thống nhất hệ thống tổ
chức. Số lƣợng hội viên của các đoàn thể cứu quốc trong Việt Minh tăng lên
nhanh chóng. Mặt trận Việt Minh thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân

rộng rãi, giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân
chủ nhân dân.
Thực hiện chủ trƣơng vũ trang toàn dân, nhân dân ta chủ trƣơng tích cực
xây dựng lực lƣợng. Chỉ trong thời gian ngắn, lực lƣợng vũ trang bao gồm các
đơn vị Giải phóng quân và các đội tự vệ chiến đấu phát triển nhanh chóng. Dù
trang bị vũ khí còn rất thô sơ và thiếu thốn, lại chƣa có nhiều kinh nghiệm tác
chiến, nhƣng cán bộ và chiến sĩ trong các đơn vị vũ trang đều có tinh thần chiến


- 10 -

đấu dũng cảm, là lực lƣợng chủ chốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền
cách mạng.
Trải qua 15 năm đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930-1945),
truyền thống đoàn kết, bất khuất của dân tộc ta càng đƣợc phát huy cao độ;
Đảng ta ngày càng trƣởng thành, bắt rễ sâu vào quần chúng và thêm dày dạn
kinh nghiệm lãnh đạo. Đứng đầu Đảng và Nhà nƣớc cách mạng là vị lãnh tụ
thiên tài, có uy tín tuyệt đối trong toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh tƣợng trƣng
cho tinh hoa văn hóa của dân tộc, cho ý chí kiên cƣờng, bất khuất của nhân dân
Việt Nam.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nói trên, Nhà nƣớc cách mạng Việt
Nam, ngay sau khi ra đời, đã phải đứng trƣớc một tình thế hết sức hiểm nghèo,
nhất là ba thứ giặc : “giặc đói’, “giặc dốt” và “giặc ngoại xâm”.
Nền kinh tế của nƣớc ta chủ yếu là nông nghiệp với trình độ lạc hậu, bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, thiên tai thƣờng xuyên xảy ra. Các ngành kinh tế
bị đình đốn nghiêm trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp chƣa đi vào hoạt động.
Hàng vạn công nhân thất nghiệp. Việc buôn bán với nƣớc ngoài hầu nhƣ bị đình
trệ. Hàng hóa trên thị trƣờng khan hiếm. Nguy cơ nạn đói mới xuất hiện.
Nền tài chính của Nhà nƣớc cách mạng trong buổi đầu hết sức kiệt quệ.
Ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong khi quá nửa là tiền rách.

Các khoản thu từ thuế giảm sút. Trong khi nhiều nguồn thu quá ít ỏi không thể
đáp ứng đƣợc nhu cầu chi lớn thì Nhà nƣớc lại chƣa nắm đƣợc Ngân hàng Đông
Dƣơng. Bên cạnh đó, khi kéo vào nƣớc ta, quân Tƣởng lại tung ra trên thị
trƣờng giấy bạc “Quan kim” và “Quốc tệ” đã mất giá trị, càng làm cho tình hình
tài chính và thƣơng mại thêm phức tạp.
Cùng với đó, chế độ thực dân phong kiến để lại một di sản văn hóa hết
sức lạc hậu. Thực dân Pháp chăm lo xây dựng nhà tù nhiều hơn tƣờng học. Vì
thế hơn 90% dân số nƣớc ta mù chữ. Bên cạnh nạn thất học là các tệ nạn xã hội
tồn tại rất phổ biến. Bệnh dịch cũng hoành hành ở nhiều nơi.


- 11 -

Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới ra đời, chƣa có kinh nghiệm
quản lý. Ở một số nơi, chính quyền chƣa nằm trong tay những ngƣời cách mạng.
Quân đội thƣờng trực đang trong quá trình xây dựng. Trang bị vũ khí rất thô sơ
và thiếu thốn. Đồng thời, Mặt trận dân tộc thống nhất tuy phát triển rộng rãi
nhƣng chƣa đƣợc củng cố vững chắc; kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm mƣu
chia rẽ, lôi kéo…
Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc mới
thành lập là nạn ngoại xâm.
Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 20 vạn quân của Tƣởng Giới Thạch gồm 4
quân đoàn do tƣớng Lƣ Hán làm tổng chỉ huy đã ồ ạt kéo vào nƣớc ta. Núp dƣới
danh nghĩa đại diện lực lƣợng Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải đáp quân đội
Nhật, quân Tƣởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng cộng sản Đông Dƣơng, phá tan
Việt Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên một chính quyền tay sai.
Bởi vậy, khi vào nƣớc ta, quân Tƣởng kéo theo các tổ chức phản cách mạng nhƣ
Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) do Nguyễn Tƣờng Tam, Vũ Hồng Khanh
cầm đầu và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) do Nguyễn Hải
Thần cầm đầu. Quân Tƣởng buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực

hiện chế độ trƣng thu lƣơng thực để mỗi tháng phải cung cấp cho chúng 10.000
tấn gạo, trong khi nhân dân Bắc Bộ đang phải chịu hậu quả nạn đói khủng khiếp
chƣa từng có trong lịch sử đất nƣớc. Dựa vào quân Tƣởng, các tổ chức Việt
Quốc, Việt Cách ra sức tuyên truyền chống phá chính quyền cách mạng, lập
chính quyền ở một số nơi. Chúng tiến hành nhiều hoạt động vu cáo, nói xấu Việt
Minh, ngang nhiên đòi gạt các bộ trƣởng là đảng viên cộng sản ra khỏi Chính
phủ. Chúng còn gây ra các vụ giết ngƣời, cƣớp của, bắt cóc cán bộ chính quyền
ở một số địa phƣơng. Quân Tƣởng và các lực lƣợng Việt Quốc, Việt Cách ra sức
công kích, xuyên tạc trên các diễn đàn thông tin, ra báo, tổ chức diễn thuyết mạt
sát Việt Minh lừa bịp các đảng phái quốc gia, âm mƣu lập chế độ Cộng sản, cho
rằng Việt Minh mạnh hơn vì đã chiếm đƣợc chính quyền, các đảng phái khác trở
về nƣớc trễ, không lôi cuốn đƣợc quần chúng…


- 12 -

Ở phía Nam vĩ tuyến 16, tình hình còn nghiêm trọng hơn. Thực dân Pháp
ngày càng bộc lộ rõ ý đồ trở lại xâm chiếm Việt Nam. Ngoài việc lấy danh nghĩa
quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, quân đội Anh
còn đồng lõa và giúp cho thực dân Pháp quay lại xâm lƣợc nƣớc ta lần thứ hai.
Ngày 23.9.1945, quân đội Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm
lƣợc Việt Nam lần thứ hai.
Ngoài lực lƣợng của quân Tƣởng, Anh, Pháp, trên đất nƣớc ta lúc đó có
khoảng 6 vạn quân Nhật. Trong lúc chờ giải giáp, một bộ phận của đội quân
Nhật đã đƣợc quân Anh sử dụng, đánh vào lực lƣợng vũ trang của ta, dọn đƣờng
cho quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn và nhiều vùng ở miền Nam. Dựa vào thế lực
quân đội nƣớc ngoài, các lực lƣợng phản cách mạng trong cả nƣớc đã lần lƣợt
ngóc đầu dậy chống phá chính quyền cách mạng. Chƣa lúc nào trên đất nƣớc
Việt Nam có nhiều kẻ thù nhƣ vậy!
Giặc ngoài, thù trong, khó khăn chồng chất khó khăn đè nặng lên đất

nƣớc ta, đặt chính quyền cách mạng trƣớc một tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”!
Vận mệnh độc lập tự do của dân tộc vừa mới giành đƣợc đang đứng trƣớc nguy
cơ mất còn! Trọng trách nặng nề đối với dân tộc đã giao phó cho Đảng và Chính
phủ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, do Hồ Chí Minh đứng đầu, với tƣ cách là
ngƣời lãnh đạo và quản lý điều hành cao nhất của đất nƣớc. Căn cứ vào phƣơng
hƣớng và nhiệm vụ, chiến lƣợc và sách lƣợc do Hội nghị toàn quốc của Đảng và
Quốc dân đại hội họp tháng 8.1945 đã thông qua, ngay sau khi về Hà Nội, Ban
Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng và Chính phủ đã đề ra những nhiệm vụ và biện
pháp cấp bách đầu tiên để bảo vệ và xây dựng đất nƣớc. Đặc biệt ngày
25.11.1945, Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng đã ra bản chỉ thị quan trọng
“Kháng chiến, kiến quốc”, xác định nhiệm vụ chiến lƣợc, nhiệm vụ trƣớc mắt và
những chính sách lớn để chỉ đạo hành động của toàn Đảng, toàn dân trong cuộc
đấu tranh nhằm giữ vững quyền độc lập tự do, bảo vệ chế độ mới.
Trải qua hơn một năm đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ
nhân dân, những khó khăn ban đầu đã đƣợc đẩy lùi. Tiềm lực của Nhà nƣớc


- 13 -

cách mạng đƣợc tăng cƣờng một bƣớc, tạo nên thế và lực mới cho toàn dân ta
bƣớc vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nƣớc. Có đƣợc những
thắng lợi đó là do toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ, thực hiện sự nghiệp vẻ vang
“vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
1.1.2. Quan điểm, chính sách báo chí của nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa
Trƣớc áp lực của các thế lực chính trị phản động, để bảo vệ những thành
tựu của chính quyền cách mạng giành đƣợc, Đảng cộng sản Đông Dƣơng đã thi
hành chính sách mềm dẻo: tuyên bố tự giải tán vào tháng 11.1945. Tuy nhiên
đây chỉ là sự giải tán về hình thức, trên thực tế Đảng vẫn trực tiếp lãnh đạo cách
mạng trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Đảng ta vẫn luôn lãnh đạo sát sao

hoạt động của cách mạng và Nhà nƣớc thông qua Mặt trận Việt Minh. Sự hoạt
động hiệu quả của báo chí cách mạng chính là công cụ để tổ chức này thực hiện
các nhiệm vụ của mình. Vì vậy, sự tồn tại của báo chí cách mạng cũng nhƣ vị trí
công khai của nó đƣợc quy định bởi vai trò của Nhà nƣớc và Mặt trận Việt
Minh. Quan điểm, chính sách báo chí của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
đƣợc coi nhƣ là những cơ sở pháp lý và những định chế chính trị giúp cho hoạt
động báo chí phát triển. Về pháp lý, không thể đơn giản dùng những văn bản
pháp quy của chính quyền thực dân Pháp đã áp dụng ở nƣớc ta. Nhƣng cũng
không thể vứt bỏ tất cả ngay, mà phải xem những điều nào, điểm nào có thể
dùng đƣợc, miễn là cải tạo nó đi, bổ sung và cụ thể hóa cho phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới. Chính phủ có nhiệm vụ ban hành những văn bản pháp
quy về báo chí, từ một vài điểm cụ thể, tiến tới một sắc lệnh quy định có hệ
thống, đầy đủ về các vấn đề thuộc báo chí và có liên quan đến báo chí.
Trƣớc hết phải nhắc đến Sắc lệnh số 47 của Chủ tịch nƣớc ký ngày
10.10.1945 về việc duy trì tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ xã hội cũ.
Khi nào có Nghị định hay Sắc lệnh mới về báo chí thay thế thì mọi thể lệ cũ sẽ
không còn giá trị. Việc duy trì này phải đảm bảo điều kiện kiên quyết là các luật
lệ đó không trái với các nguyên tắc độc lập tự do. Toàn bộ hoạt động xã hội về


- 14 -

cơ bản vẫn diễn ra trên cơ sở những luật lệ của chế độ xã hội cũ. Sự tồn tại và
phát triển của báo chí cách mạng cũng gắn liền với thực tế này. Trong chế độ xã
hội cũ, đất nƣớc bị chia cắt làm ba kỳ với ba chế độ chính trị khác nhau. Bƣớc
sang thời kỳ mới, sự độc lập tự do của chúng ta là thống nhất trên toàn bộ lãnh
thổ, thế nhƣng chúng ta vẫn phải áp dụng luật lệ hoạt động báo chí của chế độ
xã hội cũ với thể chế 3 kỳ. Do đó sự phát triển của báo chí cách mạng từ năm
1945 về sau trên tinh thần sắc lệnh ngày 10.10.1945 hoàn toàn không có giá trị.
Bởi lẽ trên đất nƣớc Việt Nam thống nhất chỉ có một nền báo chí chứ không

phải có ba nền báo chí ở ba kỳ. Sự phát triển của báo chí từ năm 1945 về sau
gắn liền với sự kiểm soát của chính quyền mới, cụ thể là sự kiểm soát của chính
quyền cách mạng trong hoạt động ra báo.
Tiếp đó, Trung ƣơng Đảng đã bí mật đƣa ra Chỉ thị tháng 11.1945. Thực
chất đây là sự chỉ đạo sách lƣợc tuyên truyền với những mục tiêu cụ thể sau:
Đoàn kết với mọi đối tƣợng để chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lƣợc. Trong
quá trình tuyên truyền không đƣợc đối lập các lực lƣợng xã hội dƣới gốc độ
chủng tộc, không đƣợc công kích nƣớc Pháp nói chung, phải tranh thủ sự ủng hộ
của nhân dân Pháp để cô lập những thực dân hiếu chiến. Chống âm mƣu chia rẽ
dân tộc xuất phát từ tồn tại lịch sử: đất nƣớc bị chia làm ba kỳ và tình trạng đa
sắc tộc của dân tộc Việt Nam. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải đoàn kết mọi ngƣời
dân yêu nƣớc để thực hiện nhiệm vụ chung bảo vệ nền độc lập tự do. Chống sự
thống nhất vô nguyên tắc với các lực lƣợng khác trong xã hội. Điều này cho thấy
sự thống nhất giữa các lực lƣợng chỉ có thể diễn ra trên nguyên tắc của tinh thần
yêu nƣớc và của ý thức bảo vệ độc lập tự do. Đề cao cảnh giác, chống sự phá
họai của các tổ chức chính trị phản động nhƣ: Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt.
Ngoài ra Đảng ta chú trọng đối phó với tổ chức kẻ thù nguy hiểm tơrốtkit chống
phá cách mạng. Đề cao sự tin tƣởng vào thắng lợi của cách mạng. Lúc này các
thế lực phản động đang ra sức chống phá điên cuồng hòng toan tính lật đổ chính
quyền cách mạng. Do đó chính quyền cách mạng phải khôn khéo, mềm dẻo để
bảo vệ thắng lợi đạt đƣợc nhất là trên mặt trận thông tin tuyên truyền.


- 15 -

Ngày 24.3.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 41 quy định chế
dộ kiểm duyệt báo chí. Sắc lệnh này ra đời sau khi Chính phủ liên hiệp kháng
chiến thành lập, đƣợc Quốc hội công nhận ngày 2.3.1946. Thành phần Chính
phủ đã có sự nhân nhƣợng, để cho một số thành viên của Việt Nam Quốc dân
đảng và Việt Nam cách mệnh đồng minh hội tham gia thay mặt cho một số đại

biểu của họ trong Quốc hội không do quốc dân bầu ra. Sắc lệnh đã phản ánh tình
hình thực tế phức tạp đó. Sắc lệnh có ba mục.Mục thứ nhất “Thể lệ xuất bản”
gồm ba điều sau:
1. Các báo ngày hay xuất bản định kỳ, theo mẫu quy định; khi thay đổi
những điều đã khai trƣớc phải khai lại trong hạn 48 giờ.
2. Mỗi tờ báo phải có ngƣời quản lý từ 21 tuổi trở lên, có quyền công dân.
Tên, họ ngƣời quản lý; tên và địa chỉ nhà in phải in ở các số báo.
3. Trƣớc khi phát hành phải nộp cho cơ quan kiểm duyệt, phòng biện lý
nơi phát hành, phòng báo chí Bộ Nội vụ, Nha lƣu trữ công văn hai số báo có chữ
ký của ngƣời quản lý.
Mục thứ hai của Sắc lệnh số 41 quy định kiểm duyệt: các bài báo sẽ đƣợc
in sau khi Ty kiểm duyệt cấp Kỳ đã duyệt. Hội đồng kiểm duyệt đặt tại Bộ Nội
vụ, có 5 ngƣời, do Nghị định của Bộ trƣởng Bộ Nội vụ cử ra. Mục thứ ba: quy
định các mức trừng phạt, từ tịch thu đến phạt tiền.
Ngày 31.11.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ký Sắc lệnh số 18 về
việc “lƣu chiểu văn hóa phẩm”, trong đó có lƣu chiểu báo và tạp chí, “tàng trữ
các vật phẩm ấy dùng để làm tài liệu cho nền văn hóa quốc gia”. Sở lƣu chiểu
văn hóa phẩm đƣợc thành lập, trực thuộc Bộ giáo dục quốc gia.
Bộ Thông tin - Tuyên truyền, thành viên của Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, đƣợc công bố thành lập ngày 28.8.1945, sau đó đổi tên
là Bộ Tuyên truyền và Cổ động ngày 1-1-1946. Đồng chí Trần Huy Liệu đƣợc
cử làm Bộ trƣởng. Bộ này ra đời đã nắm vững quyền lực thông tin Nhà nƣớc,
xây dựng hệ thống tổ chức thông tin cả nƣớc, tăng cƣờng lực lƣợng báo chí của


- 16 -

các cơ quan, đoàn thể cách mạng. Sự kiện đó cho thấy ngành Văn hóa và Thông
tin đƣợc khai sinh ra từ Cách mạng Tháng Tám, và sự hình thành phát triển của
nó luôn gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh cách mạng, dƣới sự lãnh đạo của

Đảng. Sau khi Quốc hội khóa 1 họp ngày 2.3.1946 thành lập Chính phủ Liên
hiệp chính thức đầu tiên thì Bộ Tuyên truyền và Cổ động không còn nữa. Cho
đến ngày 13.5.1946, Nha Tổng giám đốc thông tin, tuyên truyền mới đƣợc tổ
chức dƣới quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Bộ Nội vụ, do cụ Huỳnh
Thúc Kháng làm Bộ trƣởng, bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng làm Tổng giám đốc;
và đến ngày 27-11-1946 đổi thành Nha thông tin. Các cơ quan phụ thuộc Tổng
nha lúc đó có Đài Tiếng nói Việt Nam, Ty nhận tin vô tuyến điện, Ty kiểm soát
giấy, Ty kiểm duyệt báo chí và sách. Mỗi Kỳ, đến kháng chiến toàn quốc chia
thành các Liên khu, có một Sở Thông tin; mỗi tỉnh, thành phố có một Ty Thông
tin; ở cấp huyện và xã do một ủy viên ủy ban hành chính phụ trách.
Đặc biệt Hiến pháp nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đƣợc Quốc hội
biểu quyết thông qua ngày 9.11.1946, trong đó tại Điều 10 của chƣơng 2 quy
định: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ
chức và hội họp, tự do tín ngƣỡng, tự do cƣ trú, đi lại trong nƣớc và ra nƣớc
ngoài”. Điều đó cho thấy, hoạt động báo chí nƣớc ta sau năm 1945 đã đƣợc
Đảng, Chính phủ công nhận và bảo đảm quyền tự do trong khuôn khổ nhất định.
Nhìn lại quá trình ban hành các văn bản pháp quy về hoạt động báo chí, chúng ta
thấy rõ những bƣớc tiến, nhƣng đi vào thực hiện gặp muôn vàn khó khăn, phức
tạp, nhất là phải đối phó với các tờ báo của bọn phản quốc đƣợc bọn phản động
quốc tế có quân đội đóng trên đất nƣớc ta bảo trợ khuyến khích. Tình hình chính
trị xã hội phức tạp đòi hỏi chính quyền cách mạng phải có bộ máy quản lý báo
chí cứng rắn để giúp cho nhân dân nắm bắt những thông tin chính xác đúng với
bản chất của nó, phù hợp với lợi ích của nhân dân và đất nƣớc.
1.2. Tình hình hoạt động của dòng Báo chí cách mạng
Sự phát triển của báo chí cách mạng tại thời điểm này có sự tồn tại của
những tờ báo cách mạng vốn xuất hiện từ trƣớc năm 1945 cũng nhƣ vừa xuất


- 17 -


hiện sau đó là: Cờ giải phóng (Cơ quan ngôn luận của Trung ƣơng Đảng), Cứu
quốc (Cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Tổng bộ Việt Minh), Hồn nước (Cơ
quan tuyên truyền cổ động Trung ƣơng Việt Nam thanh niên cứu quốc hội)… ;
và cả những tờ báo yêu nƣớc nhƣ Độc lập (Cơ quan ngôn luận của Đảng Dân
chủ), Tiến lên (Đảng xã hội Việt Nam)… Chúng ta còn phải kể lực lƣợng khá
hùng hậu báo chí của các tổ chức cách mạng của quần chúng nhƣ: Lao động
(Công đoàn cứu quốc), Tiên phong (Cơ quan vận động văn hóa mới của Hội văn
hóa cứu quốc), Sao vàng (Cơ quan tuyên truyền và huấn luyện binh sĩ), Tiếng
gọi phụ nữ (Cơ quan tuyên truyền cổ động của Hội phụ nữ cứu quốc), Dân chủ
(Cơ quan ngôn luận của Hội Việt Minh Hải Phòng), Quyết chiến (Cơ quan ủng
hộ chính quyền nhân dân cách mệnh tỉnh Thừa Thiên Huế), Quyết thắng (Cơ
quan tuyên truyền tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ), Tạp chí Ánh sáng (Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Trung Bộ), Sự thật (Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các
Mác ở Đông Đƣơng), Đồng minh (Việt Nam cách mạng đồng chí hội), Gió mới
(Tổng hội sinh viên cứu quốc), Quốc hội (Cơ quan của Quốc hội ra trong dịp
tổng tuyển cử), Cảm tử (Cơ quan tuyên truyền của Mặt trận tuyền tuyến)…
Tại thủ đô Hà Nội, báo chí cách mạng ngày càng giành đƣợc tín nhiệm
của đông đảo bạn đọc. Báo chí tại Hà Nội phát triển chƣa từng thấy. Chỉ trong
một thời gian ngắn, số báo xuất bản ở thủ đô từ hơn 10 tờ lên tới 100 tờ bao gồm
cả báo chí cách mạng và các loại báo chí khác (Hội nhà báo Hà Nội. Báo chí Hà
Nội - một chặng đường lịch sử (1954-1993). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995). Những tờ báo cách mạng đã in và phát hành ở bên ngoài, nay chuyển vào
Thủ đô, tiếp tục xuất bản đều đăng ký hợp pháp. Nhiều tờ báo mới của các tổ
chức đoàn thể ra đời trong lòng thủ đô nhƣ: Dân nước (Đoàn thanh niên cứu
quốc Hà Nội), Thiếu niên (Ban Chấp hành Thanh niên Hoàng Diệu), Gió mới
(Sinh viên cứu quốc thành Hoàng Diệu), Ngoại thành dân báo (các huyện ngọai
thành Hà Nội), Chiến đấu (Quân nhân cứu quốc hội), Bình dân (Đặc san bình
dân học vụ), Bó đuốc (Cơ quan văn hóa đại chúng), Cố gắng (Bích báo tranh
đấu cổ động đời sống mới khu chợ Hôm)… Trên cơ sở máy móc của Sở vô



- 18 -

tuyến điện Bạch Mai, ngày 31.8.1945, lần dầu tiên các buổi phát thanh “Tiếng
nói Việt Nam” đƣợc truyền sóng 32 mét đi khắp thế giới. Nhà thông tin Tràng
Tiền mở cửa, trở thành điểm thông tin quan trọng của thành phố. Hà Nội cùng
cả nƣớc bƣớc vào cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chống Pháp. Báo chí cách mạng
Hà Nội lại một lần chuyển mình. Lúc này, Hà Nội chuyển thành chiến khu 11.
Thành phố chia làm ba liên khu. Trong lãnh đạo kháng chiến, Đảng bộ khu 11
ngay từ đầu đã quan tâm đến công tác báo chí. Cho nên chỉ sau ba ngày sau khi
cuộc kháng chiến bùng nổ, tờ báo Thủ đô, cơ quan tuyên truyền của Ủy ban
kháng chiến khu 11 đã ra đời. Lần đầu tiên Đảng bộ thành phố có một cơ quan
ngôn luận chính thức, trực tiếp dƣới sự lãnh đạo của mình. Xuất bản trong lòng
Hà Nội kháng chiến còn có báo Chiến thắng (lúc đầu là Cờ chiến thắng) của
Liên khu I và một số tổ chức của các khu phố trong Liên khu 1 nhƣ: Đồng Xuân
(báo của khu phố Đồng Xuân), Đông Kinh nghĩa thục (của khu phố Đông Kinh
nghĩa thục), Cảm tử (của khu phố Hoàn Kiếm), Tiền phong (của khu phố Đông
Thành). Báo tập trung ở Liên khu 1 đã nói lên rằng đây là nơi cuộc kháng chiến
không cân sức đã diễn ra ác liệt nhất. Báo in tại chổ, tại các nhà in không di
chuyển kịp nhƣ nhà in Báo Tin mới, Lê Văn Tân, Đông Pháp… Tất cả các báo
này cũng chấm dứt hoạt động cùng với tờ Thủ đô vào đầu năm 1947.
Điều kiện hoạt động báo chí ở Hà Nội có thuận lợi hơn trƣớc, giấy, mực
tuy vẫn là những sản phẩm thủ công, đƣợc dần dần cải tiến, chất lƣợng có khá
hơn trƣớc. Sản lƣợng giấy, mực in càng ngày càng nhiều, mặc dù chƣa thỏa mãn
yêu cầu của các tờ báo. Tuy nhiên, máy in cũ, kỹ thuật lạc hậu đƣợc đƣa từ Pháp
vào nƣớc ta trƣớc Thế chiến thứ hai đã mòn nhiều, phụ tùng thay thế do ta sản
xuất không bền. Tin tức trong nƣớc và nƣớc ngoài thông tin nhanh chóng. Báo
chí đƣợc xuất bản ở Anh, Pháp, Mỹ đƣợc đƣa vào Việt Nam khá đều đặn. Đồng
thời báo chí xuất bản ở Hà Nội mở rộng phát hành, giao lƣu trên nhiều nơi trong
cả nƣớc và ra nƣớc ngoài.

Cùng với tiếng súng kháng địch nổ rền khắp thành phố Sài Gòn, ngƣời
chiến sĩ cầm bút yêu Tổ quốc cũng đã xông lên hình thành mạng lƣới báo chí


- 19 -

kháng chiến tại miền Nam. Thời điểm này, báo chí cách mạng ở miền Nam có
thể kể đến các tờ báo để lại nhiều dấu ấn nhƣ: Công đoàn, sau đổi thành Cảm tử
(Tổng Công đoàn), Chống xâm lăng (Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn),
Kèn gọi lính (Ủy ban kháng chiến Nam Bộ), Thông tin kháng chiến (Xứ ủy Nam
Bộ), Tiến lên (Ủy ban kháng chiến Sài Gòn), Thống nhất, Toàn quốc kháng
chiến, sau đổi là Nhân dân Miền Nam, Tiền đạo, Tiếng súng chống xâm lăng, Tổ
quốc, The voice of Vietnam (bằng tiếng Anh), La République (tiếng Pháp), Pour
la paix (Đảng xã hội), La voix du Maquiz (Tiếng nói bưng biền, tiếng Pháp)...
Trong lúc chiến trƣờng ngày càng mở rộng, kháng chiến thành lập các chiến
khu, những trận đánh Pháp trở nên ác liệt thì báo chí kháng chiến miền Nam
không ngừng lớn mạnh, thu hút ngƣời đọc mỗi ngày thêm đông, mặc dù thực
dân Pháp nhiều lần tập trung quân đánh phá nhƣng không phá vỡ đƣợc mạng
lƣới báo chí kháng chiến. Trong tƣ thế vững mạnh đó báo chí kháng chiến là
ngƣời trợ thủ đắc lực trong các cuộc đấu tranh của báo chí nội thành, cụ thể là
cuộc đấu tranh quyết liệt của phong trào Báo chí Thống nhất Nam Bộ. Với mục
đích đấu tranh cho một nƣớc Việt Nam thống nhất, ủng hộ Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chủ tịch lãnh đạo, cuộc đấu tranh của báo chí công
khai tại Sài Gòn lúc đó đã đƣợc làng báo và quần chúng độc giả đồng thanh đặt
nó tên gọi là Mặt trận Báo chí Thống nhất Nam Bộ. Tám tờ báo nòng cốt của
phong trào này gồm có: Tin điển, Kiến thiết, Nam Kỳ, Tân Việt, Việt Bút, Justice
(Đảng xã hội SFIO), Lendemains (nhóm văn hóa Mác xít GCM), Sud (cơ quan
hợp tác Pháp - Nam). Ngay từ những giờ phút đầu tiên phát động cuộc đấu tranh
dũng cảm, quyết liệt và đầy ý nghĩa đó của lực lƣợng báo chí xuất bản công khai
trong vùng địch tạm chiếm, một số cán bộ kháng chiến nằm tại Sài Gòn đã khéo

léo tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh cho tới ngày thắng lợi vẻ vang. Đội ngũ
Báo chí Thống nhất lúc bấy giờ gồm có: Bách Việt - Hoàng Mai (tức Mai Văn
Bộ), Phong Tử (Nguyễn Văn Hiếu), Vũ Tùng, Thiếu Sơn, Dƣơng Tử Giang,
Triệu Công Minh, Ái Lan, Khuông Việt (Lý Vĩnh Khuôn), Lê Thọ Xuân, Nam
Quốc Cang, Nguyễn Kỳ Nam, Trần Tấn Quốc, Ngọa Long, Tam Đức, Lê Tràng
Kiều, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Lý Văn Sâm, Việt Quang, Thuần Phong,


- 20 -

Tô Nguyệt Đình, Tế Xuyên, Thanh Phong, Nguyên Dân, Từ Thành, Lê Quế,
Hoa Đƣờng… Trừ hai ngƣời là đảng viên cộng sản và một số có chân trong
đảng Xã hội SFIO, số còn lại không đảng phái, thực sự yêu nƣớc, có nhiệt tình
cách mạng. Đây cũng là một đặc điểm lớn của cuộc đấu tranh của báo chí Sài
Gòn, vừa tập hợp đông đảo báo chí thành một mặt trận thống nhất, vừa quy tụ
đƣợc một lực lƣợng ký giả yêu nƣớc chƣa từng có, lại vừa kết hợp một số báo
Pháp ngữ do ngƣời Pháp cấp tiếng chủ trƣơng, cùng nói lên một tiếng nói chung
đấu tranh cho một nƣớc Việt Nam độc lập và thống nhất, chống nhà cầm quyền
thực dân Pháp và bọn tay sai chủ trƣơng phân ly. Phong trào Báo chí Thống nhất
Nam Bộ là một kỳ tích và cũng là một biểu tƣợng tuyệt vời của báo chí trong
giai đoạn đấu tranh chính trị gay go, quyết liệt không khoan nhƣợng giữa ta và
địch.
Ngoài những tờ báo lớn của Đảng ta và các chính đảng khác chịu sự lãnh
đạo của Đảng và các đoàn thể quần chúng, chúng ta còn thấy một loạt báo chí
địa phƣơng và báo ngành xuất hiện trên khắp chiều dài lãnh thổ đất nƣớc. Chúng
ta có thể kể đến những tờ tiêu biểu sau: Đường sắt bán nguyệt san (Tạp chí xã
hội, văn chƣơng, nghị luận của Ga Hà Nội), Kiến thiết (Việt Nam nhân dân cứu
quốc hội), Sức khỏe (Cơ quan truyền bá vệ sinh và tân y học của Tổng hội sinh
viên Việt Nam), Việt Nam khoẻ (Cơ quan vận động phổ thông thể dục, thể thao
của Nha thể dục trung ƣơng Việt Nam), Việt Nam kinh tế nguyệt san (Bộ quốc

dân kinh tế xuất bản), Khu giải phóng (Mặt trận Việt Minh miền núi vùng Đông
Bắc), Đại chúng (Hội văn hóa cứu quốc Trung Bộ), Thái Bình (Tuần báo văn
hóa cứu quốc tỉnh Thái Bình), Tiến hóa (Văn hóa cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi),
Tay thợ (Cơ quan tuyên truyền tranh đấu của công nhân Trung Bộ), Đường sắt
(Công nhân hỏa xa), Chiến khu (Vệ quốc đoàn Quân khu 1), Nhà giáo (Liên
đoàn giáo giới Việt Nam), Xung phong (Thanh niên tỉnh Hà Nam), Tranh đấu
(Cơ quan thông tin tuyên truyền văn hóa tỉnh Thái Bình), Tiến thẳng (Thiếu nhi
Việt Nam), Thẳng tiến (Hƣớng đạo sinh Việt Nam), Quân Bạch Đằng (Vệ quốc
đoàn chiến khu 3), Nam Định kháng chiến, Sông Tuân vương, E’tincelle (Tia


- 21 -

sáng, tiếng pháp) (Nam Định), Dân nguyện (Thành phố Hải Phòng), Đội Cấn
(Thái Nguyên), Bãi sậy (Hƣng Yên), Kinh tế (Ủy ban hành chính bộ), Vui sống
(Cục quân y Bộ quốc phòng), Canh nông, Tấc đất (Cơ quan cổ động sản xuất
của Bộ Canh nông), Công an mới (Sở công an Bắc Bộ), Dân quyền (Đảng bộ
thành phố Vinh - Nghệ An), Dân mới (Cơ quan tuyên truyền và huấn luyện của
Mặt trận Việt Minh Thanh - Nghệ - Tĩnh), Tiến lên (Tỉnh ủy Nghệ An), Cứu
quốc (Mặt trận Liên Việt Liên khu 4), Gái ra trận (Tỉnh hội Phụ nữ cứu quốc
tỉnh Thanh Hóa), Tiến (Mặt trận Việt Minh tỉnh Thanh Hóa), Liên minh, Thống
nhất (Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Quảng Bình), Dân muốn (Ty thông tuyên truyền
Quảng Bình), Tin Quảng Trị (Bản tin tuyên truyền của Tỉnh ủy và Chính quyền
tỉnh Quảng Trị), Đại chúng (Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Trung Bộ), Kinh tế
(Cơ quan kinh tế Mặt trận Việt Minh khu vực Thuận Hóa), Hừng Sáng (Tỉnh ủy
Quảng Nam), Chơn độc lập (Mặt trận Việt Minh Quảng Ngãi), Tiếng vang (Cơ
quan thông tin kháng chiến của tỉnh Quảng Ngãi), Việt Nam (Tỉnh bộ Việt Minh
tỉnh Khánh Hòa), Hồn trẻ (Cơ quan của lực lƣợng hoạt động văn hóa, văn nghệ
tỉnh Phú Yên), Quyết tiến (Tỉnh đoàn thanh niên Cứu quốc tỉnh Bình Thuận),
Chiến đấu, Vệ quốc quân cực Nam (Trung đoàn 812-Bộ đội địa phƣơng tỉnh

Bình Thuận), Thống nhất (Ủy ban hành chính thị xã Phan Thiết), Sáng (Thị
đoàn Thanh niên cứu quốc thị xã Phan Thiết), Tin tức (Ủy ban kháng chiến Liên
khu 2)…
Đồng thời, tại thời điểm 1945-1946, chúng ta còn chứng kiến sự xuất hiện
của hai cơ quan báo chí độc đáo khác: sự ra đời của Đài Tiếng nói Việt Nam và
Việt Nam thông tấn xã. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 7.9.1945, với nhạc hiệu “Diệt
phát xít” và lời xƣớng “Đây là Đài Tiếng nói Viết Nam, phát thanh tại Hà Nội,
thủ đô nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa” đƣợc phát lên qua làn sóng điện - đây
cũng là thời điểm khai sinh ra ngành phát thanh non trẻ trong làng báo chí cách
mạng của đất nƣớc ta. Sự ra đời của Đài tạo ra một ấn tƣợng mạnh mẽ trong
họat động thông tin tuyên truyền cách mạng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, chúng ta tiếp quản Đài phát thanh Bạch Mai của chế độ xã hội cũ. Do


×